ình hình đột nhiên thay đổi hẳn. Những tiếng rú kinh hồn náo động không trung. Ô-tô phóng như bay, hai cái, rồi ba cái, rồi mười hai cái. Những người ngồi trên quát ầm lên bảo chúng tôi tránh. Một cái đang lao vun vút ở giữa phố bỗng lái quặt hẳn đi và tiếp theo đó là một quả bom nổ, khoét một cái hố lớn trên mặt đường. Thấy cảnh sát chạy xô sang các phố ngang, chúng tôi biết sắp xảy ra chuyện gì ghê gớm. Chúng tôi nghe thấy tiếng gào thét mỗi lúc một to. - Các đồng chí anh dũng của chúng ta đang kéo đến, - Hartman bảo.
Chúng tôi bắt đầu thấy đội ngũ của họ đi chật cả đường phố vừa lúc cái ô-tô quân sự cuối cùng bỏ chạy. Chiếc ô-tô đỗ lại một lát ngay trước mặt chúng tôi. Một tên lính nhảy xuống, tay ôm một vật gì rất cẩn thận và đặt vật đó xuống dưới rãnh một cách không kém phần cẩn thận. Rồi nó nhảy vụt lên xe lại phóng vụt đi, quặt sang một phố ngang mất hút. Hartman chạy vội ra rãnh và cúi lom khom trên vật ấy. - Lùi lại! - Anh kêu lên bảo tôi. Tôi thấy hai tay anh nhanh thoăn thoắt. Khi anh quay lại phía tôi, mồ hôi trên trán anh vã đầm đìa.
- Tôi tháo được kíp ra rồi, - anh bảo. - Thằng lính nó vụng quá. Nó định hại các đồng chí chúng mình, nhưng nó để ít thì giờ quá. Đáng lẽ quả bom nổ hơi sớm. Nhưng bây giờ thì nó không nổ được nữa rồi.
Mọi việc lúc này xảy ra dồn dập. Bên kia đường cách độ nửa dãy nhà, từ trên một toà nhà cao ngất, chúng tôi thấy mấy cái đầu thò ra. Tôi vừa chỉ cho Hartman thấy thì một vầng lửa khói đã từ trên rớt xuống theo dọc cái nhà đó, tiếp theo là một tiếng nổ xé trời. Mặt tường đằng trước của toà nhà đó bị vỡ ở nhiều chỗ, để lòi cả cốt sắt bên trong. Một lúc sau những vầng lửa và khói cũng giống như thế phá vỡ từng mảnh những mặt tường của toà nhà đối diện. Xen vào những tiếng nổ lớn, chúng tôi nghe thấy tiếng tiểu liên và những tiếng súng lục tự động nổ dền. Cuộc giao chiến ở lưng chừng giời đó kéo dài trong nhiều phút rồi im bặt. Rõ ràng các đồng chí của chúng tôi ở trong một toà nhà, còn bọn lính đánh thuê thì chiếm toà nhà trước mặt, và hai bên đang bắn nhau qua phố. Nhưng chúng tôi không thể nói được bên nào là bên nào. Không biết toà nhà nào là do các đồng chí của chúng tôi chiếm, toà nhà nào do bọn lính đánh thuê chiếm.
Giữa lúc ấy, dòng người tiến vào trong phố đi gần đến chỗ chúng tôi. Lúc mấy hàng đầu đi ngang qua những toà nhà đang đánh nhau, cả hai bên lại hoạt động. Một bên ném bom xuống dưới phố liền bị bên kia tấn công là bắt buộc phải đối phó lại. Do đó mà chúng tôi biết toà nhà nào do các đồng chí chúng tôi chiếm lĩnh. Họ làm như vậy rất có lợi vì đã cứu được những người đồng chí dưới phố khỏi bị quân địch ném bom xuống. Hartman nắm lấy cánh tay và kéo tôi vào một cái cổng lớn. - Không phải đồng chí chúng mình đâu! - Hartman nói như thét vào tai tôi.
Những cửa đi vào bên trong đều đã khoá chặt. Chúng tôi không trốn đi đâu được. Một lúc sau, những hàng người đi đầu đổ tới. Đây không phải là một đội ngũ chỉnh tề, mà là một đám ô hợp, một dòng nước lũ khủng khiếp tràn ngập đường phố. Đám dân của vực thẳm cuồng dại vì rượu và khổ ải cuối cùng đã vùng dậy và đang gầm thét đòi phanh thây uống máu bọn chủ. Trước đây, tôi đã nhìn thấy đám dân của vực thẳm, vì đã từng đi qua những khu lao động ngập ngụa, và tôi tưởng rằng mình đã hiểu rõ họ, nhưng giờ đây, tôi thấy rằng tôi đang nhìn họ lần này là lần thứ nhất. Cái vẻ lãnh đạm âm thầm của họ đã biến hẳn. Trông họ lúc này đầy năng động tính và rất dễ sợ. Họ đổ qua trước mặt chúng tôi thành những làn sóng cụ thể của sự giận dữ, gầm lên, rít lên, y hệt một lũ thú ăn thịt sống, say vì rượu vừa cướp được trong các kho, say vì căm thù, say vì máu - một đám đàn ông, đàn bà, trẻ con, rách bươm như xơ mướp, với những bộ óc tối tăm, hung dữ, đã mất cả cái cốt cách thiêng liêng giống như thần thánh mà chỉ còn là một bầy ma quái, một đàn vừa bú dù vừa cọp, một lũ ho lao gầy mòn, một lũ súc vật tải đồ đầy lông lá với những bộ mặt đã bị cái xã hội lang sói hút hết cả nhựa sống, với những thân hình sưng húp lên vì thú tính và tội lỗi, với những cái đầu tử thần và râu tóc xồm xoàm, với một lứa tuổi thanh niên thối tha và một lứa tuổi già thối tha. Một lũ quỷ thân hình cổ quái, xiêu vẹo, bị tàn phá bởi bệnh tật và mối lo sợ kinh niên vì đói khát - rác rưởi và cặn bã của cuộc đời, một bầy ô hợp điên cuồng đang gầm lên, hung hăng như một đàn quỷ dữ.
Chứ còn sao nữa? Đám dân của vực thẳm, họ chẳng có gì mà sợ mất, ngoài sự cùng cực và nỗi đau khổ phải sống ở trên đời. Và họ được thì được cái gì? Chẳng được gì hết, trừ một trận trả thù no nê và khủng khiếp. Và trong lúc nhìn họ, tôi chợt nghĩ trong ngọn thác người cuồn cuộn cháy rực như nham thạch này, có những người, những đồng chí, những anh hùng của chúng tôi, sứ mạng của họ là lay thức con mãnh thú của vực thẳm khiến cho quân thù phải bận tâm đối phó với nó.
Và bây giờ thì một việc lạ lùng xảy đến với chúng tôi. Tự nhiên tôi thấy mình đổi khác hẳn. Tôi không sợ mình chết, cũng không sợ người khác chết nữa. Tôi hăng lên và thành một người khác, trong một cuộc sống khác. Không cần gì hết. Sự nghiệp bị thất bại một lần này, nhưng sự nghiệp sẽ thành công ở đây ngày mai, vẫn là sự nghiệp này, một sự nghiệp luôn luôn tốt tươi, luôn luôn cháy rực. Và sau đó, trong cái cảnh khủng khiếp diễn ra mấy giờ sau, tôi đã có thể giữ một thái độ rất bình tĩnh. Chết không có nghĩa lí gì. Tôi là một khán giả chăm chú theo dõi các biến cố và có lúc bị dòng thác cuốn đi, chính tôi lại là người tham gia, thế mới kì cục. Bởi vì tâm trí tôi đã bay bổng lên những vì sao giá lạnh và đã nắm lấy một cái thước đo để đo các giá trị một cách thản nhiên. Nếu không thế thì tôi đã chết rồi.
Đám người ô hợp đi qua chừng một nửa dặm thì phát hiện ra chúng tôi. Một người đàn bà rách như tổ đỉa, hai má hóp sâu và đôi mắt đen ti hí sắc như dao chợt nom thấy Hartman và tôi. Người đó thét lên lanh lảnh, xông lại. Một bộ phận của đám người ô hợp kia chạy ùa theo. Ngay lúc ngồi viết những dòng này, tôi còn tưởng chừng nom thấy mụ ta nhảy xổ đến chỗ tôi trước mọi người chừng một bước, mái tóc hoa râm rối bù bay tạt lại đằng sau, máu từ một vết thương trên đầu chảy xuống dòng dòng, tay phải cầm một cái rìu bổ củi, bàn tay trái nhăn nheo khô đét co quắp như móng diều hâu. Hartman nhảy xổ ra đứng trước mặt tôi. Lúc đó không phải là lúc giải thích dài dòng. Chúng tôi ăn bận tươm tất, thế là đủ rồi. Anh thoi một quả vào giữa hai con mắt cháy rực của mụ đàn bà. Quả đấm chắc nịch của anh làm cho mụ ta suýt ngã bổ chửng, nhưng va phải bức tường người ở đằng sau, mụ bật trở lại đằng trước và lảo đảo vung chiếc rìu chém xuống vai Hartman.
Sau đó, tôi không còn biết chuyện gì ra chuyện gì nữa. Tôi bị chìm ngập trong đám đông. Chỗ hành lang tôi đứng ầm ầm những tiếng thét, những tiếng la, những tiếng chửi rủa. Người ta đánh tôi tới tấp. Người ta túm lấy tôi xé quần, xé áo, xé cả thịt nữa. Tôi cảm thấy mình bị xé ra thành từng mảnh. Tôi bị đè dí xuống đất, không thở được. Giữa lúc tôi không chịu được nữa, một bàn tay hộ pháp nắm lấy vai tôi lôi đi. Đau quá và bị đè nặng quá, tôi bất tỉnh nhân sự. Hartman thì không bao giờ ra khỏi nơi này. Anh đã đứng ra che chở cho tôi và đã bị họ xông vào đánh trước nhất. Nhờ thế mà tôi thoát chết, vì khi họ kéo vào chật như nêm cối rồi thì cũng không còn cách đánh nào khác là lấy tay cấu xé một cách điên cuồng.Tôi tỉnh lại giữa một trận náo động điên cuồng. Chung quanh tôi, mọi thứ đều tán loạn cả lên như thế. Tôi bị kẹp giữa một trận lụt người kì quái, nó cuốn tôi đi, không biết là đi đâu. Không khí mát rượi tắm vào hai má và tràn vào hai phổi tôi rất dễ chịu. Tôi bị kiệt sức và chóng mặt quá, chỉ còn biết lơ mơ rằng có một cánh tay rất khoẻ xốc lấy người tôi và lôi tôi đi. Chân tôi bước theo bủn rủn. Đằng trước mặt, tôi chẳng trông thấy gì ngoài cái lưng áo khoác của một người đàn ông. Cái áo bị rách toạc từ trên xuống dưới theo đường chỉ ở giữa và nó mở ra khép vào theo nhịp bước đi của người đó. Cái hiện tượng đó thu hút hết tâm trí tôi giữa lúc tôi dần dần tỉnh hẳn. Liền đó, tôi thấy ở má và ở mũi như có kim châm và máu me chảy đầm đìa trên mặt. Mũ tôi đã biến mất. Tóc tôi xổ ra và bay tung trước gió. Vết đau nhói trên đầu khiến tôi nhớ lại, lúc bị ép trong đám đông, có một bàn tay túm lấy tóc tôi giật. Ngực và hai cánh tay tôi đau như giần.
Óc tôi minh mẫn dần. Tòi vừa chạy vừa nhìn người đàn ông đang xốc tôi đi. Chính người này đã kéo tôi ra để cứu tôi. Người đàn ông nhận thấy cử động của tôi. - Tốt lắm! - Người đó kêu lên bằng một giọng khàn khàn. - Ban nãy, tôi nhận ra chị ngay.
Tôi không nhận ra người đó, nhưng trước khi nói được thành tiếng, tôi giẫm phải vật gì còn sống đang quằn quại dưới chân, tôi bị những người đi sau đẩy lên cho nên không nhìn xuống được. Tuy vậy, tôi vẫn biết đó là một người đàn bà bị ngã và đang bị hàng nghìn bàn chân giẫm bẹp dí xuống mặt đường. - Tốt lắm, - người đàn ông nhắc lại. - Tôi là Garthwaite.
Anh râu ria xồm xoàm, nét mặt hốc hác, người ngợm bẩn thỉu, nhưng tôi vẫn nhớ ra anh, người thanh niên lực lưỡng đã sống ròng rã hàng tháng trời trong hầm trú ẩn của chúng tôi ở Glen Ellen ba năm về trước. Anh truyền đạt cho tôi mấy mật hiệu của cơ quan mật vụ của cái Gót sắt, đã làm bằng chứng rằng chính anh cũng làm việc ở cơ quan đó.
- Hễ lựa được dịp tốt là tôi sẽ đưa chị ra khỏi chỗ này ngay, - anh nói cho tôi yên lòng. - Nhưng chị phải đi cho vững. Chị muốn sống thì đừng có để sảy chân, đừng có ngã.
Mọi việc hôm ấy xảy ra đều đột ngột. Đám người ô hợp đang xô lên phía trước cũng đột ngột đứng dừng lại. Tôi đâm sầm phải một người đàn bà to béo đi trước mặt (người đàn ông mặc áo khoác rách lưng đã biến đi đâu mất), còn những người đi sau thì đâm sầm cả vào tôi. Một cảnh đau thương hỗn loạn diễn ra không khác gì dưới địa ngục: tiếng gào thét, tiếng chửi rủa, tiếng kêu rên hấp hối vang lên, và nổi bật lên hơn cả tiếng nổ giòn giã của súng liên thanh là tiếng nổ đì đẹt của súng trường. Bên trái tôi, bên phải tôi, hết người này đến người khác ngã. Người đàn bà trước mặt tôi gập đôi người ngã xuống, đưa hai tay ôm bụng và giãy giụa điên cuồng.
Thế là tôi đi lên hàng đầu của đoàn người. Một phần cái đoàn người đó dài chừng một nửa dặm Anh đã biến mất - biến đi đâu và bằng cách nào, tôi không biết, họ đã bị một thứ vũ khí kinh khủng nào tàn sát mất rồi, hay đã bị đánh tan tác ra rồi tiêu diệt từng mảng, hay đã trốn thoát. Nhưng điều chắc chắn là chúng tôi đang dẫn đầu đoàn người chứ không phải đi ở giữa, và một làn mưa đạn đang réo lên, quét chúng tôi vào cõi chết.
Ngay khi cái chết xô đến giãn đoàn người ra, Garthwaite từ nãy vẫn nắm chặt cánh tay tôi liền dẫn một số người sống sót chạy ùa vào cái cửa lớn của một công thự. Chúng tôi đứng ở đằng sau, áp vào cửa trong và một khối người hổn hển, run như cầy sấy ép chặt lấy chúng tôi. Chúng tôi đứng như thế một lúc, nhưng tình hình vẫn không thay đổi.
- Thật là đẹp! - Garthwaite phàn nàn. - Tôi đã đưa chị vào một cái bẫy. Giá cứ chạy ở ngoài phố lại còn có cơ thoát, vào đây thì thôi, hết! Chỉ còn một cách là hô cho to lên: "Cách mạng thành công muôn năm!"
Rồi cái điều mà anh chờ đợi bắt đầu. Bọn lính đánh thuê bắn giết không chừa một ai. Sức ép mới đầu rất ghê gớm, về sau giảm dần. Những người đã chết và đang chết ngã gục xuống thì chỗ đứng lại rộng ra. Garthwaite ghé vào tận tai tôi hết rất to. Nhưng giữa tiếng huyên náo kinh khủng tôi không nghe rõ tiếng anh nói gì. Anh không đợi nữa. Anh nắm lấy tôi, đẩy tôi ngã xuống đất. Tiếp đó, anh kéo xác một người đàn bà hấp hối lại đắp lên người tôi. Rồi anh lách, anh đẩy, và cuối cùng bò vào được sát bên tôi. Anh lấy thân mình che thêm cho tôi. Xác người chết và xác người hấp hối chồng chất lên chúng tôi, và bên trên đống xác chết đó, những người sống sót bò lồm cồm, kêu la thảm thiết. Nhưng rồi tất cả cũng đều chấm dứt, và tiếp đó là một sự im lặng nửa vời cắt đứt bởi những tiếng rên, những tiếng nức nở, những tiếng ằng ặc trong cổ họng.
Giá không có Garthwaite thì tôi cũng đến chết bẹp. Tuy vậy nhưng vẫn còn nặng lắm, không ai có thể tưởng tượng được rằng tôi đã chịu nổi một sức nặng như vậy và vẫn còn sống sót đến hôm nay. Ngoài sự đau đớn ra cảm giác duy nhất của tôi lúc ấy là một cảm giác hiếu kì. Cuộc tàn sát rồi sẽ kết thúc như thế nào? Cái chết sẽ như thế nào? Tôi đã được làm lễ rửa tội bằng máu như thế đấy, một cái lễ rửa tội đỏ, trong cái lò sát sinh Chicago. Trước đó, cái chết chỉ là một vấn đề lí thuyết; nhưng về sau tôi thấy chết chỉ là một chuyện rất đơn giản, bởi vì chết dễ thế kia mà!
Tuy nhiên, bọn lính đánh thuê vẫn chưa thoả mãn. Chúng xông đến giết nốt những người bị thương và những người nguyên lành đang giả vờ chết như chúng tôi. Tôi còn nhớ có một người đàn ông bị lôi ra khỏi đống xác đã van xin một cách hèn hạ cho đến khi bị một viên đạn súng lục cắt lời. Rồi có một người đàn bà nằm trong một đống xác chết đứng phắt dậy vừa rít lên, vừa bắn. Chị bắn được sáu phát trước khi bị bắn chết. Chúng tôi không rõ chị có làm được gì chúng nó không. Chúng tôi theo dõi tất cả những tấm thảm kịch ấy toàn là bằng tai thôi. Chốc lại xảy ra một cảnh náo động như thế và mỗi cảnh náo động đều kết thúc bằng một tiếng súng lục nổ. Xen vào đó, chúng tôi nghe thấy bọn lính vừa khám xác chết vừa nói, hoặc vừa chửi rủa, còn bọn sĩ quan thì thúc chúng làm mau tay lên.
Cuối cùng, bọn chúng đến làm ở chúng tôi. Chúng càng lôi xác chết và người bị thương đi thì sức nặng trên người chúng tôi càng giảm. Garthwaite bắt đầu kêu mật hiệu. Mới đầu bọn chúng không nghe thấy. Anh liền kêu to hơn. - Nghe đây này! - Một tên lính nói. Tức thì một viên sĩ quan ra lệnh cộc lốc. - Cẩn thận! Nhẹ tay chứ!
Chao ôi, lúc chúng tôi bị bọn chúng kéo ra cái hơi gió mát ở bên ngoài mới quý giá làm sao chứ! Garthwaite nói trước. Còn tôi thì bị chúng thử một lúc để xem có đúng là làm việc cho cái Gót sắt không. - Đúng là nhân viên khiêu khích, - viên sĩ quan kết luận. Y là một thanh niên mày râu nhẵn nhụi, một học sinh sĩ quan trông cũng biết ngay là dòng dõi bọn thiểu số thống trị. - Nghề với ngỗng phải gió! - Garthwaite làu bàu. - Tôi cũng đến bỏ nghề này xin sang quân đội thôi! Các ông thật là may.
- Anh cũng đáng, - viên sĩ quan đáp. - Tôi sẽ giúp anh một tay, để xem có được không. Tôi sẽ nói để họ biết rằng, tôi đã tìm thấy anh trong tình trạng như thế nào. Viên sĩ quan ghi tên và số của Garthwaite, rồi quay sang tôi. - Thế còn chị? - Ồ, tôi sắp sửa lấy chồng rồi, - tôi thong thả đáp. - Lúc ấy thì tôi sẽ bỏ cái nghề này, bỏ hết.
Thế là chúng tôi đứng nói chuyện trong lúc bọn lính tiếp tục giết những người bị thương. Bây giờ nhìn lại thì tôi thấy như mình mê ngủ, nhưng lúc ấy thì sự đó chỉ là việc tự nhiên nhất trên đời. Garthwaite và viên sĩ quan trẻ tuổi mải miết nói chuyện về sự khác nhau giữa cái gọi là chiến tranh hiện đại với cuộc chiến đấu đường phố và chiến đấu ở nhà chọc giời hiện nay đang diễn ra khắp trong thành phố. Tôi cố làm ra vẻ đang nghe nói chuyện, đồng thời sửa lại mái tóc và lấy ghim ghim những chỗ bị rách. Suốt lúc đó, bọn lính vẫn tiếp tục giết những người bị thương và hai bên bắt buộc phải nhắc lại điều mình vừa nói.
Tôi đã sống suốt ba ngày công xã Chicago. Phải nói rằng lúc đó tôi không trông thấy gì ngoài sự tàn sát đám dân của khu vực thẳm và những cuộc chiến đấu ở lưng chừng không khí, giữa những nhà chọc giời; như vậy các bạn cũng đủ tưởng tượng được rằng quy mô của công xã và của cuộc tàn sát lớn lao đến thế nào. Thật ra tôi hoàn toàn không trông thấy việc làm anh dũng của các đồng chí chúng tôi. Tôi chỉ nghe thấy tiếng mình và tiếng bom của họ nổ, chỉ nhìn thấy khói ở các đám cháy do họ gây ra, có thế thôi. Tuy nhiên, tôi đã mục kích một hành động vĩ đại của các đồng chí chúng tôi, khi họ tấn công các pháo đài bằng khinh khí cầu. Việc đó xảy ra vào ngày thứ hai của công xã. Ba trung đoàn làm phản đã bị thủ tiêu không còn một mống. Bọn lính đánh thuê đóng chật ních các pháo đài. Gió thuận chiều, và từ một công thự trong thành phố, khinh khí cầu của chúng tôi bay lên.
Biedenbach, sau khi ở Glen Ellen ra, đã chế tạo được một thứ thuốc nổ hết sức mạnh, anh gọi là "expedite". Các khinh khi cầu đều dùng thứ võ khí đó. Khinh khí cầu của chúng tôi là những quả bóng to bơm bằng hơi nóng, làm vội vàng và thô sơ, nhưng rất được việc. Đứng trên nóc một công thự tôi nhìn thấy rất rõ. Quả khinh khí cầu thứ nhất hoàn toàn đi chệch khói pháo đài, và biến mất ra vùng quê; nhưng về sau chúng tôi cũng được nghe nói về nó. Burton và O'Sullivan ngồi trên đó. Lúc khinh khí cầu hạ xuống đất, họ lướt qua đường sắt, đứng trên đầu đoàn tàu đưa lính đang lao hết tốc lực về Chicago. Họ trút tất cả chỗ bom "expedite" xuống đầu máy xe lửa. Đoàn tàu bị phá khiến đường xe lửa bị tắc luôn mấy ngày. Tuyệt nhất là trút xong bom, quả khinh khí cầu cất được gánh nặng lại vút lên trời và bay đi xa được chừng sáu dặm nữa. Thành ra cả hai người anh hùng của chúng tôi đều trốn thoát.
Quả cầu thứ hai bị thất bại. Nó bay không được tốt. Nó không lên được cao, thành thử bị bắn thủng tứ tung trước khi đến được pháo đài. Herford và Guinness ngồi trên đó rơi xuống đất chết tan xác. Biedenbach đang lúc thất vọng và - sau chúng tôi mới biết chuyện đó - một mình trèo lên quả cầu thứ ba. Anh cũng bay rất thấp, nhưng may chúng nó bắn không trúng. Lúc này tôi còn thấy rõ mồn một cái cảnh ấy cũng như khi xưa đứng tít trên một toà nhà chọc trời, có một người treo lủng lẳng ở dưới trông như một cái chấm đen. Khi ấy, tôi không nhìn thấy pháo đài, nhưng những người đứng trên mái nhà cùng với tôi bảo rằng Biedenbach bay đúng lên trên pháo đài. Tôi không trông thấy bom "expedite" rơi xuống. Nhưng tôi có thấy quả cầu bất thình lình bay vụt lên. Một lúc sau cũng khá lâu, một cột khói lớn cuộn lên trời và sau đó tôi nghe thấy tiếng nổ như sấm. Biedenbach, anh thanh niên hiền lành đã phá được một pháo đài. Liền lúc ấy có hai quả cầu khác bay theo. Một quả vỡ nát trên trời, vì bom "expedite" nổ, và hơi bom đẩy quả thứ hai rơi xuống đúng cái pháo đài còn lại. Đồng chí chúng tôi hi sinh, nhưng giá có đặt kế hoạch trước thì cũng không thể tuyệt như thế được.
Nhưng thôi, trở lại đám dân của vực thẳm. Thật ra tôi chỉ biết về họ thôi. Họ cuồng lên, tàn sát, phá phách tất cả trong khu vực chính của thành phố và cũng bị tàn sát trở lại. Nhưng không một lần nào họ lọt được vào khu bọn thiểu số thống trị ở, về phía tây thành phố. Bọn thiểu số thống trị tự vệ rất có hiệu quả. Khu trung tâm thành phố dù có bị phá phách cũng không hề gì, vì chúng và vợ con chúng vẫn bình chân như vại. Tôi được nghe nói những ngày khủng khiếp ấy, con cái chúng vẫn chơi ở vườn hoa, và trò chơi chúng thích nhất là bắt chước cha anh chúng lấy chân dí lên trên những người vô sản.
Tất nhiên bọn lính đánh thuê thấy đối phó đối với đám dân của vực thẳm và đồng thời đánh nhau với các đồng chí chúng tôi không phải là chuyện dễ. Chicago rất trung thành với những truyền thống của mình và dù cho một thế hệ những người cách mạng có bị quét sạch thì nó cũng kéo theo nó một thế hệ kẻ thù. Cố nhiên, cái Gót sắt giữ bí mật các số liệu, nhưng theo số ước đoán rất thận trọng thì ít ra cũng có tới một trăm ba mươi ngàn lính đánh thuê bị tiêu diệt. Nhưng các đồng chí chúng tôi thật không may. Đáng lẽ tất cả nước cùng vùng lên khởi nghĩa thì chỉ có mình họ, và tập đoàn thiểu số thống trị có thể dồn toàn bộ lực lượng để đối phó với họ. Thành ra hết giờ này sang giờ khác, hết ngày này sang ngày khác, xe lửa của chúng chạy nườm nượp trên các ngả đường, tung vào Chicago hàng trăm ngàn quân đánh thuê.
Nhưng đám dân của vực thẳm cũng đông lắm. Khi đã mệt vì bắn giết, bọn lính bắt đầu lùa họ đi như một lũ súc vật, cốt để dìm chết họ dưới hồ Michigan. Garthwaite và tôi gặp tên sĩ quan trẻ tuổi đúng vào lúc việc đó bắt đầu. Kế hoạch lùa dân của chúng đã bị thất bại nhờ có việc làm tuyệt diệu của các đồng chí chúng tôi. Bọn lính đánh thuê tưởng có thể bắt một đám người rất lớn, nhưng cuối cùng chúng chỉ lùa được chừng bốn vạn người khốn khổ xuống dưới hồ. Nhiều lần, chúng vừa ráp được một đoàn và đang lùa họ đi qua các phố thì bị đồng chí chúng tôi dử cho phải đối phó. Lưới bao vây của chúng thế là bị chọc thủng và đám quần chúng cứ thế tìm thấy chỗ chúng sơ hở mà tẩu thoát.
Sau khi gặp viên sĩ quan trẻ tuổi được một lúc, Garthwaite và tôi đã được chứng kiến một ví dụ như thế. Đám quần chúng ô hợp bị đánh lui lúc ban nãy, trong đó có chúng tôi, bị những đơn vị rất mạnh chặn không cho trốn về phía đông và phía nam. Còn đơn vị bộ đội mà chúng tôi gặp phải thì chặn ở phía tây. Chỉ còn một lối là phía bắc, và đám quần chúng bị đại liên và tiểu liên lùa từ phía đông phía tây và phía nam kéo cả về phía bắc tức là phía bờ hồ. Tôi không hiểu có phải tại họ đoán ra rằng họ đang bị lùa về phía hồ không, hay đó chỉ là cơn giãy giụa mù quáng của một con quái vật; nhưng dẫu sao, đám người ô hợp rẽ sang một phố khác nữa rồi quay trở lại phía nam, quay về khu lao động lớn.
Lúc đó, Garthwaite và tôi cố lách lấy một lối đi về phía tây để tẩu thoát khỏi cho hai bên giao tranh, nhưng chúng tôi lại rơi vào một trận địa khác. Vừa đi đến một góc phố, chúng tôi đã thấy một đám quần chúng ô hợp đang gào thét đổ xô về phía chúng tôi. Garthwaite nắm lấy cánh tay tôi và chúng tôi sắp sửa chạy thì anh lại kéo giật tôi lại để khỏi đâm vào bánh xe của sáu chiếc ô-tô thiết giáp có đem đại liên đang sấn đến chỗ đó. Phía sau xe thiết giáp có những toán lính trang bị bằng tiểu liên chạy đến.
Chúng đang bố trí trận địa thì đám quần chúng ô hợp đổ tới, tưởng chừng sắp giẫm bẹp bọn lính trước khi bọn này kịp hành động.
Đây đó có những tên lính xả súng trường vào họ, nhưng những phát súng lẻ tẻ không thể đủ sức chặn đám quần chúng ô hợp. Đám quần chúng ô hợp vẫn tiến lên, vừa đi vừa gào thét điên cuồng như một bầy thú vật. Súng liên thanh có vẻ như không hoạt động được. Những xe thiết giáp có bắc liên thanh bít chặt đường phố, thành ra bọn lính buộc phải bố trí ngay trên xe, ở những khe hở trên mặt đường và ở trên vỉa hè. Lính kéo đến mỗi lúc một đông, người ùn cả lại như nêm cối, chúng tôi không tài nào thoát ra được. Garthwaite nắm lấy cánh tay tôi và chúng tôi dán người vào tường đằng trước của một toà nhà.
Đám quần chúng ô hợp kéo đến còn cách có mười thước, đại liên mới bắt đầu hoạt động; nhưng trước cái lưới lửa chết chóc ấy không gì sống nổi. Đám ô hợp vẫn xô lại, nhưng họ không tiến lên được. Họ chồng chất lên thành đống, thành núi, thành những ngọn sông người chết và người ngắc ngoải mỗi lúc một ùn lên. Những người ở phía dưới dồn lên, và đoàn người thắt lại như chui vào ống, ở giữa hai bên rãnh phố. Những người bị thương, cả đàn ông lẫn đàn bà, gục trên cái ngọn sóng kinh khủng ấy, nhào xuống phía trước, giãy giụa, lăn đến tận bánh xe thiết giáp và chân bọn lính. Bọn này lấy lưỡi lê đâm họ. Tuy thế, tôi vẫn thấy một người chạy xô vào một tên lính, cắn vào họng nó. Cả tên lính lẫn người nô lệ cùng ngã lăn xuống một vũng bùn nhầy nhụa.
Tiếng súng im bặt. Công việc đã xong xuôi. Đám quần chúng ô hợp đã bị chặn lại, không thực hiện được âm mưu phá vỡ vòng vây nữa. Có lệnh dọn đường cho xe thiết giáp đi. Xe thiết giáp không thể tiến qua đống người chết cao ngất kia đượ, cho nên chúng định cho xe chạy xuống một phố ngang. Bọn lính lôi những xác chết ra khỏi các bánh xe thì một việc thình lình xảy đến. Về sau chúng tôi mới biết việc đó xảy đến như thế nào. Cách đó một dãy nhà, có một toà nhà độ chừng một trăm đồng chí chúng tôi chiếm. Họ đã rỡ mái và đục tường thông nhà này qua nhà khác, và đến được ngay trên đầu bọn lính đang tập trung. Thể là cuộc tàn sát phản công bắt đầu.
Bất thình lình một trận mưa bom từ trên nóc nhà chọc giời tuôn xuống. Các xe thiết giáp tan tành cùng với một số đông binh lính. Chúng tôi cùng với bọn người sống sót bỏ chạy thục mạng. Chạy xuôi được một nửa dãy phố thì một toà nhà khác xả súng vào chúng tôi. Bọn lính đã dùng xác những người nô lệ làm thảm giải lên đường phố như thế nào thì bây giờ đến lượt bản thân chúng biến thành thảm giải đường như thế. Garthwaite và tôi hình như có thẩn linh phù hộ hay sao ấy. Chúng tôi lại chạy vào ẩn ở một cái hành lang như lúc trước. Nhưng lần này thì chúng tôi không bị đánh úp nữa. Hết tiếng bom, Garthwaite thò đầu ra ngoài nhìn.
- Đám ô hợp quay trở lại! - Anh kêu lên bảo tôi. - Chạy mau ra khỏi chỗ này thôi!
Chúng tôi nắm tay nhau chạy trốn trên mặt đường ngập máu, trơn như mỡ, và đến một góc phố ở một phố ngang, chúng tôi thấy mấy tên lính chạy thục mạng. Chúng không bị làm sao cả. Con đường không bị bít. Chúng tôi nghỉ một chút và nhìn lại phía sau. Đám quần chúng ô hợp tiến lên chậm chạp. Họ còn bận nhặt súng của những kẻ đã chết và giết nốt những kẻ bị thương. Chúng tôi được mục kích những phút cuối cùng của viên sĩ quan trẻ tuổi đã cứu chúng tôi. Y đau đớn chống khuỷu tay ngóc đầu dậy, cầm khẩu súng lục tự động bắn tứ tung. Lúc một người đàn bà vung con dao phay hàng thịt nhảy xổ vào một tên lính bị thương, Garthwaite cười bảo tôi: - Không khéo ta cũng đi đứt mất! Ta đi phải hướng bất lợi rồi, nhưng thôi cứ đi. Ta tìm cách thoát.
Chúng tôi chạy về phía đông, qua những phố xá yên lặng, đến mỗi ngã tư lại phải chuẩn bị đối phó với những bất trắc có thể xảy ra. Ở phía nam, một đám cháy hết sức lớn bốc lên đỏ rực cả bầu trời, chúng tối biết là khu lao động lớn đang cháy. Cuối cùng, tôi ngồi phệt xuống vỉa hè. Tôi kiệt sức rồi, không thể đi được nữa. Chân tay tôi đau như giần, chỉ còn thiếu nước rụng rời ra. Tuy nhiên, tôi vẫn cố mỉm cười với Garthwaite khi anh vừa quấn điếu thuốc lá vừa bảo tôi:
- Tôi đưa chị đi trốn như thế này thật là đi quanh quẩn. Nhưng tôi không nắm được tình hình đầu đuôi ra sao nữa. Đúng là một mớ bòng bong. Cứ mỗi lần định thoát vòng vây là y như có chuyện phải quay trở lại. Từ lúc tôi cứu được chị ra khỏi nơi chị bị nạn, chúng ta mới đi được hai dãy phố thôi. Bạn và thù lẫn lộn lung tung. Thật là hỗn loạn. Đố mà biết được rằng bên nào chiếm những toà nhà chết tiệt này. Đi điều tra thì ăn bom vào đầu. Đi thản nhiên trên đường thì hoặc là phải nhập vào đám dân ô hợp và bị liên thanh quạt, hoặc là đến với bọn lính đánh thuê và bị chính các đồng chí của mình nấp ở các mái nhà giết. Ấy là chưa kể rằng lúc đám dân ô hợp trên, chính họ cũng lại giết mình. Anh lắc đầu chán nản, châm thuốc lá và ngồi xuống cạnh tôi. Rồi anh nói tiếp. - Tôi đói quá. Lúc này, giá vớ được hòn đá tôi cũng ăn.
Một lúc sau, anh đứng dậy đi ra giữa đường nậy một tảng đá lên thật. Anh quay trở lại, cầm tảng đá phá cửa sổ một hàng buôn đằng sau lưng chúng tôi.
- Đây là tầng dưới, chẳng ăn thua gì cả, - anh giải thích cho tôi nghe và đỡ tôi chui qua cái lỗ hổng anh vừa phá. - Nhưng cũng không thể làm thế nào hơn được. Chị ngủ đi một giấc, để tôi đi thám thính. Thế nào tôi cũng cứu được chị, nhưng phải lâu lâu một tí. Bây giờ, tôi cần có cái gì ăn đã.
Chỗ chúng tôi ở là một cửa hàng bán yên ngựa. Anh lấy mấy tấm chăn lót lưng ngựa giải làm giường cho tôi nằm trong gian phòng làm việc riêng ở phía sau. Để bồi thêm vào bước khốn đốn của tôi, tôi bị một trận nhức đầu như búa bổ. Được nhắm mắt ngủ một giấc, tôi thấy không có gì sung sướng hơn. Lúc đi, Garthwaite bảo tôi: - Rồi tôi sẽ về. Tôi không mong gì kiếm được một cái ô-tô, nhưng chắc chắn tôi sẽ mang thức ăn về, bằng cách này hay cách khác. Ba năm sau tôi mới gặp lại anh. Anh không trở lại ngay, mà bị khiêng đi nhà thương, vì một viên đạn trúng phổi và một viên trúng cổ.