Đi được khoảng mười dặm đường, sơn cốc đột nhiên bẻ sang hướng Nam. Một vách núi nằm ngang chặn lại lối đi. Vách núi này cao khoảng mười bảy mười tám trượng, từ bên dưới nhìn lên trông rất hùng vĩ. Chàng nhắm mắt vận một luồng chân khí rồi tung người vọt lên, chụp lên trên vách núi ấy rồi bò lên. Vách núi này tuy gập ghềnh, nhưng Phương Triệu Nam đã dễ dàng leo đến tận đỉnh.
Một cơn gió lạnh thổi tới, vết thương nhói đau, tuy chỉ là vết thương ngoài da nhưng sau một hồi leo trèo, vết thương vốn đã sắp lành lại toét ra, máu tươi ướt đẫm.
Chàng hít nhẹ một hơi, đưa mắt nhìn xung quanh, chỉ thấy thế núi liên miên, chẳng thấy chân trời đâu cả, trong bốn năm dặm vuông, ngọn núi này là cao nhất. Âm Phong cốc sau khi rẽ sang hướng Nam thì đi thành đường thẳng, từ trên cao nhìn xuống, đá màu tím dưới đáy cốc lấp lánh dưới ánh mặt trời. Chàng nhìn một hồi thì thầm nhủ:
“Nếu Sương sư muội và mình cùng bị gió thổi ra khỏi núi, nàng chắc chắn sẽ không bị thương nặng như mình, mình thì được ông lão tiều phu cứu ra, còn nàng thì không biết ở hướng nào?” khi nghĩ đến đấy thì cảm thấy hy vọng mong manh, nhớ lại tình nghĩa bên cạnh nhau mấy tháng, chàng không khỏi đau lòng, thế là hai dòng nước mắt tuôn rơi.
Gió núi thổi tà áo chàng bay phất phơ, cảnh vật trước mắt đã trở nên mờ mịt, Châu Huệ Anh chôn thân ở Bão Mục Cương đã khiến cho lòng dạ chàng đau như cắt, chưa được mấy lúc thảm cảnh ấy đã lập lại. Tuy vẫn chưa biết rõ Trần Huyền Sương còn sống hay chết, nhưng suy đi tính lại thì hy vọng sống của nàng rất nhỏ, bởi vì nếu nàng còn sống thì chắc chắn sẽ đi tìm mình. Sau một hồi suy nghĩ, chàng đau lòng đến nỗi muốn nhảy xuống vực sâu chết cùng Trần Huyền Sương. Chợt nghe có tiếng chim vỗ cánh lướt qua trên đầu, chàng ngẩng đầu nhìn lên thì thấy một con ó đang đuổi theo một con sẻ vàng, con sẻ vàng đột nhiên đập cánh phóng lên, rồi chợt khép cánh lại lượn xuống dưới, lúc sang trái, lúc vòng sang phải, né tránh được con chim ó. Nhìn cảnh ấy, chàng chợt sáng tỏ mọi điều. Chàng thầm nhủ:
“Trong cuộc chiến ở Minh Nhạc, chỉ còn một mình mình thoát được, trách nhiệm truyền hung tin này nặng nề biết dường nào, nếu muộn thêm một ngày, võ lâm sẽ nguy hiểm thêm một phần ...”.
chàng ngửa mặt hít một hơi dài, thầm cầu khấn:
“Sương sư muội nếu có linh thiêng, hãy thứ cho huynh không thể ở đây lâu, sau khi truyền tin sẽ trở vào núi lửa tìm tung tích của Sương sư muội”.
Chàng xoay người nhảy xuống đỉnh núi, ra sức chạy nhanh, cho đến khi trời về chiều thì đã ra đến đường cái quan, chàng bước chậm lại, ngẩng mặt nhìn ánh hoàng hôn ở phía Tây, lòng thầm nhủ:
“Trước tiên đi đâu đây? Trong võ lâm khắp nơi đều có sát cơ trùng trùng, Minh Nhạc có lẽ đã sớm phái cao thủ thay chia nhau đi tấn công các môn phái ...” chàng trầm tư một lúc lâu mới quyết định trước tiên đi đến chùa Thiếu Lâm ở núi Tung Sơn.
Một là vì chùa Thiếu Lâm là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, hai là vì chàng cũng muốn biết Tri Cơ Tử Ngôn Lăng Phủ khi được Đại Phương thiền sư cho người đưa về chùa Thiếu Lâm đã khỏe hẳn chưa?
Cuộc chiến lần này khiến cho chàng cảm nhận được sự quan trọng của Huyết Trì đồ, nhưng bức Huyết Trì đồ đã mất tích cùng với Trần Huyền Sương. Sau khi quyết định nơi đến, chàng lập tức lên đường, trên cả đoạn đường chàng không hề ngừng lại ngoài việc ăn cơm, chàng không sợ cực nhọc, chỉ mong đem tin dữ đến chùa Thiếu Lâm.
Trưa hôm nay chàng đã đến dưới chân núi Tung Sơn, ăn xong một ít lương khô thì chàng lập tức lên núi. Chùa Thiếu Lâm là một ngôi chùa cổ nổi tiếng, kiến trúc hùng vĩ, diện tích của chùa kéo dài đến mười mẫu, sư sãi trong chùa rất nhiều, luật trong chùa cũng rất nghiêm khắc, cây rừng bên ngoài chùa xum suê, cảnh vật rất đẹp đẽ. Phương Triệu Nam lòng lo như lửa đốt, không có thời gian nhìn ngắm cảnh đẹp, chàng vội vàng lên núi, chạy thẳng tới cổng chùa.
Phương Triệu Nam chạy đến trước cổng, trong cổng vang lên một tiếng Phật hiệu, một nhà sư đứng tuổi mặc áo màu sám chắp tay trước ngực bước ra chặn đường hỏi:
“Thí chủ có phải là khách lên dâng hương không?”.
Phương Triệu Nam lắc đầu:
“Không phải, tại hạ có chuyện gấp ngàn dặm đến đây, cần gặp trụ trì của quý tự, phiền đại sư hãy thông báo cho một tiếng.
Nhà sư mặc áo bào màu xám ấy nhìn Phương Triệu Nam rồi nhíu mày nói:
“Thí chủ có chuyện lớn gì, có lẽ buộc phải gặp chủ trì của tệ tự?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Tại hạ Phương Triệu Nam từ Minh Nhạc đến đây ...”.
Nhà sư ấy mặt hơi biến sắc, cắt ngang lời chàng:
“Mời Phương thí chủ vào trong ngồi đợi một chốc lát, bần tăng sẽ lập tức thông báo cho thí chủ”. Nói rồi lách người, cúi người nhường đường cho khách.
Phương Triệu Nam cũng không khách sáo, bước sải vào trong chùa. Trong chùa quả nhiên đã chuẩn bị, tám nhà sư mặc áo bào màu xám chưa nhau đứng hai bên cửa, trong tay mỗi người đều cầm một cây thiền trượng. Nhà sư đứng tuổi lúc nãy bước dấn tới trước mặt Phương Triệu Nam nói:
“Bần tăng sẽ dẫn đường cho thí chủ”. Đột nhiên ông ta xoay người bước vào một con đường nhỏ. Nhà sư này đi rất nhanh, trong chốc lát đã băng qua mấy mảnh sân.
Một căn nhà nhỏ có bức tường bằng ngói đỏ hiện ra trước mắt. Nhà sư đứng tuổi chậm bước, hạ giọng nói với Phương Triệu Nam:
“Căn nhà đó là nơi tiếp khách của chùa chúng tôi, Phương thí chủ từ xa đến đây, xin hãy mời vào trong nghỉ ngơi chốc lát, đợi bần tăng thông báo cho chủ trì sẽ lập tức đến mời”. Nói xong, ông ta đột nhiên thối lui hai bước, chắp tay trước ngực rồi nói tiếp:
“Xin mời thí chủ bước vào”.
Phương Triệu Nam hơi lưỡng lự, nhưng cũng bước vào bên trong. Nhà sư ấy không đi cùng với chàng mà đứng ở bên ngoài cổng nói vào:
“Trong nhà đã chuẩn bị trà và thức ăn, thí chủ cứ việc dùng”. Nói xong thì vội vàng lui ra.
Phương Triệu Nam thầm nhủ:
“Trên giang hồ đồn rằng chùa Thiếu Lâm là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, các nhà sư trong chùa ai nấy võ công cao cường, thanh quy nghiêm khác, chỉ nhìn cách tiếp khách thôi cũng đã biết”. Đang suy nghĩ thì người đã bước vào trong nhà.
Chàng ngẩng đầu nhìn lên, thấy bên trên hai cánh cửa màu đen có viết bốn chữ vàng, cánh cửa bên trái viết hai chữ “Nghênh Tân”, cánh cửa bên phải viết hai chữ “Tiểu Hiên”, chàng đưa tay đẩy, cánh cửa bật ra, một luồng hương thơm phả vào mặt, chàng không khỏi khựng người lại. Khói hương nghi ngút bốc ra từ một cái đỉnh, bên cạnh cái đỉnh là bình sứ và mười chén ngọc xếp ngay ngắn, hai hàng ghế tre, một cái giường bằng gỗ đặc, nhưng chẳng có ai cả. Chàng chợt cảm thấy hơi mệt mỏi, chàng chậm rãi bước đến cái giường ngồi xuống, bất giác ngủ thiếp đi đến khi tỉnh dậy thì cảnh vật đã thay đổi, một nhà sư thân hình cao lớn ngồi đối diện, trong phòng có ngọn đuốc đang cháy phừng phừng, trời đã vào tối. Chàng hít một hơi, hơi nhíu mày rồi lẩm bẩm:
“Chuyện gì thế này?”.
Nhà sư ngồi ở phía đối diện đọc một tiếng Phật hiệu rồi nói:
“Lão nạp là Đại Bi, chủ trì viện Đạt Ma của bổn tự ...”.
Phương Triệu Nam chợt ngồi bật dậy:
“Mùi hương trong Nghênh Tân Tiểu Hiên của các người có thuốc mê”.
Đại Bi thiền sư lắc đầu cười:
“Thí chủ hãy yên tâm, trong chùa Thiếu Lâm không hề có thuốc mê như trong chốn lục lâm”.
Phương Triệu Nam nói:
“Vậy tại sao tại hạ ngửi thấy mùi hương thì lập tức ngất đi?”.
Đại Bi thiền sư thở dài nhẹ một tiếng:
“Tiểu thí chủ đi đường xa mệt nhọc, hương gỗ đàn trong Nghênh Tân Tiểu Hiên” đã được chế theo bí quyết của chùa Thiếu Lâm chúng tôi, tuy có tác dụng giúp người ta ngủ ngon nhưng không hề có chất độc”.
Phương Triệu Nam thầm vận khí xem thử, không hề có cảm giác gì kỳ lạ, nhưng vẫn còn hơi bực bội, nói tiếp:
“Thiếu Lâm là phái lớn trong võ lâm, tiếp đãi khách như thế này thật thiếu khí độ”.
Đại Bi thiền sư mặt hơi biến sắc:
“Nếu thí chủ không phải từ Minh Nhạc đến đây, tệ tự đã không dám dùng cách này tiếp đãi quý khách, quả thực trong đó có điều ...” ông ta nói đến đây thì chợt im lặng, thở dài một tiếng rồi chẳng nói gì cả.
Phương Triệu Nam ngạc nhiên nói:
“Sao? Chả lẽ đã có người trong Minh Nhạc đến đây?”.
Đại Bi thiền sư gật đầu:
“Đây chính là khó khăn lớn nhất trong hàng trăm năm nay của chùa Thiếu Lâm chúng tôi, chúng tôi dùng lễ thượng tân để đãi khách từ xa đến, nhưng bị y dùng mê dược làm cho mười tám đệ tử hộ pháp hôn mê, lấy đi ...” nói đến đây, ông ta chợt ho nhẹ một tiếng nói:
“Lại để y ung dung đào thoát”.
Phương Triệu Nam thầm nhủ:
“Ông ta nói như thế tựa như đã bị người ta lấy đi vật rất quan trọng, người ta đã không chịu nói, mình cũng đừng nên hỏi dấn tới làm gì”. Thế rồi mới thở dài một tiếng:
“Hỡi ơi, thật khó trách, tại hạ ngày đêm lên đường, không ngờ vẫn chậm một bước”.
Đại Bi thiền sư chợt trở nên rất nghiêm trang:
“Lão nạp có mấy lời khó nghe, không biết có nên hỏi hay không?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Đại sư có lời gì hãy nói, tại hạ biết thì sẽ trả lời”.
Đại Bi thiền sư nói:
“Phương thí chủ và Ngọc Cốt Yêu Cơ Du Anh Hoa có mối liên quan gì, chẳng hay có thể cho lão nạp biết hay không?”.
Phương Triệu Nam lắc đầu:
“Không có!”.
Đại Bi thiền sư lấy ra một mảnh kim bài nhỏ như thanh đoản kiếm, nói:
“Phương thí chủ không có liên quan đến Ngọc Cốt Yêu Cơ, vậy mảnh kim bài này không biết từ đâu mà có?”.
Phương Triệu Nam thấy mảnh kim bài thì không khỏi nhớ đến nàng sư muội thanh mai trúc mã Châu Nhược Anh, chàng buồn bã thở dài rồi nói:
“Tại hạ đã vô tình nhặt được mảnh kim bài này, sau đó cất giữ ở trong người rất lâu, chưa bao giờ cho ai hay, dù cho Đại Phương thiền sư chưởng môn quý phái, vãn bối cũng không nói”.
Đại Bi thiền sư trầm giọng nói:
“Chưởng môn sư huynh của chúng tôi có khỏe không?”.
Phương Triệu Nam hơi ngạc nhiên:
“Sao? Người của Minh Nhạc không cho lão thiền sư biết hay sao?”.
Đại Bi thiền sư nói:
“Không có, người ấy đến rất vội vàng, lão nạp chưa kịp nói chuyện với y”.
Phương Triệu Nam chợt sinh nghi, hỏi:
“Người ấy thế nào?”.
Đại Bi thiền sư nói:
“Mặc trường sam mang theo bội kiếm, tuổi khoảng ngũ tuần”.
Phương Triệu Nam vội vàng hỏi:
“Trên mặt y có điều gì đặc biệt không?”.
Đại Bi thiền sư nói:
“Điều này lão nạp không để ý, song lão nạp đã phái ba vị thượng tọa trong Đạt Ma viện dắt theo mười đệ tử chia nhau truy tìm, chỉ cần y chưa rời khỏi Trung Nguyên, trong vòng vài ngày thì sẽ có tin tức”.
Phương Triệu Nam không hỏi tới nữa, chỉ thở dài:
“Tại hạ trước tiên báo cho lão thiền sư một tin dữ”.
Đại Bi thiền sư hơi run run nói:
“Nhưng chưởng môn sư huynh của chúng tôi thế nào? ...”.
Phương Triệu Nam chép miệng:
“Chưởng môn của quý phái mất tích trong điện Luân Hồi ở Minh Nhạc, còn ba mươi sáu đệ tử hộ pháp đi theo cũng đều quy hóa ...”.
Trên mặt Đại Bi thiền sư lộ vẻ đau đớn, ông ta ngạc nhiên hỏi tiếp:
“Sao? Không ai còn sống?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Cao thủ võ lâm tử thương vô số, có thể nói đều đã chết hết cả, chỉ có bốn người thoát khỏi Minh Nhạc, nhưng chỉ có một mình tại hạ còn sống, còn ba người kia thì vẫn chưa biết sống chết ra sao”.
Đại Bi thiền sư chắp tay nhắm mắt, miệng lẩm nhẩm, không biết ông ta đọc kinh văn hay đang cầu khấn các đồng môn đã chết, trên mặt rất trang trọng. Một lát sau, Đại Bi thiền sư mở mắt nói:
“Nếu thực sự như thế, đây là biến cố lớn nhất của chùa Thiếu Lâm chúng tôi”.
Phương Triệu Nam nói:
“Ba mươi sáu vị cao tăng tuẫn nạn, tại hạ đã chính mắt nhìn thấy, quyết không sai, nhưng Đại Phương thiền sư còn sống hay đã chết, tại hạ không biết, cho nên không dám suy đoán bừa”.
Đại Bi thiền sư chậm rãi đứng dậy:
“Lão nạp tuy tạm thời giữ chức chưởng môn, nhưng những chuyện lớn như thế này cũng không dám tự quyết định, nếu Phương thí chủ đã bảo tin ấy xác thực, lão nạp sẽ lập tức gióng chuông gõ trống triệu tập các trưởng lão trong chùa cùng bàn chuyện lớn”.
Phương Triệu Nam nói:
“Chuyện này hoàn toàn là sự thực, không sai tí nào”.
Đại Bi thiền sư cầm cây búa gỗ trong bàn đột nhiên ngừng tay lại ông ta nói:
“Theo lão nạp biết, ba mươi năm qua chùa Thiếu Lâm chưa từng gióng chuông gõ trống, nếu chuyện thí chủ nói không phải là sự thật, lão nạp cũng gánh vác không nổi”.
Phương Triệu Nam nói:
“Đại sư hãy yên tâm ...”.
Đại Bi thiền sư chậm rãi đặt cây búa trong tay:
“Lão nạp không biết Phương thí chủ là môn hạ của ai, cao thủ trong thiên hạ đều chôn thân ở Minh Nhạc, tại sao Phương thí chủ lại một mình thoát được?”.
Phương Triệu Nam nhẹ nhàng thở dài:
“Chuyện này cũng khó trách đại sư nghi ngờ ...” thế rồi nói sơ qua xuất thân của mình, những chuyện Đại Phương thiền sư triệu tập quần hào ở đỉnh Minh Nguyệt đối phó với người trong Minh Nhạc thì nói rất tường tận. Đại Bi thiền sư tuy vẫn còn nghi ngờ xuất thân của Phương Triệu Nam, nhưng nghe chàng kể lại cuộc kịch chiến ở Minh Nhạc, cho nên không tiện hỏi xuất thân của chàng nữa, thuận tay cầm cây búa gõ lên cái bát bằng đồng trên bàn. Tiếng vang chưa hết, có hai tiểu hòa thượng chạy vào, chắp tay trước ngực nói:
“Sư phụ có gì căn dặn?”.
Đại Bi thiền sư nói:
“Hãy gióng chuông gõ trống”.
Hai tiểu hòa thượng ngạc nhiên rồi mới cao giọng lặp lại:
“Gióng chuông gõ trống”. Bên ngoài phòng vọng lên giọng nói ồm ồm:
“Truyền gióng chuông gõ trống”.
Âm thanh cứ nối tiếp nhau truyền ra xa, dần dần không còn nghe được nữa. Đại Bi thiền sư chậm rãi đứng dậy, mặt lộ vẻ lo lắng, không ngừng đi qua đi lại trong phòng.
Vị cao tăng ấy rõ ràng rất lo lắng, ông ta đột nhiên ngừng bước quay đầu lại nói:
“Theo Phương thí chủ nói, chưởng môn sư huynh của lão nạp là lành ít dữ nhiều?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Sau khi chúng tôi xông vào trong Luân Hồi điện, vẫn không hề thấy Đại Phương thiền sư, vãn bối không dám suy đoán bừa bãi”.
Đại Bi thiền sư thở dài, nhìn bức vẽ tổ sư Đạt Ma ở trên vách, buồn bã nói:
“Từ sau khi Đạt Ma tổ sư của chúng tôi sáng lập phái Thiếu Lâm, đã truyền qua hai mươi tám đời chưởng môn, tuy trải qua không ít sóng gió, nhưng chưa bao giờ xảy ra chuyện chưởng môn nhân mất tích, xem ra dù có triệu tập trưởng lão trong chùa cũng khó tìm ra cách hay”.
Phương Triệu Nam chợt nhớ đến Tri Cơ Tử Ngôn Lăng Phủ, thế rồi hỏi:
“Phương trượng quý tự đã từng cho người đưa Tri Cơ Tử Ngôn Lăng Phủ về đây, không biết người ấy đang ở đâu?”.
Đại Bi thiền sư nói:
“Người ấy hiện vẫn ở trong phòng dưỡng tâm của Giới Trì viện, chứng điên cuồng của ông ta vẫn chưa thuyên giảm, lão nạp đành cho người canh giữ ông ta”.
Phương Triệu Nam nói:
“Vãn bối muốn thăm ông ta, không biết có được không?”.
Đại Bi thiền sư nói:
“Đêm đã khuya e rằng không tiện, huống chi lão nạp đã truyền gióng trống gõ chuông, đây là lệnh triệu tập khẩn cấp nhất trong chùa chúng tôi, ai nghe thấy cũng phải lập tức đến viện nghị sự ...” ông ta nói đến dây, từ xa đã vang lên tiếng chân rầm rập, Đại Bi thiền sư nói tiếp:
“Chuông trống đã gióng lên, chúng ta hãy đến viện nghị sự”.
Phương Triệu Nam đứng dậy:
“Quý tự bàn chuyện quan trọng, vãn bối làm sao có thể tham gia?”.
Đại Bi thiền sư nói:
“Nếu không phải gặp chuyện hệ trọng, chúng tôi không thể tự tiện gióng chuông gõ trống ...”.
Chợt nghe tiếng chuông vọng lên mười hai hồi, tiếp sau đó là mười hai hồi trống.
Đại Bi thiền sư chắp tay trước ngực, nghiêm nghị nói:
“Xin mời Phương thí chủ đến điện nghị sự, kể hết mọi chuyện đã thấy ở Minh Nhạc, lão nạp xin dẫn đường đi trước”. Rồi bước sải ra ngoài. Không biết đi qua bao nhiêu lớp đình viện, cả hai đã đến trước một đại điện sừng sững. Lúc này, đuốc trong đại điện đang cháy phừng phừng, đã có không ít nhà sư tụ tập ở trong điện.
Đại Bi thiền sư bước tới một cái bàn gỗ ở giữa, ngồi xuống ghế ở sau bàn. Hai bên cái bàn gỗ có mười hai chỗ ngồi còn trống. Phương Triệu Nam nhìn đông ngó tây một hồi chợt cảm thấy căn đại điện này rất trang nghiêm, vẻ mặt của mỗi nhà sư đều nặng nề vô cùng. Đại Bi thiền sư tuy nghiêm nghị, nhưng lời nói cử chỉ vẫn hiền hòa, ông ta đứng lên chắp tay trước ngực:
“Mời Phương thí chủ đến đây ngồi!”.
Phương Triệu Nam hơi cảm thấy kinh ngạc, chàng chậm rãi bước tới. Khi đi ngang qua trước mặt các nhà sư, ai nấy đều chắp tay làm lễ với chàng.
Đại Bi thiền sư chỉ cái ghế ở bên trái, nói:
“Thí chủ không ngại ngàn dặm đường xa, đội gió đạp sương đến truyền tin dữ, có ơn nghĩa sâu nặng với Thiếu Lâm tự chúng tôi, cho nên không cần khiêm nhường, hãy mau ngồi xuống”.
Ông ta nói như thế, Phương Triệu Nam không thể từ chối nữa, chỉ đành ngồi xuống ở chiếc ghế đầu bên trái. Trong chốc lát, hai bên đều đã có người ngồi. Phương Triệu Nam nhủ thầm:
“Những hòa thượng này thật nhanh chân”.
Chàng âm thầm để ý xung quanh, chỉ thấy các nhà sư đã đứng kín cả căn điện, mỗi người tựa như đều có một vị trí, xếp hàng rất chỉnh tề, tạo thành một tấm bản đồ rất đẹp mắt. Chợt nghe giọng nói của Đại Bi thiền sư vang lên trong tai:
“Vị Phương thí chủ này truyền tin dữ đến, chưởng môn đời thứ hai mươi tám của chùa Thiếu Lâm chúng ta đã mất tích ở Minh Nhạc, ba mươi sáu đệ tử hộ pháp tất cả đều quy hóa theo Phật tổ ...” lời ấy vừa nói ra, các nhà sư trong điện đều biến sắc. Ai nấy đều chắp tay trước ngực, nhắm mắt cúi đầu, miệng mấp máy tựa như đang cầu khẩn, nhưng không hề nghe bất cứ âm thanh gì, Phương Triệu Nam cũng không biết họ nói gì.
Im lặng một lúc lâu sau, nhà sư mặc cà sa màu trắng ngồi ở ghế đầu bên phải chợt đứng dậy, cúi người nói:
“Chưởng môn nhân võ công cao cường, làm sao có thể gặp nạn được? Sư đệ tuyên bố tin dữ này, chắc là đã biết tường tận, không biết có thể nói ra cho chúng tôi nghe hay không?”.
Đại Bi thiền sư tựa như rất tôn kính nhà sư già ấy, thế rồi ông ta cúi người nói:
“Vị Phương thí chủ này ngàn dặm đường xa ngày đêm đến đây, chắc là không sai”.
Phương Triệu Nam đứng dậy, ôm quyền vái dài rồi nói:
“Tại hạ đến từ Minh Nhạc ...” chợt một giọng nói già nua ở bên trái vang lên:
“Lão nạp khổ tu hành cước, đã đi khắp các giang sơn trong thiên hạ, nhưng không biết Minh Nhạc là nơi nào?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Minh Nhạc nằm trong dãy Thái Sơn cách đỉnh Minh Nguyệt không quá trăm dặm đường, nhưng vì ở nơi hẻo lánh cho nên không ai biết được”.
Đại Bi thiền sư nói:
“Làm phiền Phương thí chủ hãy kể lại những chuyện đã thấy”.
Phương Triệu Nam gật đầu, kể lại chuyện quần hào đến Minh Nhạc, Đại Phương thiền sư, Tụ Thủ Tiều Ẩn, Tiêu Dao Tử đuổi theo kẻ địch, Thần Chung đạo nhân dắt quần hào đến giải cứu, quần hào bị trúng độc trong điện Luân Hồi, ba mươi sáu nhà sư chùa Thiếu Lâm chết thảm, Thần Chung đạo nhân giả vờ bị trúng độc, anh hùng trong thiên hạ đều ghi lại tuyệt kỹ truyền cho anh em họ Cát ... nhưng trong đó chàng lại giấu chuyện Mai Giáng Tuyết tặng cho linh đơn, Trần Huyền Sương giữ Huyết Trì đồ.
Nào ngờ các nhà sư Thiếu Lâm nghe rất kỹ càng, Phương Triệu Nam vừa nói xong lập tức có một nhà sư hỏi:
“Tại sao Phương thí chủ và vị Trần cô nương ấy không bị trúng độc?”.
Phương Triệu Nam tuy đã đoán thế nào cũng có người hỏi, nhưng vì chưa tìm được lời hợp lý, bất giác cũng hơi khựng lại, chàng trầm ngâm rồi nói:
“Tại hạ có một vị cao thủ trong Minh Nhạc tương cứu, âm thầm tặng cho linh đơn cho nên giữ được mạng!”.
Chỉ nghe một tiếng A di đà Phật vang lên:
“Người ấy tại sao cứu hai vị, âm thầm tặng thuốc giải độc?”.
Phương Triệu Nam nói:
“Y bất mãn hành vi tàn ác của Nhạc chủ Minh Nhạc, có ý bỏ tối theo sáng cho nên âm thầm tặng cho linh đơn”.
Nhà sư lên tiếng hỏi ấy ngồi ở gần Phương Triệu Nam, mặt mũi hồng hào, người khoác cà sa màu vàng nhạt, tuổi trên dưới ngũ tuần, nhưng theo thứ tự chỗ ngồi của ông ta, chắc chắn thân phận của ông ta không thấp. Chỉ thấy ông ta lạnh lùng hạ giọng hỏi:
“Người ấy đã có lòng bỏ tối theo sáng, tại sao không cứu quần hào thiên hạ mà chỉ cứu hai vị?” câu hỏi vừa rồi chợt khiến cho các nhà sư đều nghi ngờ, hàng trăm ánh mắt đều nhìn lên mình Phương Triệu Nam.
Phương Triệu Nam cảm thấy hơi lúng túng trước hàng trăm ánh mắt ấy, đành phải nói liều:
“Người ấy là một cô nương!”.
Nhà sư mặc cà sa màu vàng hơi nhíu mày, muốn nói gì đó nhưng lại thôi. Ông ta là cao tăng ở chốn Phật môn, không tiện hỏi chuyện của phụ nữ, nhưng lại cảm thấy câu trả lời của Phương Triệu Nam khó làm cho người ta thỏa mãn. Ông ta trầm ngâm một hồi rồi lại hỏi:
“Không biết vị cô nương ấy là nhân vật như thế nào?”.
Phương Triệu Nam tuy lòng dạ rộng rãi, nhưng lễ giáo lúc ấy nghiêm ngặt, chuyện nam nữ yêu nhau bị coi là không thuận với đạo lý, cho nên cũng không thể nói ra trước mặt nhiều người. Ông ta trầm ngâm một lúc lâu rồi nói:
“Nàng ... là đệ tử nhập thất của Nhạc chủ Minh Nhạc”.
Các nhà sư trong điện đều xì xầm, nhưng trong khoảnh khắc đã lập tức im lặng.
Nhà sư mình khoác cà sa màu lam ở bên phải đứng dậy nói:
“Không biết Phương thí chủ và nữ đệ tử trong Minh Nhạc đã quen biết từ bao giờ?”.
Phương Triệu Nam thấy các nhà sư rõ ràng đang nghi ngờ mình, bất giác lửa giận bốc lên. Phương Triệu Nam đứng dậy lạnh lùng nói:
“Tại hạ lần này đến đây chẳng qua là báo tin dữ chứ không hề có ý nhờ vả các vị đại sư giúp đỡ, tin hay không là do các vị, tại hạ xin cáo biệt ở đây”. Chàng ôm quyền vái một cái rồi bước ra ngoài. Các nhà sư ngồi hai bên đều là người có địa vị trong chùa, tuy không hài lòng với hành động của Phương Triệu Nam nhưng không ngăn cản. Nhưng các nhà sư đang xếp hàng đứng bên dưới thì không chịu nhường bước, chỉ nghe tiếng bước chân rầm rập, một bức tường người đã chặn Phương Triệu Nam lại, ai nấy đều chắp tay trước ngực.
Phương Triệu Nam ngừng bước, đưa mắt nhìn các nhà sư, trừ phi xông bừa vào, chỉ còn cách tung người vọt qua đỉnh đầu các nhà sư. Chàng không khỏi nhíu mày ... chợt nghe Đại Bi hòa thượng đọc một tiếng Phật hiệu rồi nói:
“Phương thí chủ hãy dừng lại trong chốc lát, lão nạp có mấy câu muốn nói”.
Phương Triệu Nam tuy bị các nhà sư chọc giận, nhưng không hề có ý động thủ với họ, nghe giọng nói khiêm nhường của Đại Bi thiền sư, chàng mới quay đầu lại hỏi:
“Không biết đại sư có lời gì dạy bảo?”.
Đại Bi thiền sư hơi mỉm cười:
“Xin mời Phương thí chủ hãy về chỗ ngồi trước đã!”.
Phương Triệu Nam hơi suy nghĩ rồi bước về chỗ ngồi.
Đại Bi thiền sư nói:
“Từ xưa đến nay, phái Thiếu Lâm chưa bao giờ có tình huống chưởng môn phương trượng mất tích, tin dữ của Phương thí chủ là biến cố chưa từng có trong hàng trăm năm nay của chùa Thiếu Lâm chúng tôi. Nghe được tin này, ai cũng kích động, lời nói có điều thất thố, mong Phương thí chủ đừng để trong lòng.
Chuyện này liên quan đến cả võ lâm, mong thì chủ biết điều gì cứ nói ra hết cho bọn lão nạp tìm cách ứng phó”.
Phương Triệu Nam nói:
“Những lời vãn bối nói lúc nãy đều là sự thật, trong đó tuy có chỗ giấu giếm nhưng đó là chuyện riêng của vãn bối, không liên quan đến đại cuộc”.
Đại Bi thiền sư nhìn nhà sư ngồi ở ghế đầu bên phải, hạ giọng hỏi:
“Không biết sư huynh có cao kiến gì?”.
Nhà sư ấy nhắm mắt trầm ngâm rồi nói:
“Theo tình thế trước mắt, bọn chúng ta đã chẳng đủ sức, xem ra phải tìm cách mời hai vị sư thúc xuất sơn!”.
Chợt nghe Đại Bi hòa thượng thở dài một tiếng:
“Kỳ hạn bế quan ba mươi năm của hai vị sư thúc vẫn chưa hết, chả lẽ chúng ta phải kinh động hai vị ấy?”.
Nhà sư mặc áo cà sa màu vang ngồi bên cạnh Phương Triệu Nam chợt đứng dậy nói:
“Theo ý tiểu đệ, không nên quấy nhiễu hai vị sư thúc. Đạo hạnh của hai vị sư thúc tuy cao cường, nhưng nếu phá thiền quang không phải chuyện nhỏ, nếu hại họ tẩu hỏa nhập ma thì tội đáng muôn chết!”.
Đại Bi thiền sư nói:
“Nếu không quấy nhiễu hai vị sư thúc, không biết sư đệ có cách gì hay?”.
Nhà sư mặc cà sa màu vàng trầm ngâm rồi nói:
“Theo ý tiểu đệ chi bằng các cao thủ trong chùa Thiếu Lâm chúng ta đến Minh Nhạc xem thử một chuyến, trước tiên điều tra tung tích của Đại Phương sư huynh, sau đó dùng La Hán trận dụ Nhạc chủ Minh Nhạc vào trận, tìm cách bắt sống ...”.
Nhà sư mặc cà sa màu trắng lắc đầu:
“Sư đệ có bằng được Đại Phương sư huynh không?”.
Nhà sư mặc cà sa màu vàng nói:
“Tiểu đệ không thể bì được!”.
Nhà sư ấy nói:
“Đại Phương sư đệ võ công cao nhất trong số chúng ta, ba mươi sáu đệ tử hộ pháp đều là tinh tuyển trong Đạt Ma viện ... nhưng tất cả đều không trở về, thử hỏi trong hàng đệ tử đời thứ ba, có mấy người bằng được họ ...”.
Đại Bi thiền sư chậm rãi gật đầu:
“Sư huynh nói không sai”.
Nhà sư ấy thở dài:
“Đại Phương sư đệ tựa như đã biết chuyến đi này lành ít dữ nhiều, vì thế đã đến Giới Trì viện nói chuyện với tiểu huynh, khiến cho tiểu huynh biết được thành tựu của Đại Phương sư đệ vượt xa tưởng tượng của chúng ta ...” ông ta quét mắt nhìn đại điện một vòng, thấy các nhà sư đều im lặng lắng nghe rồi mới nói tiếp:
“Tiểu huynh đòi thay Đại Phương sư đệ đến Minh Nhạc, nhưng Đại Phương sư đệ không chấp nhận mà còn đề nghị tỷ võ, nếu ai thua thì phải ở lại chùa. Nào ngờ sau mười chiêu, Đại Phương sư đệ đã dùng Lôi Âm thần chưởng phá Kim Cương chỉ, Quan Âm cước, La Hán thất thức mà ta đã khổ luyện bốn mươi năm ...” rồi ông ta rầu rỉ thở dài:
“Sau khi thắng được ta, Đại Phương sư đệ đã nói về chuyện hai vị sư thúc ngồi tọa thiền, nếu ta nhớ không lầm, hai mươi năm trước, hai vị sư thúc đã bế quan.
Đại Phương sư đệ đã truyền lại lời dặn dò của họ cho ta biết”.
Phương Triệu Nam giật mình:
“Trong cửa Phật bế quan tọa thiền cũng giống như người trong đạo gia nhập định hay người trong võ lâm vận khí điều tức, trong vòng ba tháng đã có thành tựu tương đối, một năm ba năm càng không dễ dàng, nhưng ngồi tọa thiền mấy mươi năm quả là chuyện hiếm có”.
Chợt nghe Đại Bi thiền sư nói:
“Chả lẽ đó là di ngôn của Đại Phương sư huynh trước khi đi?”.
Đại Ngu thiền sư gật đầu:
“Đại Phương sư đệ đã bảo, ta hãy khuyên các vị sư đệ đừng nên đi báo thù”.
Chợt nghe nhà sư tuổi trẻ nhất, mình khoác cà sa màu vàng cao giọng nói:
“Ý của sư huynh là chúng ta không nên điều tra tung tích của Đại Phương sư huynh, đúng không?”.
Đại Ngu thiền sư nói:
“Đại Phương sư đệ bảo rằng, phải đợi đến tháng ba sang năm, sau khi kỳ hạn bế quan của hai vị sư thúc đã hết, chúng ta sẽ mời hai vị sư thúc định đoạt”.
Phương Triệu Nam chen vào nói:
“Bọn người Minh Nhạc có lẽ không đợi đến sang năm thì đã kéo đến quý tự”.
Đại Ngu thiền sư chợt đứng dậy, nói với nhà sư mặc cà sa màu vàng:
“Đại Đạo sư đệ, hãy đưa vị thí chủ này đến Đạt Ma viện nghỉ ngơi”.
Phương Triệu Nam biết họ cần bàn bạc, không muốn mình nghe được cho nên ôm quyền vái dài một cái rồi sải bước ra ngoài.
Đại Đạo thiền sư rời khỏi chỗ ngồi, bước ra ngoài theo Phương Triệu Nam.