Eragon 4 (Inheritance) - Di Sản Thừa Kế

Chương 58: Eragon càu nhàu

Họ đi tiếp, chờ đợi mỗi bước tiếp theo sẽ gặp bẫy. Nhưng cả đoạn đường còn lại trong tiền sảnh có vẻ không có chướng ngại nào hết, khi họ tới bên cánh cửa không trắc trở gì.

Eragon nhìn lên mảng vàng tỏa sáng. Dọc cánh cửa được chạm khắc hình cây sồi kích cỡ như thật, vòm lá uống thành hình vòng cung cùng với bộ rễ vẽ nên một vòng tròn quanh thân cây. Từ khoảng giữa thân cây mỗi bên mọc ra hai nhánh cây to đùng. Ở mảng phía trên bên trái chạm hình một đoàn quân tiên nhân cầm thương hành quân ra từ khu rừng rậm. Ở khoảng trên bên phải là con người đang xây lâu đài và rèn gươm. Ở phía dưới bên trái, Urgal – phần lớn là Kull – đốt phá làng mạc và giết người. Ở phía dưới bên phải, người lùn khai mỏ đầy khoáng thạch và vỉa quặng. Giữa thân và cành cây sồi, Eragon nhận thấy ma mèo và Ra’zac, còn có một loài vật nhỏ kì lạ mà nó không nhận ra. Cuộc chính giữa thân cây là một con rồng đang ngậm đuôi như thể cắn chính mình. Cánh cửa được chạm khắc tuyệt đẹp. Nếu ở tình cảnh khác, nó sẵn sàng bỏ cả ngày ra ngồi đây nghiên cứu chúng.

Ánh sáng chói lọi của cánh cổng làm nó dâng lên cảm giác khiếp đảm khi cân nhắc thứ gì phía bên kia. Nếu đó là Galbatorix, thì cuộc đời của họ sẽ thay đổi mãi mãi và không bao giờ như trước nữa – cả cho họ lẫn toàn bộ Alagaësia.

Anh chưa sẵn sàng, Eragon thì thào với Saphira.

Từ khi nào bọn mình sẵn sàng vậy? Cô nàng thè lưỡi đớp không khí. Nó có thể thấy cô nàng đề phòng rất căng thẳng. Galbatorix lẫn Shruikan đều phải bị tiêu diệt, và chúng mình là người duy nhất có thể làm chuyện đó.

Nếu chúng mình không thể thì sao?

Thì không thể thôi, cái gì phải đến sẽ đến.

Nó gật nhẹ đầu, hít sâu một hơi. Anh yêu em, Saphira.

Em cũng yêu anh, anh nhỏ.

Eragon bước lên. “Giờ sao?” Nó hỏi cố giấu sự khó thở. “Ta có nên gõ cửa không?”

“Đầu tiên, cứ xem nó có mở không đã,” Arya nói.

Họ dàn hàng sẵn sàng cho trận đấu. Rồi Arya, bên cạnh Elva, nắm lấy tay cầm cánh cửa bên phải và chuẩn bị kéo.

Ngay lúc đó, một cột ánh sáng lung linh quấn quanh Blödhgarm và mười tiên nhân bên cạnh ông. Eragon thét lên cảnh báo, Saphira rít lên như thể dẫm lên vật nhọn. Các tiên nhân không thể di chuyển trong cột sáng: kể cả mắt họ cũng có vẻ bất động ngay từ lúc phép thuật có tác dụng.

Có tiếng cạch nặng nề vang lên, cánh cửa từ tường bên trái mở ra, các tiên nhân trượt về phía đó như thể những bước tượng trên mặt băng.

Arya lao theo, vươn ngạnh thương ra cố chọc thủng bùa chú trói buộc các tiên nhân, nhưng cô không theo kịp họ.

“Letta!” Eragon la lên. Dừng lại! Pháp thuật đơn giản nhất nó nghĩ có thể giúp được. Nhưng bùa chú ếm lên các tiên nhân có vẻ quá mạnh để nó có thể phá, họ biến mất trong bóng tối, cánh cửa đóng sập lại phía sau.

Cảm giác chán nản dâng trong lòng Eragon. Không có các tiên nhân …

Arya đập mạnh cánh cửa bằng cán thanh Dauthdaert, cố tìm kẽ hở giữa cánh cửa và bức tường bằng ngọn thương – như đã làm với cổng ngoài – nhưng bức tường dường như đặc kín, bất động.

Cô quay lại, vẻ mặt lạnh lẽo điên tiết. Umaroth, cô yêu cầu. Tôi cần sự giúp đỡ của người để mở cửa.

Không, con rồng trắng đáp. Galbatorix chắc chắn giấu những người kia rất kĩ. Cố tìm họ chỉ lãng phí năng lượng và đặt chúng ta vào tình thế nguy hiểm hơn.

Arya nhíu mày giận giữ. Thế thì chúng ta lọt bẫy lão mất, Umaroth-tiền-bối. Lão muốn tách chúng ta ra cho yếu đi. Nếu tiếp tục đi mà không có họ, Galbatorix càng dễ đánh bại chúng ta hơn.

Phải rồi, nhóc con. Nhưng ngươi có nghĩ Kẻ Phản Đồ(nguyên văn: Egg-breaker)muốn chúng ta lần theo họ không? Hắn có thể muốn chúng ta quên mất lão ta trong lo lắng, giận dữ, mù quáng nhảy vào một cái bẫy khác.

Sao lão phải lắm chuyện như thế? Lão có thể bắt Eragon, Saphira, người và toàn bộ các Eldunarí hệt như đã tóm mấy người Blödhgarm kia mà, nhưng lão không làm thế.

Có lẽ hắn muốn chúng ta tự kiệt sức trước khi đối mặt hắn hoặc trước khi hắn đánh bại chúng ta.

Aray cúi đầu suy nghĩ, rồi khi ngẩng lên cơn thịnh nộ của cô tan đi – ít ra là bề ngoài – thay bằng vẻ cảnh giác cao độ bình thường. Vậy chúng ta nên làm gì, Ebrithil?

Chúng ta hy vọng Galbatorix sẽ không giết mấy người Blödhgarm, ít ra là ngay lập tức , và tiếp tục cho đến khi tìm thấy nhà vua.

Dù Arya chấp thuận, nhưng Eragon có thể thấy cô thực khó chịu. Nó không thể đổ lỗi cho cô được vì chính nó cũng thấy vậy.

“Sao em không cảm thấy cái bẫy?” Nó nhẹ giọng hỏi Elva. Nó nghĩ mình hiểu, những vẫn muốn nghe lý do từ cô bé.

“Vì nó không làm họ đau,” cô bé nói.

Nó gật nhẹ.

Arya lui về phía cánh cửa vàng, nắm lấy tay cầm bên trái. Elva cũng nắm lấy cán thanh Dauthdaert.

Arya nghiêng người kéo, rồi cánh cửa vĩ đại chầm chậm mở ra. Eragon dam chắc không con người nào đủ sức mở nó, kể cả với sức mạnh của Arya.

Khi cánh cửa chạm bức tường, Arya thả ra, cùng Elva bước theo Eragon phía trước Saphira.

Phía bên kia cổng tò vò là một căn phòng khổng lồ tối tăm. Eragon không dám chắc nó lớn cỡ nào, vì những bức tường mờ ẩn trong bóng tối xám xịt. Một hàng đèn-lồng-không-lửa đặt trên các cột sắt chạy dọc hai bên lối vào, thắp sáng mù mờ sàn nhà chạm trổ, trong khi ánh sáng mù mờ tỏa ra từ những tinh thể gắn trên trần nhà xa xa. Hai hàng đèn lồng dài chừng năm trăm thước tới gần cái bệ rộng, trên đó là ngai vàng. Một bóng dáng duy nhất ngồi đơn độc trong căn phòng, dưới vạt áo hắn là thanh gươm trần trắng dài, đang tỏa ánh sáng nhàn nhạt.

Eragon nuốt nước bọn, nắm chặt thanh Brisingr. Nó gãi nhẹ cằm Saphira bằng cạnh khiên, cô nàng táp lưỡi nhẹ đáp trả. Rồi không nói gì, cả bốn cùng tiến lên.

Khi họ tiến vào phòng, cánh cửa vào đóng sập lại phía sau. Eragon cũng đoán trước được, nhưng tiếng động vẫn làm nó giật mình. m thanh vang vọng nhạt dần nhường chỗ cho sự im lặng tỏa khắp căn phòng lớn, bóng dáng phía trên ngai cựa mình như thức giấc, rồi một giọng nói – thứ giọng Eragon chưa từng nghe: nó trầm và mãnh liệt, thấm đầy uy lực hơn cả Ajihad hay Oromis hay Hrothgar, kể cả tiếng nói của tiên nhân cũng trở nên chói tai khó nghe khi so với nó – vang lên từ phía xa căn phòng.

Giọng nói đó bảo, “À, ta đang chờ mọi người đây. Chào mừng tới tệ xá. Và nhất là cậu đấy, Eragon Khắc tinh của Tà thần, và cho ngươi, Saphira Vảy Sáng. Ta rất mong gặp các cậu. Nhưng ta cũng hân hạnh gặp cô nữa, Arya – ái nữ của Islanzadí, mà cũng là Khắc tinh của Tà thần phải không – cả cô bé nữa, Elva My Rạng (nguyên văn: she of the Shining Brow). Dĩ nhiên, cả Glaedr, Umaroth, Valdr, những người du hành vô hình nữa. Ta tưởng họ đã mất lâu rồi, nhưng giờ thật mừng vì ta đã lầm. Chào mừng tất cả mọi người! Chúng ta phải nói chuyện thật nhiều mới được.”

Trái tim của cuộc chiến

Cùng các binh sĩ trong tiểu đoàn, Roran chiến đấu từ trên tường thành Urû’baen xuống đường phố bên dưới. Họ ngừng một chút tập hợp, anh vừa hô, “Ra cổng!” vừa chĩa búa theo hướng đó.

Anh cùng vài dân làng Carvahall, có cả chú Horst và Delwin, dẫn đầu tấn công về phía lỗ thủng các tiên nhân tạo ra bằng phép thuật. Cung tên bay tán loạn trên đầu họ, nhưng không nhắm thẳng vào họ, anh cũng không nghe thấy ai trong nhóm bị trúng tên cả.

Họ đúng đầu vài tá binh lính trong khoảng ngõ hẹp giữa tường thành và những ngôi nhà đá. Một số ở lại chiến đấu để hầu hết tiếp tục chạy, nhưng kể cả họ cũng sớm rút vào những hẻm gần kề.

Lúc đầu cảm giác cuồng nhiệt được giết chóc và chiến thắng làm mờ mắt Roran. Nhưng rồi khi bọn lính họ gặp bỏ chạy liên tục, cảm giác lo lắng cuộn lên trong Roran, anh bắt đầu nhìn xung quanh đầy cảnh giác, tìm kiếm bất kì thứ gì trông lạ thường.

Có gì đó không ổn. Anh chắc chắn.

“Galbatorix không bỏ rơi chúng dễ vậy chứ”, anh lẩm bẩm.

“Gì thế?” Albriech đứng cạnh anh hỏi.

“Tôi nói, Galbatorix sẽ không bỏ rơi chúng như thế này đâu.” Ngoẹo đầu nhìn quanh, Roran hô lên với cả tiểu đoàn, “Đề cao cảnh giác nào! Tôi cuộc Galbatorix có thể còn nhiều thứ bất ngờ đấy. Chúng ta sẽ không để bị đánh bại mà không hiểu chuyện gì chứ, phải không?”

“Cây Búa Dũng Mãnh!” họ kêu gào đáp trả, vũ khí đặt sát khiên. Tất cả, trừ các tiên nhân. Đã thỏa mãn, anh bước nhanh tới kiểm tra các mái nhà.

Họ nhanh chóng tiến vào một con phố đầy sỏi đá dẫn thẳng đến nơi từng là cổng thành chính. Giờ nó chỉ còn là một cái hố rộng hàng trăm thước, với hàng đống xương vụn dưới đáy. Hàng đoàn chiến binh quân Varden và đồng minh tuôn qua khoảng trống: con người, người lùn, Urgal, tiên nhân và mèo ma lần đâu tiênsát cánh chiến đấu trong lịch sử.

Tên bắn ào ào như mưa lên quân đoàn đang tiến vào thành phố, nhưng phép thuật của các tiên nhân chặn đứng những mũi nhọn chết người trước khi đâm xuống. Nhưng binh lính của Galbatorix thì không được may mắn như vậy: chúc ngã gục tới tấp trước mũi tên của các cung thủ Varden, dù một số có vẻ được bảo vệ bởi pháp thuật. Roran đoán có lẽ đó là những kẻ được Galbatorix sủng ái.

Khi tiểu đoàn của anh nhập vào đoàn quân, Roran trông thấy Jörmundur cưỡi ngựa trong dòng thác chiến binh. Anh hô to chào, ông đáp lại rồi hô lên, “Khi tới đài phun nước” – ông chĩa gươm vào công trình lớn tráng lệ trong khoảng sân phía trước họ mấy trăm bộ - “dẫn lính của cậu về hướng phải. Dọn dẹp mạn Nam thành phố, rồi tập hợp với chúng tôi ở tòa thành.”

Roran gật mạnh đầu để Jörmundur thấy. “Vâng thưa Ngài!”

Giờ anh cảm thấy an toàn hơn khi có sự hỗ trợ của những chiến binh, nhưng cảm giác lo lắng vẫn tiếp tục. Bọn chúng đâu rồi? Anh băn khoăn, nhìn qua những con phố trống trải. Galbatorix đáng ra phải có hàng đoàn quân tại Urû’baen, nhưng Roran vẫn chưa thấy bóng dáng của chúng đâu cả. Chỉ có một số lính nháo loạn trên tường thành thật, và chúng còn bỏ chạy nhanh hơn bình thường nữa.

Hắn đang dụ chúng ta, Roran đột nhiên nhận ra. Tất cả được tạo ra để gạt chúng ta. Cố gọi Jörmundur lần nữa, anh la lên, “Có gì đó không đúng! Binh lính ở đâu rồi?”

Jörmundur tư lự, quay sang vua Orrin và Nữ hoàng Islanzadí, đang phóng ngựa phía trước. Kì cục sao, con trắng đậu trên giáp vai nữ hoàng, móng của nó bám vào khe hở trên chiếc áo giáp vàng của bà.

Quân Varden vẫn tiếp tục tiến sâu hơn vào lòng Urû’baen.

“Có chuyện gì vậy, Cây Búa Dũng Mãnh?” Nar Garzhvog gầm lên tiến tới bên Roran.

Roran liếc nhìn lên gã Kull đầu bự chảng. “Tôi không chắc lắm. Galbatorix …”

Anh quên ngay những gì mình định nói khi tiếng tù và vang lên giữa các tòa nhà phía trước. Tiếng kèn trầm trầm quái gở kéo dài hơn nửa phút khiến quân Varden khựng lại, nhìn quanh lo lắng.

Tim Roran như rụng xuống. “Đây rồi,” anh nói với Albriech. Quay người lại anh vẫy búa, chỉ về phía bên con đường. “Mai phục!” anh rống lên. “Chiu vào các tòa nhà, tránh đi!”

Tiểu đoàn của anh mất thời gian hơn nhiều để thoát ra khỏi đoàn quân. Bực mình, anh la hét, cố khiến họ di chuyển nhanh hơn. “Nhanh lên, mấy tên ngốc này! Nhanh lên!”

Tiếng tù và lại vang lên, rốt cục Jörmundur cũng ra lệnh dừng tiến quân.

Khi đó quân của Roran đã trốn an toàn trong ba con phố, đứng tụm vào trong các ngôi nhà chờ lệnh. Roran đứng sát trong một ngôi nhà cùng với Garzhvog và chú Horst, đứng ở góc cửa nhìn chăm chú xem chuyện gì đang xảy ra.

Rồi một tiếng tù và nữa vang lên, tiếng bước chân nặng nền vang khắp Urû’baen.

Roran kinh hãi khi anh thấy hàng đoàn hàng đoàn binh lính hành quân ra từ các con phố dẫn ra từ tòa thành, nhanh nhẹn, đầy kỉ luật, khuôn mặt không hề có một chút vẻ sợ hãi. Dẫn đần chúng là một gã lùn vai rộng trên con chiến mã màu xám. Hắn khoác bộ giáp sáng bóng phình ra cả tấc như thể cho lọt cái bụng lớn. Tay trái hắn đeo một chiếc khiên có hình tháp công thành trên đỉnh đồi trọc. Tay phải hắn cầm cây chùy đầu nhọn mà người thường khó mang được, nhưng hắn đang vung vẩy nó nhẹ nhàng.

Roran liếm môi. Anh đoán hắn không ai chính là Tướng Barst, nhưng chỉ cần một nữa những gì anh nghe về hắn đúng thôi, thì Barst cũng sẽ không bao giờ đối mặt trực diện với địch trừ khi hắn chắn chắn tiêu diệt được đối phương.

Roran thấy thế là quá đủ. Nhảy ra khỏi góc nhà, anh nói, “Chúng ta không chờ nữa. Gọi những người khác theo.”

“Ý anh là bỏ chạy hả, Cây Búa Dũng Mãnh?” Nar Garzhvog gầm gừ.

“Không,” Roran nói. “Ý tôi là đột kích từ bên sườn. Có rồ mới tấn công đoàn quân như thế này trực diện. Giờ đi!” Anh xô gã Urgal một cái, rồi đi thẳng xuống con đường dẫn đầu các chiến binh. Và có rồ mới chạm trán trực tiếp với kẻ Galbatorix chọn dẫn đầu quân đội của lão.

Khi họ lần qua những ngôi nhà san sát, Roran nghe binh lính bắt đầu hô, “Tướng Barst! Tướng Barst! Tướng Barst!”. Chúng dậm huỳnh huỵch lên mặt đất bằng đôi bốt đinh, vừa gõ gươm vào khiên vang dội.

Càng lúc càng hay, Roran nghĩ, ước gì mình ở bất kì đâu cũng được chứ không phải nơi này.

Rồi quân Varden hô vang đáp trả rộn ràng “Eragon!”, “Kỵ Sỹ Rồng!” thành phố rung chuyển cùng hàng tràng kim khí va chạm và tiếng la hét của binh sĩ bị thương.

Khi tiểu đoàn tiến đến điểm Roran ước chừng ở giữa quân đoàn Đế chế, anh lệnh họ dàn đội ngũ quay về phía địch. “Ở cạnh nhau,” anh ra lệnh. “Tiến lên từ bức tường với khiên phía trước, kiên quyết bảo vệ các pháp sư.”

Họ nhanh chóng nhận thấy binh lính trên con phố - chủ yếu là quân thương – dồn vào nhau khi chúng lê bước tới trận tiền.

Nar Garzhvog gầm lên hung tợn, Roran và các chiến binh khác cũng vậy, họ lao thẳng vào hàng ngũ quân địch. Binh lính hô lên cảnh báo, sự hốt hoảng lan đi khiến chúng dạt lùi lại, dẫm đạp nhau khi cố tìm khoảng trống chiến đấu.

Roran tru lên một tiếng, lao thẳng xuống hàng đầu tiên của địch. Máu bắn tung tóe khoe anh vung búa đập vào xương và kim khí. Lũ binh lính đứng chật chội đến mức chúng gần như vô dụng. Anh giết bốn tên trước khi chúng kịp vung gươm, bị anh đỡ bằng khiên.

Phía cuối con phố, Nar Garzhvog đốn ngã sáu tên chỉ bằng một phát dùi cui. Lũ lính lồm cồm bò dậy, không bận tâm đến vết thương có thể làm chúng tê liệt nếu biết đau, rồi Garzhvog giáng thêm một phát, quăng chúng đi như búp bê.

Roran không còn biết gì khác ngoài những tên lính trước mặt, sức nặng của cây búa trong tay và mặt đất đá trơn tuột vì nhốm máu dưới chân. Anh tàn phá, chiến đấu, anh cúi mình xô đẩy, anh gầm lên la hét, giết, giết, giết – cho đến khi ngạc nhiên phát hiện ra mình đang vung búa vào không khí. Vũ khí đập mạnh xuống nền đá tóe lửa, xóc lên đau đớn cả cánh tay anh.

Roran lắc mạnh đầu, cơn say chiến đấu nhạt dần; anh vất vả trèo qua đống xác của đám binh lính.

Ngoảnh lại, anh thấy phần lớn các chiến binh của mình vẫn chiến đấu với lũ lính. Gầm lên một tiếng nữa, anh lại nhảy bổ vào tiếp tục.

Ba tên lính đứng ngay gần anh: hai tên cầm thương, một tên cầm gươm. Roran nhào tới xô ngã tên cầm gươm, nhưng bị trượt chân khi giẫm phải cái gì đó mềm oặt. Ngay khi ngã, anh vẫn kịp vung búa đập vào mắt cá chân tên gần nhất. Gã lính nhảy lùi lại cố đâm xuống Roran, nhưng một tiên nhân nhảy tới và chỉ cần hai chiêu đã lấy đầu được cả ba tên.

Đó là tiên nữ anh đã la hét phía bên ngoài tường thành, giờ tơi tả với vạt áo đẫm máu. Trước khi anh kịp cảm ơn, bà đã phóng qua, thanh kiếm lượn mờ ảo khi bà hạ gục nhiều tên khác.

Sau khi nhìn họ chiến đấu, Roran kết luận mỗi tiên nhân mạnh ngang ít nhất năm người, chưa kể họ còn có thể phù phép. Đối với các Urgal, anh cố tránh xa khỏi họ, đặc biệt là các Kull. Khi hăng máu lên thì họ chẳng còn phân biệt địch ta gì hết, mà các Kull thì quá lớn, giết ai đó quá đơn giản mà không cần phải để ý. Anh thấy có Kull ép nát một tên lính vào tường nhà mà chẳng hay biết. Rồi anh lại thấy một Kull khác cắt đầu một tên lính khi vô ý xoạc khiên quay lại.

Cuộc đấu kéo dài thêm vài phút, khi những tên lính cuối cùng còn sót lại đều đã chết.

Quẹt mồ hôi trên khóe mắt, Roran nhìn dọc con phố. Xa hơn trong thành phố, anh thấy tàn dư của đội ngũ vừa bị tiêu diệt biết mất trong những ngôi nhà, nhập bọn vào những quân đoàn khác của Galbatorix. Anh định đuổi theo chúng, nhưng trận chiến quá gần rìa thành phố, mà anh thì muốn cắt đứt tuyến giữa của chúng khi đang tấn công.

“Đường này!” anh hét lên, nâng búa chạy dọc xuống con phố.

Một mũi tên cắm thẳng vào cạnh khiên, anh ngước lên thấy một bóng người trượt xuống mái nhà gần đó.

Khi Roran trồi lên từ mấy ngôi nhà sát nhau gần quảng trường trước đống đổ nát của cổng thàng, anh thấy một cảnh tượng làm anh bối rối không biết phải làm sao.

Hai đoàn quân hòa lẫn vào nhau cho đến khi không thể xác định được hàng ngũ gì cả, thậm chí cả không rõ tiền tuyến ở đâu nữa. Quân phục đỏ thẫm của binh lính rải rác khắp quảng trường, có khi lác đác, có khi thành cụm lớn, cuộc chiến lan ra khắp các con phố gần đó, hai đoàn quân tràn ra như vết dầu loang. Giữa những binh sĩ, Roran thấy như đoán trước hàng trăm con mèo – mèo thường, không phải ma mèo – đang tấn công binh lính, anh chưa bao giờ thấy chung hung dữ đáng sợ như vậy. Anh biết lũ mèo được sự chỉ dẫn của ma mèo.

Rồi ở trung tâm quảng trường, Tướng Barst đang cưỡi trên con chiến mã xám, bộ giáp lớn của hắn lóe sáng ảnh lửa đốt cháy những ngôi nhà kế bên. Hắn vung chùy hết lượt này đến lượt khác, nhanh hơn khả năng của con người, mỗi lần hạ gục ít nhất một quân Varden. Tên bắn về phía hắn nhanh chóng bị thiêu rụi trong ngọn lửa da cam, gươm giáo trúng hắn bật ra như thể đập vào đá, kể cả một Kull lao tới cũng không đủ mạnh thúc hắn ra khỏi con ngựa. Roran kinh ngạc thấy chỉ bằng một cú vụt bình thường, hắn có thể làm vỡ sọ và sừng một Kull như thể đập vỏ trứng.

Roran nhăn mặt. Thế quái nào mà hắn nhanh và mạnh như thế được? Câu trả lời thì dĩ nhiên là phép thuật rồi, nhưng kể cả phép thuật cũng phải có nguồn gốc. Không có viên ngọc nào trên cây chùy hay giáp của Barst cả, Roran cũng không tin Galbatorix có thể cung cấp năng lượng cho hắn từ khoảng cách này. Roran nhớ lại cuộc nói chuyện với Eragon trước khi giải cứu Katrina ở Helgrind. Eragon từng nói không thể thay đổi cơ nhục của con người để có sức mạnh và tốc độ như tiên nhân được, kể cả cho dù là Kỵ Sỹ đi nữa – những gì loài rồng làm với Eragon trong Lễ Huyết Thệ cũng quá thần kì. Có vẻ Galbatorix cũng không làm như vậy đối với Barst, khiến Roran băn khoăn, nguồn gốc sức mạnh phi phàm của hắn ở đâu ra vậy?

Barst giật yên cương quay con chiến mã lại. Tia sáng lóe lên trên bề mặt bộ giáp phình ra khiến Roran chú ý.

Miệng Roran khô lại trong cơn tuyệt vọng. Từ những gì anh biết, Barst không béo. Hắn sẽ không khiến cơ thể yếu đuối, mà Galbatorix cũng sẽ không chọn kẻ như vậy bảo vệ Urû’baen. Cách giải thích hợp lý duy nhật là Barst giấu một Eldunarí trong lòng áo giáp có hình dạng kì cục.

Rồi con phố rung chuyển tách ra, một chiếc hố xuất hiện bên dưới Barst và con chiến mã. Miệng hố thừa đủ để nuốt gọn cả hai, nhưng con ngựa vẫn đứng trên không trung như thể trên đất bằng. Một vầng sáng màu lung linh xung quanh Barst như thể hào quang hay một mảnh cầu vồng. Những đợt khí nóng rồi lạnh phát ra từ phía Barst, rồi Roran thấy những lưỡi băng tua tủa mọc lên từ mặt đất, cố quấn quanh chận con chiến mã giữ chặt nó. Nhưng cọc băng không thể bắt con ngựa, bất kể phép thuật nào cũng không có tác dụng gì lên chúng.

Barst lại giật cương ngựa, phi thẳng đến một nhóm tiên nhân đứng gần một ngôi nhà niệm cổ ngữ. Roran đoán có lẽ họ đã phóng bùa chú vào Barst.

Giơ chùy cao quá đầu, Barst phi thẳng vào giữa đám tiên nhân. Họ chạy tán loạn cố tự bảo vệ, nhưng vô nghĩa, Barst đập vỡ khiên và gươm của họ nhẹ nhàng, rồi khi hắn đánh trúng, cái chùy nghiền nát các tiên nhân như thể xương cốt của họ mảnh khảnh rỗng tuếch như của loài chim.

Sao lưới phòng hộ không bảo vệ họ? Roran wondered. Sao họ không tấn công hắn bằng tâm trí? Hắn chỉ có một người, mà chỉ có một Eldunarí.

Cách vài bộ, một tảng đá bự chảng đạp thẳng vào biển người đang chiến đấu, để lại một vệt dài đỏ thẫm, rồibật lên dội vào mặt trước tòa nhá, nghiền nát bức tượng trên khung cửa.

Roran cúi xuống, chửi thề, nhìn về phía những hòn đá phóng ra. Từ phía kia của thành phố, anh thấy lính của Galbatorix đã chiếm được các máy bắn đá trên tường thành. Chúng đang bắn chính thành phố của mình, anh cáu. Chúng đang bắn chính đồng đội của mình.

Gầm lên kinh tởm, anh chạy khỏi quảng trường, đối mặt với khu nội thành. “Chúng ta không làm gì ở đây được!” anh hô lên với tiểu đoàn. “Để Barst lại cho người khác. Chiếm lấy những con phố phía đó!” Anh chỉ sang trái. “Chúng ta sẽ đánh đến tường thành và dừng ở đó!”

Rồi anh phóng vụt đi ngay lập tức, còn không kịp nghe các binh sĩ có phản ứng gì. Phía sau anh, một tảng đá khác lao xuống hai quân đoàn đang chiến đấu, tiếng kêu gào đau đớn còn vang vọng hơn.

Con phố Roran chọn đầy rẫy binh lính, cũng như rất ít thần tiên và ma mèo, lúc này đang túm tụm lại trước cửa hàng mũ, vất vả cầm cũ lũ lượt binh lính vây quanh. Các tiên nhân hét lên, khoảng một tá lính ngã xuống, nhưng số còn lại vẫn đứng được.

Nhảy thằng vào giữa đám lính, Roran lại chìm đắm trong trận chiến đẫm máu. Anh nhảy lên xác một tên lính, hạ búa xuống đầu một tên khác khi quay lưng. Tự tin hắn đã chết, Roran dùng khiên đẩy tên kế tiếp lại, đâm mạnh cán búa chọc thủng cổ họng hắn.

Bên cạnh anh, Delwin bị một thanh thương đâm vào vai, quỳ xuống bằng một chân kêu lên đau đớn. Vung búa nhanh hơn, Roran đẩy lùi gã lính trong khi Delwin rút thương ra đứng lên.

“Lui lại,” Roran gào lên.

Delwin lắc đầu nhe răng. “Không!”

“Lui lại, mẹ kiếp! Đấy là lệnh.”

Delwin chửi thề nhưng vẫn tuân lệnh, chú Horst thế chỗ cậu. Roran để ý người thợ rèn chảy máu từ những vết chém trên tay chân, nhưng chúng không làm ông chậm đi chút nào.

Tránh một cú đâm, Roran bước về phía trước. Có vẻ anh nghe thấy một tiếng soạt nhẹ sau lưng, rồi có tiếng sấm nổ bên tai, bầu trời như quay cuồng, tối sầm đi.

Anh tỉnh dậy đầu vẫn đau nhói. Phía trên anh thấy bầu trời – sáng bừng bởi ánh mặt trời – và mảng tối phía dưới phiến đá nứt nẻ nhô ra.

Rên lên vì đau, anh cố đứng dậy. Anh đang nằm dưới chân của bức tường thành bên ngoài, bên cạnh mảnh đá vỡ dính đầy máu. Cả khiên và búa đều văng mất, khiến anh mụ đi một lúc.

Ngay khi anh cố lấy thăng bằng, một tốp năm tên linh lao thẳng đến, một tên đâm thương vào ngực anh. Mũi thương đẩy anh đập tường, nhưng không chạm vào da.

“Tóm lấy nó!” mấy tên lính la lên, Roran thấy cả tay và chân đều bị giữ chặt. Anh quẫy đạp cố gắng vùng ra, nhưng anh vẫn quá yếu và choáng váng, hơn nữa lại bị quá nhiều tên lính áp đảo.

Bọn lính đánh anh liên tục, anh cảm thấy sức mạnh càng lúc càng giảm khi lớp bảo vệ chắn anh khỏi những đòn đánh. Mọi thứ như xám xịt lại, anh dần thấy ngất đi, cho đến khi một thanh gươm xọc ra từ miệng một tên lính.

Lũ lính thả anh ra, Roran nhìn thấy người phụ nữ tóc đen xoay tít giữa bọn lính, thanh kiếm múa điêu luyện hơn cả những chiến binh dày dặn. Trong vài giây, bà giết sạch cả năm tên, dù gã cuối cùng cắt được một vết nông phía dưới đùi trái bà.

Tiếp đó, bà đưa tay ra đỡ anh nói, “Cây Búa Dũng Mãnh.”

Anh bám chắc tay bà, nhìn lên cổ tay - nơi bao tay không che kín – vằn vện những sẹo, như thể bà từng bị đốt hay quất tới tận xương. Đằng sau bà là một cô bé sắc mặt tái nhợt mặc áo giáo khuyên, và một bé trai nhỏ hơn một hai tuổi gì đó.

“Bà là ai?” anh đứng lên. Khuôn mặt người phụ nữ rất ấn tượng: nó rộng, vững chãi, ánh mắt sắc sảo dạn dày sương gió của người từng trải qua cả cuộc đời giông tố.

“Một kẻ qua đường mà thôi,” bà nói. Bà cúi xuống nhặt lên một thanh thương đưa cho anh.

“Xin cảm ơn.”

Bà gật nhẹ, rồi cùng với hai người đồng hành nhỏ tuổi bước giữa những ngôi nhà, tiến sâu vào lòng thành phố.

Roran nhìn trân trối họ trong nửa giây lo lắng, rồi lắc mạnh đầu, rảo bước về con phố với tiểu đoàn của mình.

Các chiến binh chào đón anh bằng tiếng hô vang kinh ngạc, phấn khích tấn công địch với khi thế dồn dập. Tuy nhiên, khi Roran quay qua các đồng đội từ làng Carvahall, anh nhận ra tảng đá bắn trúng anh còn giết cả Delwin nữa. Nỗi buồn nhanh chóng chuyển thành cơn cuồng nộ, anh chiến đấu điên cuồng hơn bao giờ hết, quyết tâm kết thúc trận chiến càng nhanh càng tốt.

Tên của các tên (The Name of All Names)

Vừa sợ hãi vừa quyết tâm, Eragon bước cùng Arya, Elva và Saphira về phía bệ đá nơi Galbatorix đang ngồi thoải mái trên ngai vàng.

Quãng đường đi đủ dài để Eragon cân nhắc một loạt chiến thuật mà hầu như đều không khả thi tí nào. Nó biết chỉ sức mạnh không thôi chưa đủ để đánh bại nhà vua; phải khôn khéo nữa, mà cái đó thì nó cảm thấy kém nhất. Dù sao nó không có lựa chọn nào khác ngoài việc đối mặt với Galbatorix.

Hai hàng đèn lồng dẫn tới bệ đá rộng đủ cho họ bước cạnh nhau. Eragon cảm thấy mừng, vì Saphira có thể chiến đấu ngay nếu cần thiết.

Khi họ tiến gần ngai vàng, Eragon tiếp tục xem xét căn phòng. Nó nghĩ nơi kì lạ này không giống nơi để vui tiếp khách khứa. Ngoài hướng đi được rọi sáng phía trước, toàn bộ phần còn lại ẩn trong bóng tối xám xịt - còn hơn cả sảnh đường của người lùn dưới lòng Tronjheim và Farrthen Dûr – không khí khô đượm mùi xạ hương quen thuộc, dù nó không nhớ ra ở đâu.

“Shruikan đâu rồi?” nó trầm giọng hỏi.

Saphira khụt khịt. Em có thể ngửi thấy nó, nhưng không nghe thấy gì hết.

Elva cau mày. “Tôi cũng không cảm thấy con rồng.”

Khi chỉ còn cách bệ đá chừng ba mươi thước, họ dừng lại. Phía sau ngai vàng phủ xuống bức màn đen dầy như nhung, treo lên từ mái nhà.

Bóng đen phủ lên Galbatorix, che đi hình hài của lão. Rồi lão ngả người ra ánh sáng, và Eragon nhìn khuôn mặt lão. Nó dài, mảnh khảnh, lông mày sâu, mũi sắc như gươm. Cặp mắt lão sắc như đá, tròng mắt trắng nhờ nhờ. Miệng lão mỏng và khóe hơi chếch xuống, lão để râu cắt tỉa gọn gàng và ria mép, đen như dầu hắc ín y hệt như quần áo lão đang mặc. Nhìn qua lão trạc tầm bốn mươi: độ tuổi đỉnh cao sung mãn, nhưng bên bờ suy sụp. Có những nếp nhăn trên lông mày và hai bên mũi, làn da sạm của lão nhìn có vẻ mỏng tang như thể lão không ăn gì ngoài thịt thỏ và củ cải trong suốt mùa đông. Vai lão rộng và chắc chắn, hông thon gọn.

Trên đầu lão đội một vương miện màu đỏ làm từ vàng đính đủ loại đá quý. Chiếc vương miện nhìn cũ kĩ – còn hơn cả căn phòng, Eragon tự hỏi có phải nó từng thuộc về vua Palancar hàng trăm năm trước hay không.

Thanh gươm của lão nằm trên vạt áo. Đó là một thanh gươm Kỵ Sỹ, hiển nhiên, nhưng Eragon chưa thấy cái như thế bao giờ. Cả lưỡi gươm, cán lẫn đầu nối đều trắng muốt, một viên ngọc đính trên chuôi kiếm trong suốt như nước suối. Nói chung, có gì đó ở thanh gươm khiến Eragon không dễ chịu tí nào. Màu của nó – hay đúng hơn là cái sự thiếu màu sắc– gợi nó nhớ đến những mảnh xương trải qua nắng gió. Đó là màu của cái chết, không phải sự sống, trông còn đáng sợ hơn màu đen nhiều.

Galbatorix xem xét từng người bọn họ bắng ánh mắt sắc lẻm không chớp. “Thế là, các cậu đến đây để giết ta,” lão nói. “Được rồi, bắt đầu chưa?” Lão nhấc thanh gươm rồi dang tay ra như thể chào mời.

Eragon xoải chân, nâng gươm và khiên lên. Lời mời của nhà vua làm nó khó chịu kinh khủng. Lão đang đùa với bọn ta.

Vẫn nắm chặt thanh Dauthdaert, Elva bước lên rồi bắt đầu nói. Nhưng cô bé không thốt ra lời nào, ánh mắt nhìn Eragon cảnh báo.

Eragon cố gắng chạm vào tâm trí cô bé, nhưng nó không cảm thấy tư tưởng của cô bé, nhưng thể cô bé không còn ở trong phòng nữa.

Galbatorix cười ngả, rồi thả lưỡi gươm xuống vạt áo và dựa vào ngai. “Nhóc thực tin rằng ta không để ý đến khả năng của nhóc à? Nhóc thực nghĩ rằng có thể khiến ta khổ sở bằng trò vặt vãnh rõ như ban ngày đó à? Ờ phải, ta không nghi ngờ lời nói của nhóc có thể làm tổn thương mình, nhưng chỉ khi ta nghe chúng thôi.” Vành môi nhợt nhạt của lão cong lên thành nụ cười độc ác, vô cảm. “Điên rồ làm sao. Đây là toàn bộ kế hoạch của các người à? Con bé sẽ không thể nói trừ khi ta cho phép nó rời khỏi đây, một cây thương đáng treo lên tường hơn là mang ra chiến đấu, rồi một đám Eldunarí gần như lẩn thẩn với tuổi tác à? Chậc, chậc. Ta tưởng cô phải khá hơn chứ, Arya. Ông nữa, Glaedr, nhưng ta ngờ cảm xúc của ông đã che mờ trí nhớ từ khi ta cho Murtagh giết Oromis rồi thì phải.”

Glaedr giục Eragon, Saphira và Arya, Giết hắn. Con rồng cảm thấy cực kì bình tĩnh, nhưng trong sự trầm lặng lộ ra cơn giận áp đảo mọi cảm xúc khác.

Eragon liếc mắt với Arya và Saphira, rồi cả ba cùng tiến tới bệ đá, kể cả Glaedr, Umaroth và các Eldunarí cũng cố tấn công trí óc Gallbatorix.

Trước khi Eragon đi được vài bước, nhà vua đứng dậy khỏi chiếc ghế nhung, hô to một Từ. Từ đó vang dội trong trí óc Eragon, từng phần trong cơ thể nó vỗ nhẹ hưởng ứng, như thể nó là một nhạc cụ vừa được người nghệ sĩ gảy nốt. Cho dù có cố gắng thế nào, Eragon cũng không thể nhớ Từ đó được; nó tan ngay trong tâm trí Eragon, chỉ còn sót lại ý nghĩ về sự tồn tại và ảnh hưởng tới nó.

Galbatorix thốt ra những từ khác sau đó, nhưng không có sức mạnh tương tự, còn Eragon thì mụ người đi không hiểu nổi ý nghĩa của chúng. Nhà vua vừa dứt lời, một lực lượng trói chặt Eragon, ép nó không đi nổi. Lực trói khiến nó kêu lên ngạc nhiên. Nó cố cử động, nhưng cơ thể như bị nhúng vào đá vậy. Tất cả những gì nó có thể làm là thở, nhìn, và nói.

Nó không hiểu nổi: lưới phòng vệ đáng ra phải bảo vệ nó khỏi phép thuật của nhà vua. Chúng đáng lẽ không để nó phải chới với trên bờ vực thẳm như thế này.

Cạnh nó, Saphira, Arya và Elva cũng có vẻ bất động y hệt.

Tức tối vì nhà vua bắt nó quá dễ dàng, Eragon kết nối tâm trí với các Eldunarí lúc này đang chống cự lại tâm thức của Galbatorix. Nó cảm thấy có một lượng lớn tâm trí khác chống lại họ - tất cả đều là rồng, đang than vãn, lảm nhảm, kêu thét điên dại những điệp khúc rời rạc chỉ chứa nỗi đau đỡn và u buồn, Eragon cố thoát ra tránh chúng kéo nó vào cơn điên loạn. Chúng cũng mạnh nữa, như thể ít ra cũng phải ngang Glaedr hoặc lớn hơn.

Lũ rồng cản trở khiến không thể nào trực tiếp tấn công tâm trí Galbatorix được. Cứ mỗi lần Eragon nghĩ nó cảm thấy chạm được vào tư tưởng nhà vua, một con rồng bị giam lại nhảy vào tâm trí nó, lắp bắp liên hồi – buộc nó phải rút lui. Chống cự lũ rồng thực khó, bởi suy nghĩ của chúng hoang dã và không liền mạch; khuất phục bất kì con rồng nào trong số chúng cũng hệt như dí đầu một con sói dại. Hơn nữa, số lượng của chúng quá lớn, hơn nhiều so với số các Kỵ Sỹ giấu ở Thung Lũng Linh Hồn.

Trước khi bên nào chiếm được lợi thế, Galbatorix nói, có vẻ hoàn toàn không ảnh hưởng gì bởi cuộc chiến vô hình, “Ra đây nào, các con yêu, ra gặp khách nào.”

Một bé trai và một bé gái nhô ra từ sau ngai vàng đứng bên tay phải nhà vua. Bé gái tầm sáu tuổi, trong khi bé trai có lẽ tám hay chín. Chúng trông rất giống nhau, Eragon đoán có lẽ là hai anh em. Cả hai đều mặc đồ ngủ. Bé gái cầm tay bé trai núp sau lưng anh, trong khi bé trai có vẻ sợ hãi nhưng cũng quyết tâm. Kể cả khi đang chống lại các Eldunarí của Galbatorix, Eragon cũng cảm nhận được tâm trí của lũ trẻ - cảm thấy nỗi sợ và bối rối của chúng – nó biết chúng có thật.

“Con bé đáng yêu không nào?” Galbatorix nhấc cằm bé gái vuốt nhẹ bằng ngón tay dài. “Đôi mắt to và mái tóc đẹp dường này. Và thằng bé cũng đẹp trai quá chứ?” Lão đặt tay lên vai bé trai. “Con cái, ai đó nói rằng là lời cầu chúc cho tất cả chúng ta. Ta thì không chia sẻ niềm tin đó đâu. Từ kinh nghiệm của ta, mỗi đứa trẻ đều tàn nhẫn và thù hận chẳng kém người lớn. Chúng chỉ thiếu sức mạnh để khuất phục kẻ khác mà thôi.

“Có lẽ các người sẽ đồng ý với ta, có khi không. Dù sao, ta biết mỗi kẻ Varden các người tự hào về đức hạnh của mình lắm. Các người nghĩ mình là kẻ thực thi công lý, kẻ bảo vệ những người vô tội – như thể có ai đó thực sự vô tội. Được thôi; cho ta thấy lòng tin của các người, xem các người có đúng như những gì tuyên bố không nào. Trừ khi các người ngừng tấn công, nếu không ta sẽ giết cả hai” – lão lắc lắc vai bé trai – “và ta sẽ giết chúng nếu các người dám tấn công lần nữa … Thực ra thì nếu các người làm ta bất mãn quá, thì ta cũng cứ giết chúng thôi, nên ta khuyên các người hãy nhã nhặn một chút.” Cả hai đứa bé có vẻ phát bệnh bởi lời lão, nhưng chúng không cố bỏ chạy.

Eragon nhìn Arya, nó cũng thấy nỗi tuyệt vọng trong mắt cô.

Umaroth! Họ thét lên.

Không, con rồng trắng gầm lên, kể cả khi nó đang vật lộn với tâm trí một Eldunarí khác.

Người phải ngừng lại, Arya cầu khẩn.

Không!

Lão sẽ giết chúng mất, Eragon van.

Không, chúng ta sẽ không từ bỏ. Không phải lúc này!

Đủ rồi đấy! Glaedr gầm lên. Những con chim non đang gặp nguy hiểm!

Và sẽ thêm những con chim non sẽ hiểm nguy nếu chúng ta không giết Kẻ-Phá-Trứng ngay.

Đúng, nhưng bây giờ thì không phải là lúc. Arya nói. Cứ chờ thêm một lúc nữa, có lẽ chúng ta sẽ tìm ra cách tấn công lão mà không phải mạo hiểm tính mạng của bọn trẻ.

Nếu không thì sao? Umaroth hỏi.

Cả Eragon và Arya đều không trả lời nổi.

Thì chúng ta sẽ làm điều cần thiết, Saphira lặng lẽ. Eragon ghét chuyện này, nhưng nó biết cô nàng nói phải. Họ không để đặt tính mạng của hai đứa trẻ lên trước toàn bộ Alagaësia được. Nếu có thể, họ sẽ cố cứu hai đứa bé, nhưng nếu không, họ sẽ cứ tấn công. Không còn lựa chọn nào khác.

Khi Umaroth và các Eldunarí khác miễn cưỡng rút lui, Galbatorix mỉm cười. “Thế, tốt hơn rồi. Giờ hãy nói chuyện như những người văn minh nào, mà không phải lo ai sẽ giết ai nhé.” Lão vỗ nhẹ đầu bé trai rồi chỉ vào bậc thềm của bệ đá. “Ngồi”. Không cự nự gì hết, hai đứa trẻ ngồi ngay xuống bậc thấp nhất, cách xa nhà vua nhất có thể. Rồi Galbatorix tiến lại nói, “Kausta,” Eragon trượt dần về phía bệ đá, cùng với Arya, Elva và Saphira.

Eragon vẫn hoang mang không hiểu tại sao lưới phòng hộ của họ lại không có tác dụng. Nó nghĩ về Từ đó- dù nó là gì – nỗi nghi ngờ khủng khiếp nảy lên trong ý nghĩ nó. Rồi đến tuyệt vọng. Nào là kế hoạch, bàn bạc, lo lắng, đau khổ, bao nhiêu hy sinh, Galbatorix vẫn bắt họ dễ như tóm một ổ mèo con sơ sinh. Nếu nghi ngờ của Eragon chính xác, nhà vua còn ghê gớm hơn cả họ có thể tưởng tượng.

Tuy nhiên họ không mất sạch hy vọng. Tâm trí, đến bây giờ, vẫn là của họ. Nó biết họ có thể dùng pháp thuật … cách này hay cách khác.

Galbatorix nhìn chăm chú Eragon. “Vậy cậu là kẻ gây cho ta bao nhiêu phiền phức đấy à, Eragon, con trai Morzan… Chúng ta đáng lẽ phải gặp nhau lâu rồi. Mẹ câu thật ngốc đã giấu cậu ở Carvahall, cậu lẽ ra phải lớn lên ở Urû’baen này, trong sự vinh quang, giàu có và trách nhiệm kèm theo, hơn là ngày ngày đào bới đất cát.

“Nhưng muộn còn hơn không, giờ cậu đã ở đây, những thứ đó sẽ thuộc về cậu. Chúng là tài sản của cậu, tài sản thừa kế, và ta sẽ giao nó cho cậu.” Lão có vẻ đang xem xét Eragon kĩ lưỡng hơn hết, rồi nói, “Cậu giống mẹ hơn giống cha đấy. Murtagh thì ngược lại. Không thành vấn đề cho lắm. Cậu giống ai cũng được, cậu và anh trai đều phục vụ ta là phải thôi, kể cả cha mẹ cậu nữa.”

“Không bao giờ,” Eragon nghiến răng.

Gương mặt nhà vua lóe lên nụ cười nhạt. “Không bao giờ à? Ta sẽ thấy ngay thôi.” Ánh mắt lão chuyển hướng. “Và người, Saphira. Trong các vị khách hôm nay, ta vui mừng gặp người nhất đấy. Ngươi đã trưởng thành thật tốt nhỉ. Ngươi có nhớ nơi này không? Có nhớ thanh âm của ta hay không? Ta dành nhiều đêm nói chuyện với ngươi và những quả trứng khác trên cương vị của mình, trong bao năm ta củng cố vương quyền trên lãnh thổ Đế chế.”

Tôi… tôi nhớ một chút, Saphira nói, Eragon lặp lại với nhà vua. Cô nàng không muốn tiếp xúc trực tiếp với lão, mà lão cũng không cho phép điều đó. Cách biệt tâm thức là cách tốt nhất đảm bảo tránh được xung đột công khai.

Galbatorix gật gù. “Ta chắc ngươi sẽ nhớ rõ hơn khi ở lại nơi này. Người có thể không hiểu rõ ngay, nhưng hầu hết cuộc đời ngươi đã sống ở một căn phòng gần đây thôi. Đó là nơi ngươi thuộc về. Đó là nơi ngươi sẽ xây tổ và đẻ trứng.”

Đôi mắt Saphira co lại, Eragon nhận thấy khao khát kì lạ dâng lên trong cô nàng, lẫn lộn với lòng căm thù hừng hực.

Nhà vua nhìn tiếp. “Arya Dröttningu. Số phận có vẻ hơi hài hước thì phải, đã ở đây, thậm chí ta đã ra lệnh cô được mang tới rất lâu rồi. Con đường của cô có vẻ quanh co hả, nhưng dù sao cô vẫn tới, mà còn tự giác nữa chứ. Ta thấy hơi buồn cười đấy. Cô có thấy thế không?”

Arya mím môi không trả lời.

Galbatorix cười khúc khích. “Ta thừa nhận cô là cái gai trong mắt cũng lâu rồi đấy. Cô không gây nhiều phiền phức như gã lăng xăng vụng về Brom, nhưng cô chẳng ngồi yên tí nào. Ai đó có thể nói toàn bộ vụ này là lỗi của cô, bởi cô đã mang trứng Saphira đến cho Eragon. Tuy nhiên, ta chẳng thù địch gì với cô hết. Nếu không có cô, Saphira sẽ không nở, mà ta cũng không bao giờ lôi được kẻ thủ ra khỏi hang ổ. Vì thế, ta cảm tạ cô.

“Và đây nhóc Elva. Đứa bé mang dấu hiệu Kỵ Sỹ trên trên lông mày. Được rồng in dấu và lời cầu phúc vừa đủ để tiếp nhận mọi nỗi đau và những gì sẽ tổn thương họ. Những đau khổ gì nhóc phải chịu đựng qua bao tháng ngày. Nhóc còn phải chán ghét những kẻ xung quanh bởi sự yếu đuối của chúng, kể cả khi nhóc buộc phải chia sẻ nỗi đau của chúng. Lũ Varden đối xử với nhóc tệ hại thật. Hôm nay ta sẽ kết thục những cuộc chiến đã tra tấn nhóc quá nhiều, nhóc sẽ không bao giờ phải chịu đựng sai lầm và bất hạnh của kẻ khác nữa. Ta hứa đấy. Thi thoảng, ta có lẽ sẽ cần tới năng lực của nhóc, nhưng hầu như nhóc sẽ được sống thoải mái, yên bình.”

Elva cau mày, nhưng hiển nhiên lời đề nghị của nhà vua lôi cuốn cô bé. Eragon nhận ra lắng nghe Galbatorix cũng nguy hiểm không kém lắng nghe Elva vậy.

Galbatorix dừng lại, xoa nhẹ chuôi kiếm bọc dây khi lão chăm chú nhìn họ với anh mắt tăm tối. Rồi lão nhìn thẳng vào khoảng không nơi các Eldunarí đang trôi nổi, và tâm trạng lão có vẻ u ám đi. “Chuyển lời ta đế Umaroth khi ta nói với họ,” lão nói. “Umaroth! Chúng ta lại gặp mặt hơi tệ lần nữa. Ta nghĩ ta đã giết ông ở Vroengard.”

Umaroth đáp lại, Eragon chuyển lời: “Ông ấy nói …”

“… rằng ngươi chỉ giết được thân thể của ông thôi,” Arya tiếp lời.

“Cái đó thì hiển hiên,” Galbatorix cười nhẹ. “Các Kỵ Sỹ đã giấu ông và những người khác ở đâu nhỉ? Vroengard à? Hay nơi nào khác? Ta và các thuộc hạ đã lục soát tàn tích ở Doru Araeba kĩ lắm rồi.”

Eragon chần chừ chuyển câu trả lời của con rồng, rõ là nó sẽ làm nhà vui không vui, nhưng nó không có lựa chọn nào khác. “Ông ấy nói … rằng ông sẽ không bao giờ cho người biết khi vẫn còn tỉnh táo.”

Galbatorix nhíu mày. “Giờ thì thế chắc? Tốt, ông ta sẽ nói cho ta hay sớm thôi, dù muốn hay không.” Nhà vua vỗ nhè nhẹ chuôi kiếm trắng chói lọi. “Ta đã lấy thanh gươm từ tay Kỵ Sỹ của ông ta, cậu biết đấy, khi ta giết hắn – khi ta giết Vrael – trên tháp canh ở Thung Lũng Palancar. Vrael thậm chí còn đặt cả tên cho thanh gươm nữa cơ đấy. Hắn gọi nó là Islingr, ‘Light-bringer. Ta nghĩ Vrangr thì có vẻ … hợp lý hơn.

Vrangr có nghĩa “xiên xẹo”, Eragon đồng ý cái tên ấy hợp với thanh gươm hơn nhiều.

Một tiếng ầm trầm đục vang vọng phía sau, Galbatorix mỉm cười. “A, hay lắm. Murtagh và Thorn sẽ nhập bọn ngay thôi, rồi chúng ta có thể bắt đầu tử tế.” Một tiếng động khác vang lên trong căn phòng, khi tiếng ồn rào rạo phát ra từ nhiều phía một lúc. Lão liếc qua vai nói, “Các người hơi bất cẩn tấn công quá sớm lúc bình minh. Ta đã dậy từ trước rồi – ta dậy sớm hơn bình minh nhiều – nhưng các người đánh thức Shruikan. Nó hay phát cáu khi mệt mỏi, mà khi nó phát cáu thì nó khoái ăn con người lắm. Lũ lính gác của ta học từ lâu không dám làm phiền khi nó nghỉ ngơi rồi. Các người đáng ra phải noi gương chúng chứ.”

Khi Galbatorix đang nói, tấm màn phía sau ngai vàng di chuyển, nhấc lên sàn nhà.

Eragon bị sốc, nhận ra đó thực ra là cánh của Shruikan.

Con hắc long nằm cuộn trên nền nhà, đầu ở gần ngai vàng, cơ thể khổng lồ của nó tạo thành một bức tường quá dốc và quá cao để có thể trèo lên mà không dùng phép thuật. Vảy của nó không rạng ngời như Saphira hay Thorn mà lấp lánh mờ ảo ánh đen. Màu như mực khiến chúng dường như mờ đục, cho chúng cái vẻ mạnh mẽ chắc chắn mà Eragon chưa từng thấy ở những cái vảy rồng trước đấy; như thể Shruikan dát đá hay kim loại chứ không phải ngọc.

Con rồng lớn khổng lồ. Đầu tiên Eragon còn không dám nghĩ một hình thù to cỡ đấy là một sinh vật sống. Nó thấy một phần cổ Shruikan buộc dây, và nghĩ nó đã thấy toàn bộ cơ thể của con rồng; nó thấy một mảng phía sau bàn chân Shruikan mà nó ngỡ đó là cẳng chân. Một khúc cánh mà nó tưởng như cả cái cánh. Chỉ khi nó ngước lên thấy những đốt nọn trên sống lưng con rồng, Eragon mới nhận rõ kích thước của Shruikan. Mỗi đốt nhọn rộng như tán cây sồi cổ thụ, hàng vảy bao quanh chúng phải dày cả tấc, nếu không hơn.

Rồi Shruikan mở mắt nhìn xuống họ. Tròng mắt nó có mày trắng lam nhợt nhạt như màu của tảng băng trên núi cao, sáng lấp lánh trên nền vảy đen.

Con mắt khổng lồ lượn qua lại xem xét mặt của họ. Ánh mắt nó có vẻ không chưa gì khác ngoài thịnh nộ và điên dại, Eragon chắc mẩm Shruikan sẽ giết chúng ngay khi Galbatorix cho phép.

Cái nhìn chằm chằm của con mắt vĩ đại – đặc biệt khi nó có vẻ ác ý dường ấy – khiên Eragon muốn chạy trốn biệt vào trong một hang sâu mãi trong lòng đất. Nó tưởng tượng cảm giác của thỏ khi đối mặt với sinh vật to lớn đầy răng.

Bên cạnh nó, Saphira gầm gừ, những cái vảy lượn sóng, dựng đứng như lông cổ.

Đáp lại, một luồn lửa uể oải phụt ra từ lỗ mũi Shruikan, rồi nó cũng gầm gừ át tiếng Saphira, khiến căn phòng vang dội tiếng ầm ầm như núi lở.

Trên bệ đá, hai đứa trẻ kêu the thé, cố gắng cuộn mình lại, rúc vào hai đầu gối.

“Yên nào, Shruikan,” Galbatorix nói, con hắc long nín ngay. Mí mắt nó sụp xuống, nhưng không khép hẳn; con rồng tiếp tục quan sát chúng qua khoảng vài tấc hé mắt, như thể chờ cơ hội vồ lấy.

“Nó không thích các người lắm,” Galbatorix nói. “Nhưng dù sao, nó cũng chẳng thích ai cả… phải không nhỉ, Shruikan?” Con rồng khụt khịt, không khí phang phảng mùi khói.

Nỗi tuyệt vọng lại tràn ngập Eragon. Shruikan có thể giết Saphira với chỉ một cú bạt vuốt. Dù căn phòng có lớn thế này, nó cũng quá nhỏ để Saphira có thể tránh thường con rồng khổng lồ đủ lâu.

Nỗi tuyệt vọng trong nó chuyển dần thành cơn giận chán nản, nó vặn mạnh sợi dây trói vô hình. “Làm sao ngươi có thể làm vậy?” nó thét, cố tận dụng hết từng sợi cơ trong người.

“Tôi cũng muốn biết nữa,” Arya nói.

Đôi mắt Galbatorix dường như lấp lánh dưới hàng lông mày rậm. “Cô không thể đoán sao, tiên nhân?”

“Tôi muốn biết câu trả lời hơn là đoán mò,” cô đáp.

“Tốt thôi. Nhưng trước tiên các người phải làm một chuyện, để biết ta đang nói sự thật. Các người phải thử phóng một bùa chú, cả hai, rồi ta sẽ nói cho.” Khi thấy cả Eragon và Arya đều không mở miệng, nhà vua ra hiệu. “Cứ làm đi, ta hứa sẽ không trừng phát các người đâu. Thử đi nào … ta nài đấy.|

Arya thử trước. “Thrautha,” giọng cô trầm chắc. Eragon đoán cô muốn phóng thanh Dauthdaert vào Galbatorix. Tuy nhiên thanh vũ khí vẫn nằm yên vị trong tay cô.

Rồi Eragon nói: “Brisingr!” Nó nghĩ liên kết với thanh gươm sẽ cho phép nó dùng được phép thuật khi Arya không thể, nhưng nó thất vọng khi thanh gươm vẫn phát sáng nhàn nhạt trong ánh đèn lồng mờ ảo.”

Ánh mắt Galbatorix trở nên sắc lẻm. “Câu trả lời hiển nhiên rồi chứ, tiên nhân. Ta đã mất cả thế kỉ, nhưng rồi cuối cùng ta đã có thứ mình mãi tìm kiếm: phương tiện điều khiển tất cả các pháp sư ở Alagaësia này. Cuộc tìm kiếm không đơn giản đâu, tất cả những người khác đã chán nản, hoặc nếu đủ kiên nhẫn, sợ hãi. Không phải ta. Ta đã tiếp tục. Qua nghiên cứu, ta tìm ra thứ mình đã khao khát từ rất lâu: một bảng đá viết tay ở vùng đất khác, thời đại khác, không phải do tiên nhân, người lùn, con người hay Urgal viết nên. Trên tấm bảng, khắc lên đó một Từ - cái tên các pháp sư mọi thời đại săn lùng nhưng không đạt được gì ngoài thất vọng não nề.” Galbatorix giơ ngón tay. “Tên của các tên. Tên của cổ ngữ.”

Eragon thầm rủa. Nó đã nghĩ đúng. Đó là những gì lũ Ra’zac đã cố nói với mình, nó nhớ lại khi con quái vật hình thù con trùng nói với nó ở Helgrind: “Ông ta đã gầnnnnn tìm ra cái tên… Cái tên đích thực!”

Tuy chán nản về sự bật mí của Galbatorix, Eragon vẫn bám vào ý nghĩ cái tên đó không thể cản nó hay Arya – thậm chí là Arya – sử dụng phép thuật ­không dùng cổ ngữ. Vòng phòng ngự của nhà vua chắc chắn bảo vệ lão và Shruikan khỏi bất kì bùa chú nào họ phóng. Tuy nhiên, nếu nhà vua không biết rằng có thể sử dụng phép thuật mà không cần cổ ngữ, hoặc thậm chí nếu lão biết nhưng cho rằng họ không biết, thì họ có thể gây bất ngờ và đánh lạc hướng lão trong khoảnh khắc, dù Eragon không chắc thế có thể giúp gì.

Galbatorix tiếp tục: “Với Từ đó, ta có thể thay đổi thần chú dễ như một pháp sư điều khiển nguyên tố. Tất cả các thần chú sẽ tùy thuộc vào ta, nhưng ta sẽ không cho phép ai hết, trừ những người ta chọn mà thôi.”

Có lẽ lão không biết, Eragon nghĩ, tia sáng quyết tâm lóe lên trong tim nó.

“Ta sẽ sử dụng tên của các tên để cai trị tất cả các phù thủy trên đất Alagaësia, sẽ không ai có thể phù phép nếu ta không cho phép, kể cả tiên nhân. Lúc này pháp sư trong quân các người chắc đã phát hiện ra sự thật rồi. Một khi chúng tiến đủ sâu vào Urû’baen, qua cổng chính, bùa phép của chúng sẽ mất hiệu quả. Vài phép thuật mất linh hoàn toàn, một sẽ trở quẻ và tác động vào quân Varden thay vì của ta.” Galbatorix nghiêng đầu nhìn chằm chằm ra phía xa, như thể đang nghe ai đó thì thầm bên tai. “Nó đã làm hàng ngũ của chúng rối loạn lắm rồi.”

Eragon cố nén nhổ vào nhà vua. “Không quan trọng,” nó gầm lên. “Bọn ta vẫn sẽ tìm ra cách chặn ngươi lại.”

Galbatorix tỏ vẻ thích thú không kềm được. “Thế hả? Như thế nào? Và vì sao? Nghĩ xem cậu đang nói gì. Cậu sẽ chặn đứng cơ hội đầu tiên Alagaësia có một hòa bình thực sự chỉ để thỏa mãn cảm giác trả thù thôi hả? Cậu sẽ để các pháp sư khắp nơi tiếp tục làm gì họ muốn, dù có hại tới người khác thế nào ư? Có vẻ điều đó còn tệ hơn bất cứ những gì ta đã làm. Nhưng đây là một cú đầu cơ rỗng túi đấy. Chiến binh mạnh mẽ nhất trong các Kỵ Sỹ cũng không thể đánh bại ta, mà cậu thì còn xa mới tới được đó lắm. Không ai trong các người cả.”

“Tôi đã giết Durza, và tôi đã giết Ra’zac” Eragon đáp. “Sao không phải ông?”

“Vì ta không yếu như những kẻ tôi tớ ấy. Cậu không thể đánh bại Murtagh, mà nó thì chỉ là cái bóng của những cái bóng. Cha Morzan của cậu hùng mạnh hơn cả hai đứa rất nhiều, kể cả hắn cũng không thể chống được ta. Ngoài ra,” Galbatorix gằn giọng, mặt nhốm vẻ tàn nhẫn, “cậu hơi bị nhầm nếu nghĩ cậu đã diệt được loài Ra’zac. Mấy quả trứng ở Dras-Leona không phải là những quả duy nhất ta lấy từ Lthrblaka đâu. Ta vẫn còn nữa, giấu ở những nơi khác. Chúng sẽ nở sớm thôi, rồi ta sẽ lại có Ra’zac dưới tay để sai bảo. Durza hả, lũ Tà thần cũng dễ tạo ra thôi, và chúng thì hay gây phiền toái nhiều hơn ích lợi. Thế nên, cậu chẳng thắng được cái gì hết, nhóc con – chỉ một vài chiến thắng giả dối.”

Eragon ghét cay đắng hơn hết thảy sự tự mãn của Galbatorix lẫn sự vượt trội tuyệt đối của lão. Nó muốn phát khùng với nhà vua, nguyền rủa lão với mọi lời thề nó biết, nhưng vì sự an toàn của lũ trẻ, nó cố kìm miệng lại.

Em có ý tưởng gì không? Nó hỏi Saphira, Arya và Glaedr.

Không, Saphira nói. Những người khác im lặng.

Umaroth?

Chỉ có tấn công khi vẫn có thể thôi.

Một phút im lặng trôi qua. Galbatorix tựa lên khuỷu tay, chống cằm tiếp tục quan sát họ. Dưới chân lão, hai đứa trẻ khóc rấm rức. Phía trên, mắt Shruikan vẫn nhắm vào Eragon, trông như ngọn đèn lồng màu lục khổng lồ.

Rồi họ nghe thấy tiếng cánh cửa căn phòng mở ra rồi đóng lại, tiếng bước chân lại gần – của cả người và rồng.

Murtagh và Thorn xuất hiện trong tầm mắt. Chúng dừng lại bên cạnh Saphira, Murtagh cúi mình. “Thưa Ngài.”

Nhà vua ra hiệu, Murtagh và Thorn bước sang bên phải ngai vàng.

Khi Murtagh nhìn vào nó, Eragon cảm thấy hắn nhìn nó kinh tởm; rồi hắn chắp tay ra sau nhìn chăm chăm về phía xa căn phòng, bàng quan nó.

“Cậu mất nhiều thời gian hơn ta tưởng đấy,” giọng nói nhẹ nhàng dối trá của Galbatorix vang lên.

Không nhìn sang, Murtagh đáp, “Cánh cổng bị hư hại hơn tôi nghĩ, thưa ngài, bùa chú ngài ếm lên khiến sửa chúng khó hơn.”

“Ý của cậu là bởi lỗi của ta mà cậu lề mề à?

Murtagh nghiến răng. “Không thưa ngài. Tôi chỉ muốn giải thích. Hơn nữa, một phần tiền sảnh khá … lộn xộn, khiến chúng tôi chậm lại.”

“Ta hiểu. Chúng ta sẽ nói về nó sau, bây giờ có việc khác cần kíp hơn. Giờ đây các vị khách đã gặp thành viên cuối cùng của bữa tiệc. Hơn nữa, tốt hơn chúng ta nên được chiếu sáng tử tế một chút.”

Galbatorix đập nhẹ thanh gươm lên tay ngai vàng, trầm giọng hô, “Naina!”

Theo lệnh lão, hàng trăm chiếc đèn được thắp sáng khắp các bức tường quanh phòng, tỏa ánh sáng chan hòa như nến. Những góc phòng vẫn hơi tối, nhưng lần đầu tiên Eragon có thể nhìn rõ chi tiết xunh quanh. Hàng trăm cây cột và ô cửa dọc bức tường, những bức tượng, tranh vẽ và lớp hoa văn mạ vàng. Vàng bạc được dùng thừa thãi, Eragon lướt qua thấy tia lấp lánh của đá quý. Một cảnh tượng giàu sang đáng kinh ngạc, kể cả so với sự giàu có của Tronjheim hay Ellesméra.

Sau khoảnh khắc, nó chú ý tới thứ khác: một đống đá xám – có lẽ là granite – cao tám thước, ngay phía bên phải họ, nơi ánh đèn lúc trước không chiếu tới. Bị xích đứng vào đống đá là Nasuada, mặc một chiếc áo khoác trắng. Cô đang mở to mắt quan sát họ, dù không thể nói gì, vì mảnh vài quấn ngang miệng. Trông cô mòn mỏi kiệt sức, nhưng dù sao vẫn khỏe.

Một tia an ủi dâng trong lòng Eragon. Nó không dám nghĩ có thấy tìm được cô vẫn còn sống. “Nasuada!” nó thét. “Cô có ổn không?”

Cô gật đầu.

“Lão có ép cô thề trung thành với lão không?”

Cô lắc đầu.

“Cậu nghĩ ta sẽ để cô ta nói cho cậu biết nếu ta thực sự làm thế sao?” Galbatorix hỏi. Khi Eragon nhìn lại nhà vua, nó thấy Murtagh liếc nhìn nhanh tỏ vẻ quan tâm về phía Nasuada, và nó băn khoăn ý nghĩa của chuyện đó.

“Tốt, thế ông có làm vậy không?” Eragon hỏi thách thức.

“Như chuyện phải thế thôi, không. Ta quyết định nên chờ đến khi tập trung tất cả mọi người ở đây. Giờ thì tốt rồi, các người sẽ không rời khỏi đây cho đến khi thề phục vụ ta, hoặc cho tới khi ta tìm ra tên thật của tất cả các người. Đó là lý do các người ở đây. Không phải để giết ta, mà là quỳ xuống trước ta, kết thúc cuộc bạo loạn nhảm nhí này.”

Saphira gầm gừ, Eragon nói, “Chúng ta sẽ không đầu hàng đâu.” Nó thậm chí nghe thấy giọng chính mình yếu ớt và hời hợt.

“Thế thì chúng sẽ chết,” Galbatorix đáp, chỉ tay vào hai đứa trẻ. “Cuối cùng thì sự phản kháng của các người cũng chẳng thay đổi cái gì hết. Cậu có vẻ không hiểu lắm; các người vốn đã thua rồi. Bên ngoài kia, bạn bè các người đang thất thế. Lính của ta sẽ dồn chúng đầu hàng, và cuộc chiến tranh sẽ đi đến hồi kết. Cứ chiến đấu nếu muốn. Chối bỏ chuyện rành rành trước mắt đi nếu thấy thoải mái hơn. Nhưng thế không thay đổi được số phận các người lẫn Alagaësia đâu.”

Eragon không cho rằng nó và Saphira sẽ mất cả đời để trả lời Galbatorix. Saphira cũng nghĩ hệt như thế, cơn giận dữ của cô nàng hòa chung với nó, đốt sạch từng mảnh sợ hại hay dè chừng còn sót lại, nó nói, “Vae weohnata ono vergarí, eka thäet otherúm.” Bọn ta sẽ giết ngươi, ta thề đấy.

Trong giây lát, Galbatorix có vẻ bị chọc tức, rồi lão nói Từ đó lần nữa – cùng những cổ ngữ khác – lời thề Eragon vừa thốt ra có vẻ như mất hết ý nghĩa; nhưng từ ngữ nằm trong tâm trí nó hệt như một mớ lá rụng, trống rỗng sức mạnh ép buộc hay gợi hứng.

Nhà vua nhếch mép cười khinh bỉ. “Cứ thề nếu cậu muốn. Chúng sẽ không ràng buộc cậu đầu, trừ khi ta cho phép chúng.”

“Tôi vẫn sẽ giết ông,” Eragon thầm thì. Nó hiểu rằng nếu nó tiếp tục chống cự thì sẽ phải trả giá bằng mạng sống của hai đứa, nhưng Galbatorix phải bị giết, và nếu cái giá của việc đó là cái chết của hai đứa trẻ, Eragon cũng sẽ chấp nhận. Nó biết nó sẽ tự ghét mình vì chuyện đó. Nó biết mình sẽ mơ thấy khuôn mặt của bọn trẻ trong suốt phần đời còn lại. Nhưng nếu nó không thách thức Galbatorix, tất cả sẽ thất bại.

Đừng chần chừ nữa, Umaroth giục. Đến lúc giáng trả rồi.

Eragon cao giọng. “Sao ông không đấu với tôi? Ông có phải là kẻ hèn nhát không? Hay ông quá yếu để dám chống lại tôi? Có phải vì thế mà ông trốn sau những đứa trẻ nít như mụ đàn bà sợ hãi không?”

Eragon …, Arya cảnh báo.

“Ta không phải kẻ duy nhất mang trẻ con tới đây đâu,” nhà vua đáp, nếp nhắc trên mặt hằn sâu hơn.

“Có khác biệt đấy: Elva đồng ý tới đây. Nhưng ông không trả lời câu hỏi. Sao ông không chiến đấu? Ông ngồi lâu trên ngai vàng ăn kẹo nhiều quá đến nỗi không vui nổi gươm nữa ư?”

“Cậu sẽ không muốn chiến đấu với ta đâu, nhóc con,” nhà vua gầm gừ.

“Chứng minh đi. Thả tôi ra và đối mặt trong trận đấu đích thực. Chứng tỏ ông vẫn là chiến binh như được truyền tụng đi. Hay cứ sống mà để người ta biết đến ông như kẻ hèn nhát yếu đuối không dám đối mặt với đối thủ mà không có Eldunarí. Ông đã tự mình giết Vrael cơ mà? Sao lại phải sợ tôi? Sao lại phải …”

“Đủ rồi!” Galbatorix nói. Nét đỏ lan dần trên hai má hóp rỗng của lão. Rồi nhanh như thủy ngân bốc hơi, tâm trạng lão biến đổi, nhe răng thành một hình thù như nụ cười đáng sợ. Lão vịn lên ngai vàng. “Ta không giành lấy cái ngai này bằng cách chấp nhận mọi thách thức với mình. Ta cũng không giữ nó bằng cách đối mặt kẻ thù trong những ‘trận chiến đích thực.’ Điều cậu còn chưa hiểu, nhóc con à, là bất kể cậu giành thắng lợi như thế nào, mà là cậu giành được nó.”

“Ông sai rồi. Nó có quan trọng,” Eragon nói.

“Ta sẽ nhắc cho cậu nhớ khi cậu thề với ta. Dù sao …” Galbatorix vỗ nhẹ chuôi gươm. “Vì cậu quá hăng được chiến đấu, ta sẽ chấp thuận lời đề nghị.” Tia hy vọng vừa nhóm lên trong Eragon vụt tắt khi Galbatorix bổ sung, “Nhưng không phải với ta. Với Murtagh kìa.”

Nghe những lời đó, Murtagh nhấp nháy giận dữ nhìn Eragon.

Nhà vua mân me mê rìa bộ râu. “Ta sẽ xem cuối cùng thì ai trong các cậu mạnh hơn. Các cậu sẽ chiến đấu bằng sức mình, không có phép thuật hay Eldunarí, cho đến khi có người không thể tiếp tục nữa thì thôi. Các cậu không được giết nhau – cái đó ta cấm – nhưng trừ cái chết ra, ta cho phép hết. Ta nghĩ cũng khá thú vị khi xem huynh đệ tương tàn đấy.”

“Không,” Eragon nói. “Không phải anh em ruột. Chỉ cùng mẹ thôi. Cha tôi là Brom, không phải Morzan.”

Lần đầu tiên, Galbatorix có vẻ ngạc nhiên. Rồi lão nhếch mép. “Đương nhiên, đáng lẽ ta phải thấy chứ nhỉ; sự thật sờ sờ ngay trên mặt cậu cơ mà. Trận đấu sẽ trở nên hợp lý hơn nhiều, hả. Con trai của Brom đọ sức con trai Morzan. Số phận quả là tức cười.”

Murtagh cũng phản ứng ngạc nhiên. Hắn cố kiềm nét mặt đến mức Eragon không biết thông tin ấy làm hắn hài lòng hay tức giận. Đó là một phần kế hoạch. Nếu Murtagh bị phân tâm, sẽ dễ đánh bại hắn hơn nhiều. Mà nó thì quyết đánh bại hắn dù có chung bao nhiêu máu thế nào đi nữa.

“Letta,” Galbatorix ra hiệu khẽ bằng tay,

Eragon lảo đảo khi thần trú trói nó tan dần.

Rồi nhà vua nói, “Gánga aptr,” đẩy Arya, Elva và Saphira lui lại, tạo thành khoảng rộng giữa họ và bệ đá. Nhà vua thầm thì vài tiếng khác, hầu hết đèn lồng mờ đi khiến khoảng trước ngai vàng trở thành điểm sáng nhất trong căn phòng.

“Ra đi,” Galbatorix bảo Murtagh. “Ra với Eragon đi, cho chúng ta thấy kẻ nào điêu luyện hơn.”

Murtagh cau có bước ra cách Eragon vài bộ. Hắn rút thanh Zar’roc – thanh gươm màu hung đỏ như nhuốm máu – rồi nâng khiên lên thủ thế.

Liếc nhìn Saphira và Arya, Eragon cũng làm tương tự.

“Giờ thì đấu đi!” Galbatorix vỗ tay hô lên.

Rịn mồ hôi, Eragon bắt đầu di chuyển về phía Murtagh, cả hắn cũng đang tiến tới gần nó.

Trứng chọi đá (Muscle against metal)

Roran thét lên, nhảy bật sang một bên tránh ống khói gạch đổ xuống phía trước anh, cùng với xác một tên cung thủ của Đế chế.

Anh lắc mạnh gạt mồ hôi trên mắt, rồi vòng qua cái xác và hàng đống gạch vụn, nhảy từ khoảng trống này sang khoảng khác, như thể giữa những tảng đá bên dòng Anora.

Trận chiến đang có chiều hướng tệ đi. Cái này thì rõ rồi. Anh và các chiến binh bám trụ lại ở tường thành trong khoảng ít nhất một phần tư giờ, đẩy lui những đợt lính lũ lượt kéo đến, nhưng rồi họ bị binh lính đẩy trở lại những ngôi nhà. Trước đây, đó là một sai lầm. Chiến đấu trên đường phố thì quá liều mạng, đẫm máu và lúng túng. Tiểu đoàn của anh bị chia cắt, chỉ một nhóm nhỏ chiến binh vẫn còn bên cạnh – hầu hết dân làng Carvahall, bốn tiên nhân và vài Urgal. Số còn lại bị xé lẻ trong những con phố khác, đang vô phương liều mạng chiến đấu.

Tệ hơn, vì sao đó mà các tiên nhân và pháp sư không giải thích nổi, phép thuật không hoạt động đúng nữa. Họ biết được khi một tiên nhân cố ếm bùa tên lính, thay vào đó một chiến binh Varden ngã xuống, bị hàng đàn bọ gián do tiên nhân triệu hồi ra chôn vùi. Cảnh tượng khiến Roran phát bệnh; chết thế thì khủng khiếp mà vô nghĩa quá, mà có thể xảy ra với bất kì ai trong số họ.

Bên phải họ, gần cổng thành, Tướng Barst đang điên cuồng lao vào quân chủ lực của Varden. Roran thấy hắn vài lần: giờ đang đi bộ, lao giữa con người, tiên nhân, người lùn, quét đi hàng loạt chiến binh bằng cây chùy đen khổng lồ. Không ai có thể khiến thân hình to lớn ấy dừng lại, đừng nói đến làm hắn bị thương, những người xung quanh giẫm đạp lên nhau để chạy khỏi tầm vũ khí chết chóc của hắn.

Roran cũng nhìn thấy vua Ork và một nhóm người lùn đột phá qua một đám lính. Mũ giáp Orik sáng loáng lên khi ông vung cây búa vĩ đại Volund. Các chiến binh hô lên, “Vor Orikz korda!”

Tầm năm mươi thước phía sau Orik, Roran liếc thấy Nữ hoàng Islanzadí lao đi như cơn gió giữa trận chiến, áo choàng đỏ hòa vào bộ giáp sáng choang như ngôi sao giữa hàng đống thi thể. Trên đầu bà con quạ trắng luôn đậu trên. Chỉ quan sát Islanzadí một lúc thôi cũng đủ khiến Roran ấn tượng mạnh về kĩ năng, sự dũng mãnh và can đảm. Bà gợi Roran nhớ lại Arya, nhưng anh nghĩ nữ hoàng có thể là chiến binh vĩ đại hơn nhiều.

Một nhóm năm tên lính lao đến góc ngôi nhà nơi Roran đang đứng. Chúng la hét, xọc thương lên muốn xiên anh như một con gà nướng. Anh hụp xuống tránh, đâm thương thẳng vào cổ họng một tên. Gã lính còn đứng thêm được một phút, rồi không thở nổi ngã huỵch xuống nền, làm vướng chân đồng bọn.

Chỉ chờ có thể, Roran lao lên tự do đâm chém. Một tên lính đâm vào vai phải Roran, anh cảm thấy cơn sụt giảm sức mạnh quen thuộc khi lưới phòng hộ bật thanh gươm lại.

Anh ngạc nhiên rằng lưới phòng hộ vẫn bảo vộ mình. Chỉ giây lát trước thôi, chúng con không thể chặn rìa chiếc khiên cắt bên má phải anh. Roran ước chuyện gì xảy ra với phép thuật cũng tự nó giải quyết được cách này hay cách khác. Dù như thế, anh không dám mạo hiểm để mình dính phải một vết chém nhỏ nhất.

Roran tiến tới hai tên lính cuối cùng, nhưng trước khi đến gần, một vệt mờ lướt qua, đầu chúng rớt xuống nền nỏi, nét ngạc nhiên vẫn đọng lại rõ ràng. Hai cái xác đổ ập, Roran nhìn thấy bà lang Angela, mặc áo giáp màu lục và đen, tay cầm cây gươm-trượng. Đi bên bà là một cặp ma mèo, một trong hình dáng bé gái tóc vằn vện, răng sắc lẻm dính máu đang cầm dao dài, một vẫn ở dạng thú. Anh nghĩ có khi đó là Solembum, nhưng không chắc lắm.

“Roran! Gặp cậu vui làm sao,” bà lang mỉm cười, có vẻ hơi vui mừng quá trong hoàn cảnh này. “Thử tưởng tượng gặp nhau chốn này xem!”

“Ở đây thì tốt hơn dưới mộ đấy!” anh thét lên, nhặt thêm một chiến thương ném cho một chiến binh phía dưới con phố.

“Nói hay lắm!”

“Tôi nghĩ bà đi với Eragon?”

Bà lắc đầu. “Cậu ta không yêu cầu, vả lại tôi cũng sẽ không đi nếu có. Ta chẳng thấm gì so với Galbatorix hết. Hơn nữa, Eragon còn có các Eldunarí giúp cơ mà.”

“Bà biết à?” anh sốc.

Bà nháy mắt bên dưới khe mũ. “Ta biết nhiều thứ lắm.”

Anh gầm gừ, che vai mình sau khiên, lao thẳng về phía một đám lính khác. Bà lang và hai con ma mèo đi cùng anh, cả chú Horst, Mandel và mấy người nữa.

“Búa của cậu đâu?” Angela la lên, xoay vòng cây trượng, vừa đỡ vừa chém cùng lúc.

“Mất rồi! Tôi đánh rơi.”

Ai đó tru lên đau đớn đằng sau anh. Ngay khi có thể, Roran xoay mình thấy Baldo đang ôm chặt cánh tay. Trên mặt đất, bàn tay cậu đang co giật.

Roran nhảy qua vài cái xác trên đường chạy về phía cậu. Chú Horst đã ở bên cạnh con trai, cầm cự với gã lính đã cắt cụt tay Baldor.

Roran rút dao cắt ra mảnh vải từ xác một tên lính, nói, “Đây!” rồi quấn quanh tay Baldor cầm máu.

Bà lang quỳ xuống cạnh họ, Roran nói, “Bà có giúp được cậu ấy không?”

Bà lắc đầu. “Không phải ở đây. Nếu tôi dùng phép thì có thể giết cậu ấy mất. Nhưng nếu cậu đưa cậu ấy ra khỏi thành phố, các tiên nhân có thể chữa cánh tay này.”

Roran chần chừ. Anh không chắc mình có thể để ai hộ tống Baldor ra khỏi Urû’baen an toàn. Tuy nhiên nếu không có bàn tay, Baldor sẽ có một cuộc sống khó khăn, mà Roran thì không muốn trách cậu một chút nào.

“Nếu cậu không đưa nó, ta sẽ đi,” Horst rống lên.

Roran hụp xuống khi một tảng đá lớn như con cừu bay qua đầu, phá sập mảng trước một căn nhà, các mảnh vỡ bắn tung tóe. Phía trong, ai đó đang kêu la.

“Không. Chúng ta cần chú.”

Roran quay lại huýt sáo, chọn ra hai chiến binh: người thợ giày cũ Loring và một Urgal. “Mang cậu ấy tới chỗ các tiên nhân cứu thương nhanh nhất có thể,” anh đẩy Baldor về phía họ. Baldor nhặt bàn tay cậu lên, nhét vào trong áo giáp.

Gã Urgal gầm gừ, nói bằng giọng dày đục Roran gần như không hiểu, “Không! Tôi ở lại. Tôi chiến đấu!” Gã gõ gươm vào tấm khiên.

Roran bước qua một bên, nắm lấy sừng gã, kéo sang một bên cho đến khi cổ gã ngoẹo xuống. “Anh sẽ làm như tôi nói,” Roran gầm gừ. “Ngoài ra, đây không phải là nhiệm vụ dễ xơi. Bảo vệ cậu ta và anh sẽ giành nhiều vinh quang cho bản thân và bộ tộc anh.”

Ánh mắt gã Urgal sáng lên. “Rất nhiều vinh quang chứ?” gã nói, ngâm nga từ ngữ giữa những cái răng bự chảng.

“Vinh quang vô cùng!” Roran xác nhận.

“Tôi sẽ làm ngay, Cây Búa Dũng Mãnh à!”

Roran thở phào nhẹ nhóm, nhìn theo ba người rời đi, hướng về phía tường thành bên ngoài, tránh được phần lớn những cuộc chạm trán. Anh cũng thoải mái hơn khi thấy con ma mèo hình-người đi sau họ, cô bé tóc vằn vện hung dữ lúc lắc đầu bên này bên kia ngửi không khí.

Rồi một đám lính khác tấn công, suy nghĩ về Baldor trôi khỏi đầu óc Roran. Anh ghét chiến đấu bằng thương thay vì búa, nhưng anh buộc phải thế, rồi con phố dần im ắng trở lại. Anh biết khoảng trì hoãn sẽ không lâu.

Anh nắm lấy cơ hội ngồi trên một thềm nhà cố hít thở đều. Lũ lính nhìn vẫn có vẻ thoải mái lắm, còn anh thì thấy mệt tới tận xương rồi. Anh ngờ rằng mình có thể tiếp tục chiến đấu mà không phạm sai lầm chết người nào.

Ngồi thở dốc, lắng nghe tiếng la hét, gào thét từ phía cánh cổng đổ nát của Urû’baen. Khó có thể nói chuyện gì đang diễn ra từ mớ âm thanh tạp nham, nhưng anh ngờ rằng quân Varden đang bị đẩy lui, khi âm thanh có vẻ đang lùi xa dần. Trong tiếng náo động, anh vẫn nghe thấy tiếng rắc đều đặn khi cây trùy của Tướng Barst giáng vào chiến binh này đến chiến binh khác, theo sau là tiếng kêu thét bất tận.

Roran cố đứng dậy. Nếu anh ngồi lâu hơn các cơ bắp sẽ cứng đơ mất. Một lát sau anh khi anh rời khỏi thềm cửa, một chiếc bình rơi thẳng xuống nơi anh vừa ngồi.

“Quân giết người!” một phụ nữ la lên phía trên, rồi đóng sập cánh cửa lại.

Roran khịt mũi, lần trở lại qua những xác chết, dẫn các chiến binh còn lại tới khoảng đường giao cắt gần nhất.

Họ dừng lại cảnh giác khi một tên lính chạy trối chết, mặt đầy vẻ sợ hãi. Phía sau gã, một đám mèo kêu ngao ngao đuổi theo, máu nhỏ ra từ đám lông quanh miệng.

Roran mỉm cười, bước tiếp.

Anh dừng lại giây lát khi một nhóm người lùn râu đỏ phóng qua họ vào sâu trong thành phố. “Chúng ta bị một đám lính bám gót, ít nhất phải đến vài trăm.”

Roran nhìn về con đường phía sau. “Có khi các anh lạc …” anh vừa nói, rồi khựng lại nhìn màu áo đỏ thẫm xuất hiện từ các góc phố. Càng lúc càng binh lính tràn vào con phố, y như một kiến đỏ.

“Lui lại” Roran thét. “Lui ngay!” Chúng ta phải tìm nơi nào phòng thủ được. Tường thành thì quá xa rồi, mà không có ngôi nhà nào đủ lớn để có sân trong cả.

Khi Roran chạy dọc xuống con phố cùng các chiến binh, một tá tên bắn xuống đầu họ.

Roran vấp ngã, oằn mình đau buốt suốt dọc xương sống. Như thể có kẻ nào đó quật thẳng vào lưng anh bằng gậy sắt.

Giây lát sau, bà lang đã đến bên anh. Bà rút cái gì đó ra từ phía sau anh, Roran thét lên. Rồi cơn đau dịu đi, anh lại có thể thấy rõ được.

Bà lang chỉ cho anh mũi tên dính máu rồi ném đi. “Áo giáp cậu chặn được phần lớn rồi,” bà đỡ anh đứng dậy.

Roran nghiến chặt răng lao theo bà về phía các chiến binh. Mỗi bước đi làm anh đau thêm, nếu xoay hông quá mạnh, lưng anh đau thắt lại, gần như không di chuyển nổi.

Anh không tìm ra chỗ nào đủ tốt để tập kết cả, lũ lính thì càng lúc càng gần, anh la lên, “Dừng lại! Xếp đội ngũ! Tiên nhân bên sườn! Urgan phía trước và bên trong!”

Roran đứng lên đầu cùng Darmmen, Albriech, một Urgal và một người lùn râu đỏ.

“Ra anh là người họ gọi tên Cây Búa Dũng Mãnh,” người lùn cất tiếng khi họ quan sát lũ lính tiến lên. “Tôi đã chiến đấu bên cạnh bên cạnh em trai-rụt của anh trong lòng Farthen Dûr. Thật vinh dự vì được chiến đấu cùng anh nữa.”

Roran gầm gừ, hy vọng anh vẫn còn đứng được.

Rồi lũ lính đâm thẳng vào họ, đẩy họ lui về dưới áp lực ghê gớm. Roran kề vai vào khiên, đẩy ngược lại hết sức. Gươm giáo kẹt qua khe bức tường khiên chồng chéo; anh thấy một mũi gươm đang chọc vào mình, nhưng bị giáp của anh cản lại.

Các tiên nhân và Urgal tỏ ra vô giá. Họ liên tục phá toang hang ngũ binh lính để Roran và các chiến binh đủ chỗ vung vũ khí. Roran liếc thấy một người lùn xọc dao vào chân, bàn chân, rồi háng, khiến chúng ngã liên tục.

Tuy nhiên đám lính như được nguồn tiếp viện vô tận, còn Roran dần bị đẩy lùi từng bước một. Cả các tiên nhân cũng không chặn nổi biển người dù đã cố gắng. Othíara, bà tiên nữ Roran nói chuyện bên ngoài tường thành chết vì một mũi tên cắm vào cổ, trong khi những tiên nhân khác dính vô số vết thương.

Roran bị thương thêm vài lần: một vết chém ở bắp chân bên phải, suýt cắt gân anh nếu cao hơn một chút xíu, rồi một vết cắt vào đùi phải, mũi gươm chọc vào khoảng giữa bộ giáp; một vết xước nhảm nhí trên cổ khi anh tự chọc khiên vào chính mình; một mũi dao chọc sâu vào chân phải may không trúng động mạnh; và nhiều vết tím bầm đếm không xuể. Anh thấy như thể từng bộ phận trên cơ thể bị đập tới tấp bằng chày gỗ, rồi làm bia phóng dao của mấy tên vụng về.

Anh lui khỏi tiền tuyến vài lần để ngơi tay hít thở, nhưng luôn gắng trở lại nhanh nhất có thể.

Rồi những ngôi nhà trải ra xung quanh họ, Roran nhận ra lũ lính đã đẩy được họ về phía quảng trường phía trước cổng thành Urû’baen, giờ đây kẻ địch xuất hiện cả phía sau họ nữa.

Anh ngước qua vai nhìn thấy các tiên nhân và quân Varden đang rút lui khỏi Barst và lính của hắn.

“Bên phải!” Roran la lên. “Qua phải! Leo lên những ngôi nhà!” Anh chỉ bằng cây thương nhuốm máu.

Các chiến binh chật vật theo sau anh leo qua bờ đá, bước lên tòa nhà khổng lồ với hai hàng cột trụ cao ngang bất cứ cây cổ thụ nào ở rặng Spine. Giữa những cây cột, Roran liếc thấy bóng một cái cổng tò vò tối tăm đang khép hờ, đủ lớn để Saphira, có khi cả Shruikan chui lọt.

“Lên trên! Lên!” Roran thét lên, các chiến binh, người lùn, tiên nhân và Urgal chạy cùng anh lên trên những bậc thang. Ở đó họ dàn đội ngũ giữa những cột đá, cầm cự cơn sóng binh lính đang đuổi theo. Từ cao điểm tầm hai mươi thước so với mặt đường, Roran thấy quân Đế chế gần như đẩy bật quân Varden và các tiên nhân qua miệng hố ở cổng thành.

Quân ta thua mất, anh đột nhiên tuyệt vọng.

Lũ lính lại dồn tới. Roran tránh cay thương, đạp cho gã lính một phát vào bụng ngã nhào xuống cầu thang với hai tên khác.

Từ máy phóng gần tường thành, một thanh lao phi thẳng xuống Tướng Barst. Khi còn cách hắn một bộ, cây lao bắt đầu bùng cháy, rồi nát vụn thành bụi, cũng như những mũi tên bắn về phía hắn.

Chúng ta phải giết hắn, Roran nghĩ. Nếu Barst gục, lũ lính sẽ tan vỡ mất hết ý chí. Nhưng nếu cả các tiên nhân lẫn Kull cũng đều thất bại, có lẽ khó có ai ngoài Eragon có thể làm được.

Ngay khi chiến đấu, Roran vẫn tiếp tục liếc nhìn về phía bóng dáng lớn mặc giáp, hy vọng nhìn thấy gì đó có thể hạ gục hắn. Anh chú ý đến một cú cà nhắc nhẹ khi hắn tiên lên, như thể bị thương đâu đó ở đầu gối hoặc hông. Hắn còn có vẻ đi chậm hơn một chút.

Vậy hắn chắn chắn có giới hạn, Roran nghĩ. Đúng hơn là Eldunarí có.

Anh la lên một tiếng, gạt thanh gươm đang chĩa vào người. Giật mạnh chiếc khiên lên, anh xọc thẳng vào hàm, giết gã ngay lập tức.

Roran hết cả hơi, uể oải vì thương thế, nên anh lui lại dựa vào một cây cột. Anh ho khạc, nhổ cả ra máu, nhưng anh cho rằng đấy chỉ là khi cắn phải miệng, chứ không phải máu trong phổi. Ít nhất anh hy vọng vậy. Xương sườn anh rã rời như thể đã gãy mất một cái.

Một tiếng hét lớn vang lên từ trong quân Varden, Roran nhìn qua cây cột thấy Nữ hoàng Islanzadí và mười một tiên nhân khác đang phi ngựa xuyên qua trận chiến về phía Tướng Barst. Con quạ trắng vẫn đậu trên vai trái Islanzadím, giơ cánh kêu lên từng hồi giữ thăng bằng. Islanzadí đang cầm gươm, trong khi các tiên nhân còn lại nắm chặt nhưng chiếc khiên hình lá đính dải cờ hiệu.

Roran tựa người vào cột, dâng lên hy vọng. “Giết hắn đi,” anh lẩm bẩm.

Barst không xê dịch để tránh các tiên nhân, hắn dạng chân đứng yên chờ, cây trùy và khiên thả lỏng, như thể hắn không việc gì phải phòng thủ.

Xuyên suốt con phố, trận chiến hơi chững lại để quan sát những gì sắp diễn ra.

Hai tiên nhân dẫn đầu hạ thấp thanh thương, chiến mã của họ phi nước đại, cơ bắp bên dưới làn da sáng uốn lượn thả lỏng khi họ lao qua khoảng cách ngắn ngũi về phía Barst. Trong khoảnh khắc, có vẻ như Barst chắc chắn phải ngã; dường như không kẻ nào có thể đứng được với cú lao đó.

Hai cây thương không thể chạm vào Barst. Lưới phòng hộ của hắn cản chúng lại cách xa một cánh tay, nửa đầu của chúng nát vụn như cám, khiến trong tay hai tiên nhân chỉ còn là mẩu gỗ vứt đi. Rồi Barst vung trùy và khiên lên, giáng thẳng vào đầu hai con ngựa, đập gãy cổ chúng chết ngay.

Lũ ngựa ngã xuống, hai tiên nhân nhảy ra, vặn người trong không trung.

Hai tiên nhân tiếp theo không đủ thời gian để ngừng lại trước khi đến gần Barst. Như những người đi trước, họ xọc thương vào lưới phòng hộ của hắn, cũng nhảy khỏi ngựa khi chúng bị Barst đập chết.

Rồi tám tiên nhân còn lại kể cả Islanzadí đủ thời gian ghìm cương ngựa. Họ phi nước kiệu xung quanh Barst, vũ khí vẫn chĩa thẳng vào Barst, còn bốn tiên nhân trên mặt đất rút gươm cẩn thận tiến về phía hắn.

Hắn cười to, nhấc khiên chuẩn bị cho đòn tấn công. Ánh sáng phản chiếu trên khuôn mặt phía dưới mũ giáp, thậm chí từ khoảng cách này Roran cũng thể thấy thấy được nó rất to và có hàng lông mày dày cộm, xương má gồ lên. Gương mặt ấy gợi anh nhớ đến một gã Urgal.

Bốn tiên nhân lao về phía Barst từ bốn phía, đồng loạt đâm chém hắn. Barst đỡ một thanh gươm bằng khiên, gạt một thanh khác bằng trùy, rồi để lưới phòng họ chặn hai thanh còn lại. Hắn cười ha hả, lại vung trùy lên.

Một tiên nhân tóc bạc dạt sang bên, chiếc trùy bay qua ông vô hại.

Barst vung trùy hai lần nữa đều bị các tiên nhân tránh được. Tuy không hề tỏ vẻ chán nản, nhưng Barst thu người lại sau tấm khiên chờ đợi, nhưng con gấu chờ đợi kẻ nào đó ngu ngốc mò vào hang ổ.

Xung quanh vòng tròn tiên nhân, một đám lính lao thẳng đến Nữ hoàng Islanzadí và đồng đội. Không chần chừ, nữ hoàng vung gươm, theo tín hiệu của bà một loạt mũi tên phóng từ hàng ngữ Varden hạ gục lũ lính.

Roran reo lên phấn khích cùng với rất nhiều quân Varden.

Barst lượn lờ gần xác mấy con ngựa hắn vừa đập chết, giờ hắn đứng ở giữa chúng để các xác chết hình thành bức tường chắn thấp hai bên. Các tiên nhân ở bên trái và bên phải sẽ buộc phải nhảy qua xác ngựa nếu muốn tấn công.

Khá đấy, Roran nhăn nhó nghĩ.

Tiên nhân phía trước Barst xông lên, thét gì đó bằng cổ ngữ. Barst có vẻ chần chừ, điều đó khiến tiên nhân lại gần hơn. Nhưng rồi Barst lao tới giáng cây trùy xuống tiên nhân đổ ầm xuống nền gục ngã.

Các tiên nhân rên rỉ.

Ba tiên nhân còn lại trở nên thận trọng hơn. Họ vẫn xoay vòng quanh Barst, thỉnh thoảng chớp cơ hội tấn công, nhưng hầu như vẫn giữ khoảng cách.

“Đầu hàng đi!” Islanzadí thét lên, giọng bà vang lên khắp con phố. “Chúng ta đông hơn người. Dù ngươi có mạnh thế nào, rồi sẽ hết sức, lưới phòng hộ của ngươi sẽ hỏng. Ngươi không thắng được đâu, con người à.”

“Không à?” Barst đứng thẳng dậy, thả khiên rơi đánh ầm.

Đột nhiên Roran thấy hoảng hồn. Chạy mau, anh nghĩ. “Chạy mau!” anh lên nửa giây sau.

Quá muộn rồi.

Barst cúi xuống nắm cổ một con ngựa, ném thẳng về phía Nữ hoàng Islanzadí chỉ bằng một tay trái.

Roran không nghe thấy bà có nói cổ ngữ hay không, nhưng khi bà giơ tay lên – xác ngựa dừng lại giữa thinh không, rồi rơi xuống nền sỏi với tiếng động ghê răng. Con quạ rít lên trên vai bà.

Tuy nhiên Barst không đừng nhìn. Ngay khi vừa rời tay khỏi xác ngựa, hắn nhặt tấm khiên và phi thẳng về phía tiên nhân cưỡi ngựa gần nhất. Một trong ba tiên nhân đang đi bộ - một tiên nữ choàng khăn đỏ qua cánh tay – cũng lao ra, chém vào lưng hắn. Barst phớt lờ bà.

Nếu trên khoảng đất rộng, chiến mã của các tiên nhân thừa sức bỏ xa Barst, nhưng ở không gian chật hẹp giữa những ngôi nhà và chiến binh ken dày thế này, Barst vừa nhanh vừa lẹ hơn chúng. Hắn thúc vai vào xương sườn một con chiến mã đẩy nó ngã chổng kềnh rồi vung chùy vào một tiên nhân trên con ngựa khác, khiến ông bắn ra khỏi yên cương. Con ngựa hí lên.

Vòng vây của các tiên nhân nháo loạn, mỗi người xoay một hướng vừa cố vỗ về lũ ngựa vừa tập trung vào hiểm họa trước mặt.

Nửa tá tiên nhân phóng ra từ trong đám binh lính bao vây Barst lại, tất công hắn dồn dập với tốc độ ghê người. Barst bị họ che đi trong giây lát, rồi chiếc chùy vung lên, ngã nhào ra. Rồi thêm hai người khác nữa, Barst tiên lên, máu nhỉ ra trên mép vũ khí.

“Ngay bây giờ!” Barst gầm lên, từ khắp quảng trường, hàng trăm tên lính chạy tới dồn dập tấn công các tiên nhân, buộc họ phải phòng thủ.

“Không,” Roran rên rỉ đau đớn. Anh muốn cùng với các chiến binh đến giúp lắm, nhưng họ bị chặn bởi quá nhiều lính – cả sống lẫn chết – khỏi Barst và các tiên nhân. Anh liếc sang bà lang, cũng đang lo lắng hệt như anh, “Bà không làm được gì sao?”

“Có thể, nhưng điều đó sẽ lấy mạng tôi lẫn tất cả mọi người ở đây.”

“Galbatorix nữa chứ?”

“Hắn được bảo vệ quá kĩ, nhưng quân ta lẫn tất cả mọi người ở Urû’baen, thậm chí những người ở trại cũng có thể chết. Cậu có muốn thể không?

Roran lắc đầu.

“Tôi cho là không.”

Di chuyển với tốc độ phi thường, Barst hạ gục hết tiên nhân này đến tiên nhân khác nhanh chóng. Hắn chỉ cần một quật vào vai bà tiên nữ đeo khăn choàng đỏ đủ để bà nằm dài ra trên mặt đất. Bà chỉ vào Barst thét lên bằng cổ ngữ, nhưng lời nguyền lại phản phé, một tiên nhân khác sụp xuống bật khỏi yên cương, trước người ông xuất hiện một vết rách từ đầu xuống thân.

Barst giáng chùy xuống đầu bà, tiếp tục chạy từ hết con ngựa này đến con ngựa khác, cho tới khi hắn lao về phía Islanzadí trên lưng bạch mã.

Nữ hoàng tiên nhân không chờ Barst giết con ngựa của bà. Nhảy vọt ra khỏi yên cương, áo choàng bà phồng lên, con quạ trắng cũng bay vọt lên khỏi vai.

Trước khi chạm đất, Islanzadí chém qua áo giáp Barst. Lưỡi gươm rung lên khi va vào lưới phòng hộ.

Barst trả đòn ngay lập tức, Islanzadí vặn mình khéo léo tránh được, gạt mấu nhọn chiếc trùy đập xuống nền sỏi. Xung quanh họ, cả địch lẫn ta đều gương mắt nhìn trận đấu. Con quạ bay lòng vòng trên đều, rít lên nguyền rủa theo ngôn ngữ cay nghiệt của giống loài nó.

Roran chưa bao giờ thấy một trận đấu như thế. Những cú đánh của cả Islanzadí và Barst đều quá nhanh – chỉ để lại những vệt mờ lướt qua – và âm thanh từ tiếng binh khí va chạm vang hơn mọi tiếng ồn khác trong thành phố.

Barst hết lần này đến lần khác cố nghiền nát Islanzadí bằng cây trùy như những tiên nhân khác. Nhưng bà quá nhanh, và có vẻ như nếu không mạnh bằng hắn, thì cũng đủ gạt bay cú đánh dễ dàng. Roran đoán những tiên nhân khác đang trợ lực cho bà, vì chiến đấu nhọc nhằn vậy mà bà vẫn không mệt đi chút nào.

Một Kull và hai tiên nhân khác nhập vòng chiến. Barst không để tâm lắm, kể cả khi có thể giết họ khi lọt vào tầm với của hắn.

Roran nhận ra anh đang bấu chặt cây cột, những ngón tay chợt co rút.

Islanzadí và Barst tiếp tục chiến đấu thêm mấy phút dọc theo con phố. Nữ hoàng tiên nhân di chuyển thật lộng lẫy: nhanh nhẹn, mềm mại những cũng đầy mạnh mẽ. Không như Barst, bà không thể phạm sai lầm nhỏ nào hết – bà cũng chưa phạm phải tới giờ - bởi lưới phòng hộ không thể bảo vệ bà. Càng lúc Roran càng ngưỡng mộ Islanzadí hơn, anh cảm thấy mình đang tận mắt chứng kiến trận chiến sẽ được ca ngợi trong hàng thế kỉ tới.

Con quạ thi thoảng bay vụt qua Barst, cố đánh lạc hướng khỏi Islanzadí. Sau vài lần cố gắng, Barst lờ con quạ đi, vì nó không thể chạm vào hắn, cũng như vất vả tránh khỏi cây trùy.

Càng lúc con quạ càng cáu hơn, nó rít lên to hơn, nhiều hơn, tấn công mãnh liệt hơn, tiến sát đầu và cổ Barst hơn.

Cuối cùng, khi con chim lao xuống Barst, hắn đổi hướng giật cây trùy lên giữa chừng, đập mạnh vào cánh phải con quạ. Nó thét lên đau đơn rơi xuống đất rồi khó nhọc bay lên.

Barst lại vụt con quạ, nhưng Islanzadí chặc cây trùy lại bằng thanh gươm, họ đối mặt, ghìm chặt vũ khí trên cao, lưỡi gươm của bà xuyên giữa những mấu nhọn của cây trùy.

Tiên nhân và con người lắc lư đẩy lẫn nhau. Không ai chiếm được lợi thế. Rồi Nữ hoàng Islanzadí hô lên một từ bằng cổ ngữ, nơi vũ khí chạm nhau lóe sáng.

Roran vội che mắt quay đi.

Trong một phút, chỉ có tiếng kêu rên la của những người bị thường và một tiếng chuông càng lúc càng lớn, đến khi không thể chịu nổi. Eragon nhìn sang bên thấy con mèo ma cùng Angela đang cúi xuống che kín tai bằng đôi vuốt.

Khi tiếng động đạt đỉnh điểm, thanh gươm của Islanzadí nứt ra, ánh sáng và tiếng chuông rền biến mất.

Rồi nữ hoàng chém mạnh xuống mặt Barst bằng lưỡi gươm gãy, “Vì thế ta nguyền rủa ngươi, Barst, con trai Berengar!”

Barst để thanh gươm của bà chém xuống lưới phòng hộ. Rồi hắn vung chùy đập vào giữa cổ và vai bà gục xuống, máu chan hòa bộ giáp vảy vàng.

Tất cả như bất động.

Con quạ bay vòng quanh thi thể Islanzadí kêu lên thảm thiết, rồi chầm chậm bay ra ngoài bức tường thành, lông vũ trên cánh phải bị thương nhàu nát.

Tiếng than khóc vang dội trong quân Varden. Khắp các con phố, binh sĩ ném vũ khí bỏ chạy. Các tiên nhân gào lên giận giữ đau đớn – âm thanh khủng khiếp nhất – tất cả bọn họ chĩa cung bắn về phía Barst. Những mũi tên cháy rụi trước khi chạm đến hắn. Một tá tiên nhân lao đến, nhưng hắn đánh bay họ ra như một lũ trẻ. Ngay lập tức năm tiên nhân khác lao đến, nâng thi thể Islanzadí lên mang đi trên những chiếc khiên hình lá.

Roran không thể tin vào mắt mình. Islanzadí là người cuối cùng nó trông đợi sẽ phải chết. Nó nhìn trân trối những kẻ đang bỏ chạy, thầm nguyền rủa chúng vì Phản Đồ và hèn nhát; nói anh lại nhìn sang Barst, đang tập kết quân chuẩn bị đẩy quân Varden và đồng minh ra khỏi Urû’baen.

Ruột gan Roran lại trống rỗng hơn. Các tiên nhân có thể tiếp tục chiến đấu, nhưng con người, người lùn và Urgal không hề muốn đánh nhau nữa. Anh thấy điều đó trên mặt họ. Họ sẽ tan vỡ, rút lui, rồi Barst sẽ tàn sát hàng trăm người từ phía sau. Roran cũng không chắc Barst có dừng lại trước tường thành hay không. Không, hắn sẽ tiếp tục truy kích ra cánh đồng đến tận doanh trại, đuổi giết chừng nào có thể.

Roran cũng sẽ làm thế thôi.

Tệ hơn, nếu Barst tới doanh trại, Katrina sẽ gặp nguy hiểm, Roran không dám tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra nếu lũ lính tóm được cô.

Roran nhìn xuống bàn tay đầy máu. Barst phải bị chặn lại. Nhưng làm sao đây? Roran suy nghĩ mãi, lướt qua mọi điều về phép thuật mình biết, cuối cùng, anh nhớ ra nó đã thảm hại như thế nào khi lũ lính tóm được và đánh đập anh.

Roran hít một hơi sâu rùng mình.

Có một cách, nhưng nó nguy hiểm, cực kì nguy hiểm. Anh biết nếu làm chuyện đang nghĩ, có thể anh sẽ không bao giờ nhìn thấy Katrina, hay đứa trẻ trong bụng cô. Ý nghĩ đó khiến anh thư thái trong giây lát. Mạng của anh đổi lấy mạng của họ quả là đáng giá, và nếu cùng lúc anh có thể giúp Varden, thì anh sẽ vui vẻ mà trao nó.

Katrina…

Quyết định thực dễ dàng.

Anh ngẩng đầu bước về phía bà lang. Bà đang bị sốc và đau buồn như bất kì tiên nhân nào. Anh chạm nhẹ vai bà bằng tấm khiên, “Tôi cần bà giúp.”

Bà nhìn anh bằng đôi mắt đỏ ngầu. “Cậu định làm gì?”

“Giết Barst.” Lời anh làm mọi chiến binh ở gần chú ý.

“Roran, không!” Horst gào lên.

Bà lang gật đầu. “Tôi sẽ giúp những gì có thể.”

“Tốt. Tôi cần bà đưa Jörmundur, Garzhvog, Orik, Grimrr và một tiên nhân có uy tín tới đây.”

Bà già tóc quăn khịp mũi lau mắt. “Anh muốn gặp họ ở đâu?”

“Ngay đây. Và nhanh lên, trước khi có thêm lính bỏ chạy!”

Angela gật đầu, rồi bà và con mèo ma chạy đi, bám sát các tòa nhà.

“Roran,” Horst nắm chặt cánh tay anh, “cháu nghĩ gì vậy?”

“Cháu sẽ không đối đầu với hắn đâu, nếu chú nghĩ thế,” Roran gật đầu về phía Barst.

Chú Horst có vẻ nhẹ nhõm. “Thế thì cháu sẽ làm gì?”

“Chú sẽ biết ngay thôi.”

Vài tên lính cầm giáo chạy lên cầu thang, nhưng mấy người lùn râu đỏ đẩy chúng xuống nhẹ nhàng, nhờ cầu thang dốc giúp họ lợi thế chiều cao.

Trong khi những người lùn cầm cự với bọn lính, Roran tới gần một tiên nhân – đang gầm gừ nãy giờ - rút tên trong bao nhanh ghê gớm, phóng từng mũi về phía Barst. Dĩ nhiên không phát nào trúng đích cả.

“Đủ rồi,” Roran nói. Tiên nhân tóc đen lờ anh đi, Roran nắm lấy cánh tay cầm cung, kéo sang một bên. “Tôi nói đủ rồi đấy. Tiết kiệm tên đi.”

Một tiếng gầm gừ thốt lên, Roran thấy một bàn tay chẹt cổ họng mình.

“Đừng chạm vào ta, con người.”

“Nghe tôi nói! Tôi có thể giúp các ông giết Barst. Chỉ … thả tôi ra.”

Sau một hai giây, ngón tay bóp quanh cổ Roran lỏng ra. “Thế nào, Cây Búa Dũng Mãnh?” Giọng khát máu của ông tiên nhân tương phản dữ dội với dòng lệ tuôn dài trên má.

“Ông sẽ biết ngay thôi. Nhưng tôi muốn hỏi đã. Sao các ông không giết Barst bằng tâm trí? Hắn chỉ có một mình, mà các ông đông hơn nhiều.”

Nét đau khổ thoáng qua gương mặt tiên nhân. “Vì tâm trí hắn bị giấu khỏi chúng tôi!”

“Như thế nào?”

“Tôi không rõ. Chúng tôi không cảm thấy chút suy nghĩ nào của hắn hết. Như thể có một quả cầu bọc quanh trí não vậy, chúng tôi không thể nhìn vào bên trong, cũng không xuyên qua được.”

Raran cũng trông đợi chuyện tương tự. “Cảm ơn,” anh nói, tiên nhân gật nhẹ đầu ghi nhận.

Garzhvog đến tòa nhà đầu tiên; gã xuất hiện từ con phố gần đó, bước lên bậc thang bằng hai bàn chân khổng lồ, rồi quay qua gầm lên với ba chục tên lính theo đuôi. Lũ lính khôn ngoan lui lại khi thấy gã Kull và đồng đội.

“Cây Búa Dũng Mãnh!” Garzhvog gào lên. “Cậu kêu gọi, và tôi đã tới.”

Vài phút sau, những người còn lại Roran nhờ bà lang nhắn tin lần lượt tới ngôi nhà đá. Một tiên nhân tóc bạc Roran từng nhìn thấy đi cùng Islanzadí vài lần. Tên ông là Tướng Däthedr. Cả sáu người đầy máu và mệt lử, đứng trong một hàng cột.

“Tôi có một kế hoạch để giết Barst,” Roran nói, “nhưng tôi cần sự giúp đỡ của mọi người, mà còn rất ít thời gian. Tôi có thể trông cậy mọi người không?”

“Còn tùy vào kế hoạch của cậu,” Orik nói. “Cứ nói trước đi đã.”

Roran giải thích nhanh hết mức có thể. Xong xuôi, anh hỏi Orik, “Các xạ thủ của ông có thể nhắm máy bắn đá và phóng lao chính xác không?”

Ông lùn hừ nhẹ. “Khó mà nói với thứ máy móc của con người lắm. Chúng tôi có thể quăng đá trong vòng hai mươi thước tới mục tiêu, nhưng gần hơn thì phải trông vào may mắn thôi.”

Roran nhìn về phía tiên nhân Däthedr. “Những người khác có theo lệnh ông không?”

“Họ sẽ tuân lệnh tôi, Cây Búa Dũng Mãnh à. Đừng nghi ngờ chuyện đó.”

“Vậy ông có thể đưa vài pháp sư theo những người lùn giúp họ chỉnh hướng bay của tảng đá không?”

“Chẳng có gì đảm bảo hết. Bùa chú có thể dễ bị hỏng hay trượt đi.”

“Chúng ta phải mạo hiểm thôi.” Roran nhìn cả nhóm. “Vậy tôi hỏi lại: tôi có thể trông đợi mọi người không?”

Từ phía tường thành, một tràng kêu gào vang lên khi Barst đâm thẳng vào đoàn người.

Garzhvog trả lời đầu tiên, làm Roran ngạc nhiên. “Anh cuồng chiến rồi, Cây Búa Dũng Mãnh, nhưng tôi sẽ theo anh,” gã cất tiếng khục-khục nghe như thể tiếng cười. “Sẽ rất vinh quang nếu giết Barst.”

Rồi Jörmundur đáp, “Được, tôi cũng theo cậu Roran. Tôi cho là chúng ta không có lựa chọn khác.”

“Đồng ý,” Orik nói.

“Đồng ýiiiiiiiii,” vua ma mèo Grimrr kéo dài giọng bằng một tiếng gừ.

“Vậy thì đi đi!” Roran giục. “Mọi người biết phải làm gì rồi! Đi đi!”

Khi những người khác tản đi, Roran gọi các chiến binh lại nói cho họ kế hoạch của anh. Rồi họ nép vào những cây cột chờ đợi –khoảng thời gian quý giá mà Barst và lính của hắn đẩy quân Varden gần bức tường hơn nữa – rồi Roran nhìn thấy một nhóm người lùn và tiên nhân chạy lên hơn mười hai máy bắt đá và phóng lao trên tường thành, cướp chúng lại từ tay lũ lính.

Một vài phút căng thẳng trôi quá. Rồi Oril lao lên bậc thang cùng ba mươi người lùn, “Họ sẵn sàng rồi.”

Roran gật đầu, nói với tất cả, “Vào vị trí!”

Tàn quân của tiểu đoàn tạo thành hình cái chày, anh đi đầu cùng với các tiên nhân và Urgal theo sau. Orik cùng những người lùn đi bên sườn.

Khi tất cả các chiến binh đã vào vị trí, Roran hô, “Lên!” rồi lao thằng vào đám đông địch, biết rằng tất cả ở ngay sau lưng anh.

Lũ lính không ngờ được cuộc xung phong ấy, chúng rẽ ra như thuyền rẽ nước trước Roran.

Một gã cố chặn bước Roran, nhưng anh xọc vào mắt hắn mà không dừng bước.

Khi họ còn khoảng khoảng năm mươi thước cách Barst, lúc này đang quay lưng lạ, Roran và các chiến binh phía sau dừng lại. Anh nói với một tiên nhân, “Làm cho mọi người trong quảng trường đều nghe thấy tôi.”

Tiên nhân thầm thì bằng cổ ngữ, rồi nói, “Xong rồi.”

“Barst!” Roran hô lên, nhẹ nhõm nghe thấy tiếng vọng vang lên khắp chiến trường. Cuộc chiến khắp các con phố dừng lại, trừ vài vụ giao tranh đây đó.

Mồ hôi rịn xuống lông mày Roran, tim anh đập thình thịch, nhưng anh cố không cảm thấy sợ hãi. “Barst!” anh hô vang lần nữa, vỗ giáo vào khiên. “Quay lại chiến đấu với ta, đồ con-giòi-vô-lại kia!”

Một tên lính lao đến. Roran chặn thanh gươm, dễ dàng quét ngã tên lính, hạ gục hắn bằng hai phát đâm. Kéo chiếc thương ra, Roran lại gào lên: “Barst!”

Thân ảnh to lớn nặng nề từ từ quay lại anh, Khi hắn gần hơn, Roran có thế thấy tia quỷ quyệt trong mắt Barst, điệu cười chế nhạo nheo lên trên cái miệng như đứa bé. Cổ hắn rộng như đùi Roran, bên dưới tấm giáp, cánh tay hắn gồ lên những cơ bắp. Ánh sáng từ mảng giáp nhô ra thu hút anh mắt Roran, dù nỗ lực lờ đi.

“Barst! Tên tao là Roran Cây Búa Dũng Mãnh, anh họ Eragon Khắc tinh của Tà thần! Mày có dám đấu với tao không, hay sẽ mang danh hèn nhát từ ngày hôm nay.”

“Không ai dọa ta được đâu, Cây Búa Dũng Mãnh. Hay ta nên gọi là Thiếu Búa, vì ta chả thấy người cầm cây búa nào hết.”

Roran đứng thẳng người. “Tao không cần phải giết mày bằng búa, đồ ăn bám không râu.”

“Thế hả?” Barst giãn nhẹ nụ cười. “Cho bọn ta khoảng trống!” hắn la, xua chùy về phía quân Varden lẫn lính của hắn.

Cả hai bên lui lại trong tiếng rên của hàng ngàn bước chân thành một vùng tròn rộng lớn quanh Barst. Hắn chĩa trùy vào Roran. “Galbatorix đã nói tới ta về ngươi, Thiếu Búa à. Ngài nói ta cứ việc đập vỡ từng mảnh xương trước khi giết ngươi.”

“Hay là chúng ta đập vỡ xương của người trước vậy?” Roran nói. Ngay bây giờ! Anh tập trung hết mức, cố kêu vang ý nghĩ trong bóng tối quanh tâm trí, hy vọng các tiên nhân và pháp sư sẽ nghe thấy.

Barst nhăn mặt, định mở miệng. Trước khi hắn kịp nói gì, một tiếng huýt sáo trầm vang lên khắp thành phố, và sau tảng đá lớn – mỗi tảng lớn như một thùng to – bay qua những ngôi nhà từ máy bắn đá. Theo sau đó là nửa tá lao.

Năm tảng đá rơi thẳng xuống Barst. Tảng thứ sau trượt nẩy quanh quảng trường, nghiền nát cả binh lính lẫn người lùn.

Những tảng đá nứt, nổ tung khi chúng chạm vào lưới phòng hộ của Barst, mảnh vỡ bắn tung tóe. Roran hụp xuống phía sau khiên, suýt ngã khi một cục đá to bằng bàn tay đạp vào, làm tay anh tím bầm. Những cây lao bốc cháy trong ngọn lửa vàng, phát ra ánh sáng tởm lợm trong làm khói bụi xung quanh Barst.

Chắc chắn đã an toàn, Roran nhô đầu khỏi khiên.

Barst đang nằm dài trên mặt sỏi, cây trùy nằm trơ trọi bên cạnh hắn.

“Giết!” Roran gào lên lao tới.

Rất nhiều quân Varden tiến về phía Barst, nhưng lũ lính bên cạnh tấn công, ngăn họ tiến quá vài bước. Hai đoàn quân gầm lên lao vào nhau, sôi trào lửa giết chóc.

Jörmundur lao ra từ một con phố, dẫn gần trăm chiến binh ông thu thập từ rìa ngoài chiến trường. Họ giúp giữ chân binh lính khi Roran và những người khác giải quyết Barst.

Từ phía đối diện quảng trường, Garzhvog và sau Kull khác lao ra từ ngôi nhà đang ẩn nấp. Bàn chân chúng dậm rung chuyển nền đá, khiến quân Varden lẫn lính đế chế dạt ra tránh đường.

Rồi hàng trăm ma mèo, hầu hết trong hình thú, trườn ra từ nơi hai quân chủ lực chạm mặt, nhe răng lao về phía Barst đang nằm.

Khi Roran đến gần Barst, hắn chỉ hơi cựa mình. Hai tay cầm chắc chiếc thương, Roran chọc xuống cổ Barst.

Mũi nhọn bị dừng lại cách cả tấc, oặt đi rồi nứt vỡ như đâm vào một tảng granite.

Roran chửi thề, tiếp tục đâm nhanh hết mức có thể, cố ngăn Eldunarí trong giáp Barst hồi phục.

Barst rên rỉ.

“Nhanh lên!” Roran gào với các Urgal.

Khi chúng tới đủ gần, Roran vội nhảy ra ngoài để các Kull có đủ khoảng trống. Đến lượt chúng, các Urgal giáng vũ khí xuống Barst mãnh liệt. Lưới phòng hộ của hắn chặn lại cả, nhưng các Kull vẫn tiếp tục đánh tới tấp, gây tiếng động đinh tai nhức óc.

Ma mèo và tiên nhân tập trung quanh Roran. Phía sau họ, anh lờ mờ nhận ra các chiến binh của anh và Jörmundur đang cầm cự với lũ lính.

Khi Roran bắt đầu nghĩ lưới phòng hộ của Barst sẽ không bao giờ tan đi, một Kull gào lên hoan kỉ, Roran thấy rìu của gã đập vào mặt trược giáp của Barst thành một vết lõm.

“Tiếp!” Roran hô. “Ngay! Giết hắn!”

Gã Kull nhấc rìu lên, rồi Garzhvog vung chiếc dùi cui bọc thép thẳng vào đầu Barst.

Roran thấy xung quanh chuyển động hỗn loạn, rồi một tiếng huỵch vang lên khi cây dùi cui đập vào tấm khiên Barst kéo lên che chắn.

Khỉ thật!

Không để các Urgal tấn công tiếp, Barst lăn vào chân một Kull, tóm vào mắt cá chân phải gã bóp mạnh. Gã Kull gào lên đau đón nhảy về phía sau, kéo theo Barst ra khỏi đám Kull.

Các Urgal và hai tiên nhân lại vây quanh Barst, trong giây lát có vẻ họ sẽ hạ gục hắn.

Nhưng rồi một tiên nhân bắn đi, cổ bà ngoẹo đi kì cục. Gã Kull gục xuống, gào lên bằng tiếng mẹ đẻ. Xương lòi ra từ tay trái gã. Garzhvog gầm lên lui lại, máu chảy ào ạt từ lỗ thủng to như nắm đấm bấm người.

Không! Roran lạnh gáy. Không thể kết thúc thế này được! Mình không thể để như vậy!

Gầm lên, anh lao lên vượt qua hai Urgal khổng lồ. Anh không có thời gian nhìn Barst – đẫm máu, điên cuồng, hai tay cầm gươm và khiên – trước khi hắn vung khiên đập vào cạnh sườn anh.

Không khí bị ép khỏi phổi Roran, trời đất như quay cuồng, anh thấy chiếc mũ trùm đầu nẩy tưng tưng trên mặt sỏi.

Cả thế giới vẫn chao đảo khi anh ngừng lăn.

Anh nằm yên một lúc, cố hít vào. Cuối cùng anh cũng hít một hơi đầy phổi, chưa bao giờ vui sướng hơn vì được thở. Thở hổn hển, anh tru lên vì đau. Cánh tay trái tê cóng, nhưng gân cốt khắp nơi cháy bỏng vì đau.

Anh cố đứng thẳng nhưng rồi ngã sấp xuống, chóng mặt và đau đớn tột cùng. Trước mắt anh là một mảnh đá vàng, vằn vện những thớ đỏ như mã não. Anh nhìn trân trối viên đá một lúc, hổn hển, trong đầu chỉ có một suy nghĩ duy nhất: Phải đứng dậy. Phải đứng dậy. Phải đứng dậy…

Anh thử đứng lên khi thấy sẵn sàng. Tay trái không thể cử động, nên anh buộc phải dựa vào tay phải. Nhọc nhằn đưa chân xuống dưới, anh chầm chậm đứng dậy, run rẩy thở cạn liên hồi.

Khi đứng được thẳng, có gì đó kéo kéo vai trái, anh thét lên câm lặng. Y như thể một cây dao nóng đỏ đặt giữa khớp vậy. Anh nhìn xuống thấy cánh tay trái đã bị trật khớp. Tấm khiên của anh chỉ còn là một mảnh ván buộc vào tay bằng vài sợ vải.

Roran quay đầu kiếm Barst, thấy cách khoảng ba mươi bộ, hắn đang bị một đám ma mèo cào xé.

Yên tâm Barst sẽ bận rộn trong vài giây nữa, Roran nhìn vào cánh tay bị trật khớp. Lúc đầu anh không nhớ nổi những gì mẹ anh đã dạy, nhưng rồi lời của bà, mờ nhạt qua thời gian, dần trở lại. Anh tháo mảnh vỡ của tấm khiên ra.

“Nắm chặt tay,” Roran lẩm bẩm, rồi cố nắm tay trái. “Uốn tay con, nắm đấm hướng về phía trước.” Anh nghiến răng chịu cơn đau. “Rồi kéo cánh tay ra, xa khỏi …” Anh thét lên chửi thề, vai kêu kèn kẹt, cơ bắp dây chằng kéo về phía không bình thường không thể. Tiếp tục vừa xoay tay vừa nắm bặt bàn tay, sau vài giây, xương tay anh trượt về đúng chỗ.

Cơn đau tan biến ngay lập tức. Anh vẫn bị thương vài chỗ - nhất là dưới lưng và xương sườn – nhưng ít nhất anh lại dùng được cánh tay, còn cơn đau thì không hành hạ nữa.

Roran lại nhìn về phía Barst. Cảnh tượng khiến anh phát bệnh.

Barst đang đứng trong một vòng tròn xác ma mèo. Máu dây khắp bộ giáp lõm, từng đám lông mèo dính vào cái trùy, lúc này đã được hắn thu lại. Hai má hắn bị cào thê thảm, tay áo giáp bên phải bị xé rách, nhưng ngoài ra hắn có vẻ không bị thương. Vài ma mèo đối mặt với hắn cẩn trọng giữ khoảng cách, nhưng Roran thấy chúng có vẻ sắp chạy đến nơi. Phía sau Barst là xác của những Kull và tiên nhân hắn vừa chiến đấu. Các chiến binh của Roran biến mất, vây xung quanh Roran, Barst và đám ma mèo toàn là binh lính: một mảng màu đỏ thẫm xáo động khi chúng xô đẩy nhau chống lại cơn lốc chiến trường.

“Bắn hắn!” Roran gào lên, nhưng có vẻ không ai nghe thấy.

Tuy nhiên Barst lại chú ý, bước về phía Roran. “Thiếu Búa!” hắn gầm lên. “Tao sẽ lấy đầu mày vì chuyện này!”

Roran quỳ xuống nhặt một thanh thường trên mặt sỏi, cử động ấy khiến anh nhức đầu nhè nhẹ. “Thử xem mày làm được gì!” anh đáp. Nhưng những từ ngữ thụt vào đầu lưỡi, trong đầu anh chỉ nghĩ về Katrina và đứa con còn chưa chào đời.

Rồi một con mèo ma – trong hình dáng một phụ nữ không cao hơn khuỷu tay Roran mấy – chạy vượt qua chém vào bên đùi trái Barst.

Barst rên rỉ vặn mình, nhưng con mèo ma đã rút lui, vừa rít lên. Barst chờ một lát, chắc chắn nó sẽ không gây phiền toái gì cho hắn, rồi tiếp tục bước về phía Roran, vết thương mới giờ khiến hắn tập tễnh. Máu chảy xuống khắp chân hắn.

Roran liếm môi, không rời mắt khỏi kẻ thù đang tiến tới. Trong tay anh chỉ có một chiếc thương mà không hề có khiên. Anh không chạy nổi khỏi Barst, cũng không mong so bì với hắn sức mạnh và tốc độ bất phàm. Cũng không có ai bên cạnh giúp anh hết.

Đó là một tình huống bất khả thi, nhưng Roran không thừa nhận thất bại. Anh đã từ bỏ một lần rồi, sẽ không có lần thứ hai, dù lý trí mách bảo anh chắc chắn sẽ chết.

Rồi Barst chồm lên anh, Roran đâm mắt đầu gối hắn, liều mạng hy vọng có cơ hội làm tê liệt hắn. Barst đỡ thanh thương bằng cây chùy, rồi vung lên Roran.

Roran đã tính sẵn cú phản đòn và loạng choạng lùi về phía sau nhanh nhất có thể. Một luồng gió mạnh chạm mặt anh, đầu cây trùy vọt qua, chỉ cách vài tấc là trúng đích.

Barst nhe răng cười dữ tợn, hắn định giáng một phát nữa thì bóng đen lao đến từ trên cao, buộc hắn ngước nhìn.

Con quạ trắng của Islanzadí phi từ trên không trung xuống trúng mặt Barst. Con quạ thét lên điên cuồng, vừa mổ vừa cào Barst, Roran ngạc nhiên nghe nó nói, “Chết đi! Chết đi! Chết!”

Barst nguyền rủa, thả chiếc khiên ra. Với một tay tự do hắn xua con quạ đi, đánh vào chiếc cánh đã bị thương sẵn. Từng mảng thịt tơi tả trên lông mày, máu nhộm thẫm má và cằm hắn.

Roran lao lên đâm thương vào bàn tay còn lại của Barst khiến hắn đánh rơi chiếc trùy.

Rồi Roran chớp cơ hội đâm thẳng vào cổ họng trống trải của Barst. Tuy nhiên hắn tóm được cây thương bằng một tay, giật khỏi tay Roran, rồi bẻ gãy nó bằng những ngón tay hệt như Roran bẻ một cành cây khô.

“Giờ mày chết chắc rồi,” Barst phun máu. Môi hắn bị xé rách, mắt phải bị chọc thủng, nhưng hắn vẫn nhìn được bằng bên còn lại.

Hắn lao tới Roran cố vòng tay bóp anh. Dù muốn Roran cũng không thể tránh được, nhưng ngay khi cánh tay Barst vừa đến gần, anh tóm cổ tay hắn, quặt ra phía sau, gắng sức đè lên cái chân bị thương bị thương cà nhắc.

Barst chống được một lúc rồi, rồi khuỵu đầu gối xuống, thét lên đau đớn, gã sấp tới trước bằng một chân và đập tay trái xuống đất. Roran bò lồm cồm ngay bên, tuột phía cánh tay phải Barst. Dù Barst mạnh khủng khiếp, nhưng máu trên bộ giáp của hắn giúp anh thoát dễ dàng hơn.

Roran gắng tóm cổ Barst từ đằng sau, nhưng hắn nắm được cằm canh, khiến anh không thể nắm tay được. Thay vào đó, anh vòng tay qua ngực hắn, hy vọng kìm hắn cho đến khi ai đó giúp giết Barst.

Hắn gầm lên tung mình sang một phía, đập mạnh vào vết thương trên vai Roran khiến anh rên đau đớn. Nền sỏi thúc vào tay và lưng Roran ban lần trong khi Barst lăn lông lốc. Roran gần như không thở được khi trọng lượng khổng lồ của hắn đè lên. Nhưng anh vẫn cố ép chặt tay. Cùi chỏ Barst thúc vào mạng sườn anh, Roran cảm thấy như gãy mất mấy cái xương sườn.

Anh nghiến chặt răng siết tay, bóp mạnh hết sức.

Katrina, anh thầm nghĩ.

Cùi chỏ Barst lại thúc vào anh.

Roran tru lên, chỉ thấy ánh chớp tóe lên khắp nơi. Anh siết chặt vòng tay hơn nữa.

Cái cùi chỏ lại thúc vào, hệt như chiếc đe nện bên sườn.

“Mày … sẽ … không… thắng … đâu, … Thiếu … Búa,” Barst gầm gừ. Hắn đứng run lẩy bẩy, kéo Roran theo.

Dù nghĩ rằng có thể các cơ bắp sẽ rách toạc ra mất, Roran vẫn siết chặt hơn nữa. Anh la hết, nhưng không nghe nổi giọng mình, anh thấy mạch máu sôi sùng sục, dây chằng kêu tanh tách.

Rồi giáp ngực Barst sụm xuống, theo vết lõm gã Kull đập từ trước, tiền có tiếng tinh thể vỡ tan.

“Không!” Barst gào lên khi ánh sáng trắng trong trẻo phát ra từ viền áo giáp. Hắn cứng đơ người, như thể dây xích đã căng hết cỡ, rồi bắt đầu run rẩy dữ dội.

Ánh sáng làm Roran lóa bắt, thiêu đốt cánh tay và mặt anh. Thả Barst ra, anh rơi xuống đất, lấy tay che hai mắt.

Ánh sáng tiếp tục tuôn ra từ áo giáp Barst cho đến khi viền kim loại bắt đầu phát sáng. Rồi tia sáng ngừng lại, khiến mọi thứ xung quanh như tối hẳn đi, những gì còn lại của Tướng Barst đổ nhào, bốc khói trên nền sỏi.

Roran nhấp nháy nhìn chăm chú bầu trời quang đãng. Anh biết mình nên đứng dậy, bởi binh lính đang ở gần, nhưng mặt sỏi mềm mại xiết bao, anh chỉ muốn nhắm mắt nghỉ ngơi …

Khi lại mở mắt, anh thấy Orik và chú Horst cùng vài tiên nhân đang tụ tập quanh mình.

“Roran, nghe thấy chú nói không?” Horst khẽ nói, nhìn lom lom anh lo lắng.

Roran cố nói, nhưng không thốt lên nổi tiếng nào.

“Nghe thấy chú không? Nghe chú này. Cháu phải cố thức. Roran! Roran!”

Roran lại thấy mình chìm vào bóng tối. Một cảm giác thoải mái lan khắp người anh như tấm chăn len mềm mại. Anh thấy hơi ấm lan tỏa, trước khi nhắm mắt, anh thấy Orik đang cúi xuống anh nói gì đó bằng Ải Ngữ nghe như lời cầu nguyện.

• Chú thích: Ải Ngữ - tiếng người Lùn; Ải Nhân: người lùn. (Nas)

Món quà kiến thức

Eragon và Murtagh mặt đối mặt, chầm chậm đi theo một vòng tròn, cố tiên đoán người kia sẽ di chuyển thế nào. Murtagh vẫn có vẻ nhanh nhẹn như xưa, nhưng hai mắt hắn thâm quầng, khuôn mặt phờ phạc; Eragon ngờ rằng hắn đã phải trải qua căng thẳng tột độ. Hắn đeo giáp y hệt Eragon: cũng một bộ giáp bằng khuyên, găng, giáp tay, giáp chân, nhưng hắn cầm khiên dài và hẹp hơn của Eragon. Nói về vũ khí, thanh Brisingr có lợi thế độ dài với chuôi kiếm gấp rưỡi bàn tay, trong khi thanh Zar’roc nặng hơn bởi bản kiếm rộng.

Họ tiến gần nhau hơn, rồi khi còn cách hơn mười thước, Murtagh khẽ giọng giận giữ, “Mày đang làm gì vậy?”

“Câu giờ,” Eragon thì thào, cố giữ môi không động đậy.

Murtagh gầm gừ. “Mày ngu lắm. Hắn sẽ xem chúng ta chém nhau tơi tả, mà thế thì làm được gì? Chẳng gì hết.”

Thay vì trả lời, Eragon rướn lên một chút, nâng kiếm lên, khiến Murtagh co lại cảnh giác.

“Đồ quỷ,” Murtagh gầm ghè. “Nếu mày đợi thêm một ngày nữa thôi, tao đã có thể cứu Nasuada ra rồi.”

Eragon ngạc nhiên. “Sao tôi phải tin anh?”

Câu hỏi làm Murtagh giận hơn nữa, cong môi lại, bước chân nhanh hơn, ép Eragon cũng bước nhanh hơn. Rồi Murtagh nói, “Vậy, thằng em đã tìm được thanh kiếm hợp với mày rồi à. Lũ tiên nhân làm cho mày, phải không?”

“Anh biết họ đ …”

Murtagh nhảy xổ vào nó, thanh Zar’roc quẹt vào bụng, Eragon lùi lại, gạt nhẹ thanh kiếm đỏ.

Eragon đáp trả bằng một đòn vòng quá đầu – nó đặt tay xa chuôi Brisingr để kéo dài cú chém hơn – nhưng Murtagh nhảy ra ngoài tầm.

Họ khựng lại xem người kia có tiếp tục tất công hay không. Khi không ai tiếp tục, cả hai lại đi vòng trong, Eragon càng cảnh giác hơn.

Sau cú so gươm, hiển nhiên Murtagh vẫn nhanh và mạnh như Eragon – hay như tiên nhân. Luật cấm phép thuật của Galbatorix không áp dụng cho bùa ếm tăng cường sức mạnh cho Murtagh. Eragon không thích chuyện này, nhưng cuộc đấu sẽ không công bằng nếu không có nó.

Nhưng Eragon thì không muốn đấu công bằng. Nó muốn điều khiển nhịp độ trận so gươm để có thể quyết định kết thúc lúc nào hay như thế nào tùy ý. Không may Eragon khó có cơ hội, khi Murtagh sử dụng gươm quá điêu luyện, mà kể cả có thể đi nữa, nó cũng không chắc làm thế nào sử dụng cuộc đấu để đánh lại Galbatorix. Nó cũng chẳng có thời gian suy nghĩ, dù nó tin Saphira, Arya và những con rồng sẽ cố nghĩ một giải pháp cho mình.

Murtagh nhử đòn bên vai trái, còn Eragon nấp sau khiên. Giây lát sau nó nhận ra đó trì là mẹo, Murtagh đang lách sang bên phải để vượt qua vòng phòng thủ của nó.

Eragon vặn mình, thấy thanh Zar’roc đang vòng xuống cổ nó, lưỡi gươm mỏng tang, sáng lấp lánh. Nó lóng ngóng đánh bật ra bằng chuôi kiếm Brisingr. Rồi nó phản công, chém nhanh vào cẳng tay Murtagh. Nó mừng rỡ vì chém được vào mặt giáp tay Murtagh. Thanh Brisingr không thể cắt xuyên bao tay Murtagh và tay áo bên dưới, nhưng lực chém vẫn làm Murtagh đau, đánh bật tay hắn ra xa, để lộ khoảng ngực.

Eragon đâm tới, Murtagh chặn lại bằng tấm khiên. Nó đâm thêm ba lần nữa nhưng hắn chặn được cả, rồi khi Eragon thu tay về chuẩn bị chém tiếp, Murtagh phản công, tay trái chém xuống đầu gối, có thể khiến nó tê liệt nếu trúng đòn.

Thấy được ý đồ của Murtagh, Eragon biến chiêu chặn thanh Zar’roc khi còn cách một tấc khỏi chân. Rồi nó phản công ngay lập tức.

Hai bên tiếp tục thêm vài phút, cố phá vỡ nhịp điệu của đối phương nhưng đều không thể. Họ hiểu nhau quá rõ. Eragon có làm gì thì Murtagh cũng cản được, và ngược lại. Cũng hệt như một trò chơi khi cả hai bên đều phải dự đoán trước rất nhiều nước, làm tăng cảm giác thân cận khi Eragon tập trung chia cắt dòng tâm trí của Murtagh, từ đó tiên đoán hắn sắp làm gì.

Ngay từ đầu Eragon đã để ý Murtagh chơi trò này khác với những lần trước họ chiến đấu. Hắn tấn công tàn nhẫn chưa từng có, như thể lần đầu tiên hắn muốn đánh bại Eragon, mà còn phải thật nhanh. Thêm nữa, cơn giận ban đầu có vẻ lắng xuống, hắn trở nên bình tĩnh, quyết tâm không gì lay chuyển được.

Eragon sử dụng hết khả năng của nó để chiến đấu, và dù nó có thể khiến Murtagh cầm cự, nó vẫn phải phòng thủ nhiều hơn nó muốn.

Sau một hồi, Murtagh hạ thấp gươm, lùi dần về phía ngai vàng và Galbatorix.

Eragon cẩn trọng, nhưng nó chần chừ không chắc có nên tấn công không.

Trong khoảnh khắc chần chừ đó, Murtagh nhảy về phía nó. Eragon xuống tấn chém tới. Murtagh chặn lại bằng khiên, rồi thay vì chém tới như Eragon nghĩ, hắn đập khiên vào Eragon và đẩy mạnh.

Eragon gầm gừ, đẩy ngược lại. Nó có thể lần theo bờ khiên để chém vào lưng hoặc chân Murtagh, nhưng hắn đẩy mạnh đến mức Eragon không thể mạo hiểm được. Murtagh cao hơn nó một hoặc hai tấc, lợi thế đó cho phép hắn ép xuống khiên của Eragon mà không thể khiến nó dễ dàng trụ lại được. Eragon dần bị trượt dài trên sàn đá.

Cuối cùng, Murtagh gầm lên một tiếng và đẩy thật lực Eragon loạng choạng lui lại. Ngay khi vất vả giữ thăng bằng, Murtagh đâm tới cổ nó.

“Letta!” Galbatorix kêu.

Đầu thanh Zar’roc chỉ còn cách da Eragon bề rộng một ngón tay thì khựng lại. Nó cứng đơ người, thở hổn hển không hiểu chuyện gì xảy ra.

“Tự kiềm chế đi, Murtagh à, hoặc ta sẽ giúp cậu đấy,” Galbatorix nói từ trên ngai vàng. “Ta không muốn lặp lại đâu. Cậu sẽ không giết Eragon, cũng như nó không giết cậu … Giờ, tiếp tục.”

Nhận ra Murtagh vừa cố giết nó – và đã thành công nếu Galbatorix không xen vào – Eragon bị sốc. Nó nhìn mặt Murtagh tìm câu trả lời, nhưng hắn vẫn giữ vẻ ngoan cố, như thể Eragon chẳng là gì với hắn hết.

Eragon không hiểu nổi. Murtagh rõ ràng chơi trò chơi theo cách khác hẳn bình thường. Có gì đó đã khiến hắn thay đổi, nhưng Eragon không biết đó là gì.

Thêm nữa, sự thật là nó đã thua – và lý ra, thì đã chết – bào mòn sự tự tin của Eragon. Nó đã đối mặt với cái chết rất nhiều lần trước đây, nhưng không bao giờ rõ ràng và không khoan nhượng như thế này. Không nghi ngờ gì hết, Murtagh đã đánh bại nó, chỉ có lòng nhân từ của Galbatorix – nếu có chút nào đó – đã cứu nó.

Eragon, đừng chìm vào chuyên đó, Arya nói. Cậu không thể nghi ngờ hắn sẽ cố giết mình. Hoặc cậu cố giết hắn. Nếu cậu như vậy, cuộc đấu sẽ khác nhiều, Murtagh sẽ không bao giờ có cơ hội như hắn vừa có.

Eragon vẫn ngờ vực, liếc mắt về phía cô đứng trong rìa ánh sáng cùng Elva và Saphira. Rồi Saphira nói, Nếu hắn thực cố cắt cổ anh, cứ việc cắt gân hắn, đảm bảo hắn không làm gì nổi nữa đâu.

Eragon gật đầu ra vẻ đã hiểu.

Nó và Murtagh tách nhau ra, lấy lại vị trí đối mặt trong khi Galbatorix nhìn cổ vũ.

Lần này Eragon tấn công trước.

Họ chiến đấu trong khoảng một tiếng. Murtagh không thử đánh đòn hiểm thêm nữa, trong khi Eragon – thấy thỏa mãn – thành công chạm vào xương đòn Murtagh, dù nó dừng đòn đánh trước khi Galbatorix tự mình chặn lại. Murtagh có vẻ khó chịu vì bị chạm, còn Eragon cười nhẹ trước phản ứng của hắn.

Có những nhát chém họ không cản được nữa. Với tốc độ và kĩ năng của họ, không ai trong cả hai đều có thể không có sai lầm nào; không có cách nào nhanh chóng kết thúc cuộc chiến, chắc chắn họ sẽ mắc sai lầm, và sai lầm thì sẽ dẫn đết thương tích.

Vết thương đầu tiên Murtagh chém Eragon vào đùi phải, vào giữ khoảng áo giáp và giáp chân. Chỉ là một vết chém nhẹ nhưng đau đớn cực kì, mỗi khi Eragon dựa vào chân, máu lại phụt ra từ vết thương.

Vết thứ hai cũng của Eragon: một vết cắt dài trên lông màu khi Murtagh chém vào mũ, khóe gươm lướt qua thịt. Eragon thấy vết thương này còn làm nó bực mình hơn nhiều, vì máu cứ chả xuống mắt nó cản trở tầm nhìn.

Rồi Eragon lại chém được vào cẳng tay Murtagh, cắt xuyên qua lớp giáp, cổ tay áo, rồi qua da xuống đến xương. Nó không làm tổn thương cơ bắp nào cả, nhưng có vẻ làm Murtagh đau đớn vô cùng, máu chảy vào găng tay khiến cầm trượt thanh gươm hai lần.

Eragon cũng cắt một vết nữa vào bắp chân phải Murtagh – rồi khi hắn đang hồi phục từ pha tấn công thất tại – nó vòng qua khiên Murtagh bổ thẳng xuống giữa giáp cẳng chân Murtagh, khiến mảnh thép lõm vào.

Murtagh tru lên, nhảy ngược lại bằng một chân. Eragon rướn theo, vung thanh Brisingr cố đẩy ngã hắn. Murtagh nhịn đau cảm lại, chỉ vài giây sau chính Eragon mới là người khó đứng vững.

Nãy giờ, khiên của họ chống đỡ những cú va đập liên tục – Eragon vui mừng nhận ra Galbatorix đã không động chạm gì đến bùa ếm lên những thanh gươm và giáp – nhưng rồi bùa chú trên khiên Eragon lẫn Murtagh đều phai đi. Ngay sau đó, Eragon chém mạnh làm nứt khiên của Murtagh. Niềm vui chiến thắng không lâu, khi Murtagh nắm thanh Zar’roc bằng cả hai tay chém đứt khiên trả đũa, đưa trận đấu về thế cân bằng.

Mặt đất dưới chân họ dần trơn tuột vì dính máu, khiến họ phải chật vật giữ vị trí. Căn phòng khổng lồ dội lại tiếng kim khí chạm nhau, như tiếng vang vọng lại trận chiến cổ đại từ ngàn xửa, chỉ có hai chiến binh tồn tại trong chiếc lồng ánh sáng, tay vungcặp gươm chói lòa cả màn đêm tăm tối.

Trong suốt trận đấu, Galbatorix và Shruikan quan sát bọn họ từ trong bóng tối.

Không có khiên, Eragon thấy dễ dàng đánh trúng Murtagh hơn. Tuy áo giáp giúp họ chặn phần lớn những vết cắt, nhưng không tránh khỏi dính vô số vết sưng hay tím bầm.

Dù có khiến Murtagh bị thương, nhưng Eragon ngờ rằng Murtagh vẫn là tay kiếm mạnh hơn. Không cách biệt lắm, nhưng đủ để Eragon không bao giờ thực sự đánh trên cơ. Nếu trận đấu cứ tiếp tục, Murtagh sẽ ép nó dần đến khi quá mệt hoặc bị thương quá nặng, một kết cục có vẻ sẽ đến rất nhanh. Cứ mỗi bước Eragon cảm thấy máu nhỏ ra từ vết cắt trên đùi ra đầu gối nhiều hơn, và nó càng lúc càng thấy khó phòng thủ hơn.

Nó buộc phải kết thúc trận chiến ngay nếu không sẽ vô phương tiếp tục tấn công Galbatorix sau đó. Cố nhiên nó không cho rằng có thể gây khó khăn nhiều cho nhà vua, nhưng nó vẫn phải thử. Dù có chuyện gì nó cũng phải thử.

Nó nhận ra căn nguyên vấn đề nằm ở lý do chiến đấu của Murtagh đến giờ vẫn còn là bí ẩn, trừ khi nó hiểu được tại sao, Murtagh sẽ tiếp tục gây bất ngờ cho nó.

Eragon hồi tưởng lại lời khuyên của Glaedr ở ngoại thành Dras-Leona: Cậu phải hiểu những gì đang nhìn thấy. Rồi cả: chiến đạo vi tri đạo. (dịch nghĩa: con đường của chiến binh là con đường của sự thấu hiểu.)

Nó nhìn Murtag, chăm chú như lúc nó đối mặt Arya trong buổi tập luyện, như lúc nó tự thấu hiểu bản thân trong đêm dài ở Vroengard. Bằng cách đó, nó tìm cách giải mã bí ẩn từ cơ thể Murtagh.

Nó đạt được một vài thành công nhỏ; rõ ràng là Murtagh đang buồn bã và mệt mỏi, vai hắn gập vào nói lên cơn giận giữ sâu kín, hoặc có khi là sợ hại. Rồi sự tàn nhẫn nữa, khó có thể là một tính cách mới, mới đối với Eragon thì có. Eragon đã bỏ sót nhiều chi tiết tinh tế hơn, giờ đây nó cố gắng kết nối chúng với những gì nó biết từ Murtagh từ trước, với tính bạn, lòng trung thành và sự oán giận với quyền điều khiển từ Galbatorix.

Phải mất vài giây trôi qua trong hơi thở nặng nề, vài cú đánh kì cục khiến nó lãnh thêm một vết tim trên khuỷu tay – cho đến khi sự thật lóe lên trong đầu Eragon. Nó có vẻ như quá hiển nhiên. Có gì đó trong cuộc đời Murtagh mà trận đấu này tác động đến, điều đó quá quan trọng khiến hắn buộc phải thắng bằng bất kì giá nào, kể cả giết đứa em cùng mẹ khác cha. Dù đó có là gì – Eragon có vài giả thiết, có những cái khá khó chịu – thì cũng có nghĩa là Murtagh sẽ không bao giờ từ bỏ. Cũng có nghĩa hắn sẽ chiến đấu như một con thứ bị dồn chân tường cho đến hơi thở cuối cùng, cũng có nghĩa Eragon sẽ không bao giờ có thể đánh bại hắn bằng những cách thông thường, vì trận đấu đối với nó không quan trọng như với Murtagh. Với Eragon, cuộc đấu chỉ để đánh lạc hướng, nó không quan tâm ai thắng ai thua miễn có thể đối mặt với Galbatorix sau đó. Nhưng với Murtagh, trận chiến có ý nghĩa hơn thế nhiều, từ kinh nghiệm, nó biết quyết tâm của hắn sẽ cực kì khó khăn, nếu không muốn nói là vô phương, vượt qua chỉ bằng sức mạnh.

Câu hỏi là làm sao để ngăn cản một kẻ quyết cố chấp giành lợi thế dù gặp cản trở nào đi nữa.

Câu hỏi hóc búa đó dường như vô phương, cho đến khi Eragon nhận ra cách duy nhất đánh bại Murtagh là cho hắn thứ hắn muốn. Eragon buộc phải chấp nhận thất bại để thỏa mãn mong muốn của hắn.

Nhưng không phải thất bại hoàn toàn. Nó sẽ không để Murtagh tiếp tục bị Galbatorix khống chế. Eragon sẽ cho hắn chiến thắng, rồi nó sẽ có chiến thắng của chính mình.

Khi nghe suy nghĩ của nó, Saphira tỏ ra đau đớn, lo lắng khôn cùng, Không, Eragon. Phải còn có cách khác.

Thế nói cho anh đó là gì, nó nói, vì anh không thấy đâu.

Cô nàng gầm gừ, Thorn cũng gầm ghè lại từ bên kia vùng ánh sáng.

Hãy chọn lựa khôn ngoan, Arya nói, Eragon hiểu ý cô.

Murtagh lao về phía nó, gươm họ chạm nhau vang ầm ĩ, rồi lại tách nhau ra dừng lại lấy sức. Khi họ lại lao vào nhau, Eragon vừa rụt người sang bên phải Murtagh, vừa để tay cầm gươm trượt đi sang bên sườn, như thể quá mệt mỏi hoặc bất cần. Chỉ một thoáng đó thôi, nhưng nó biết Murtagh sẽ chú ý và tận dụng kẽ hở nó tạo ra.

Ngay lúc đó, Eragon không cảm thấy gì hết. Nó vẫn thấy cơn đau từ những vết thương, nhưng xa cách lạ lùng, như thể cảm giác không còn là của nó. Tâm trí nó như một hồ nước sâu giữa trời lặng gió, phẳng lặng vô cùng, phản chiếu cảnh vật bên bờ. Nó ghi nhận những gì thấy được mà không nhận ra nữa. Nó không cần phải làm thế nữa. Nó hiểu rõ những gì xảy ra, nhưng suy nghĩ sâu hơn chỉ càn trở nó mà thôi.

Như Eragon trông đợi, Murtagh lao đến, đâm thẳng vào bụng nó.

Khi thời cơ chín muồi, Eragon quay người. Nó di chuyển không nhanh cũng chẳng chậm, chỉ vừa đủ cần thiết. Cử động ấy như thể được định sẵn, như thể nó là việc duy nhất nó có thể làm.

Thay vì chọc thẳng vào bụng Eragon như Murtagh muốn, thanh Zar’roc đâm chếch sang cơ bụng bên phải, ngay phía dưới lồng ngực. Nó cảm thấy như bị một búa nện, rồi có tiếng kim loại trượt đi khi thanh Zar’roc xuyên qua chiếc áo giáp tàn tạ đâm vào thịt. Thanh thép lạnh khiến Eragon thở hổn hển hơn cả vì đau.

Đằng sau nó, mũi gươm xuyên qua người, chọc vào lớp giáp sau lưng.

Murtagh nhìn trân trối, có vẻ muốn lui lại.

Trước khi Murtagh kịp tỉnh táo, Eragon nâng tay lên xọc thanh Brisingr vào bụng Murtagh, ngay gần rốn: một vết thương nặng hơn nhiều so với vết Eragon hứng chịu.

Khuôn mặt Murtagh chùng xuống. Miệng hắn há ra như thể định nói gì đó, rồi gục xuống đầu gốc, vẫn nắm chặt thanh Zar’roc.

Thorn gầm lên từ một bên.

Eragon rút thanh Brisingr ra, nhăn nhó cắn răng chịu đựng thanh Zar’roc tuột dần khỏi cơ thể.

Murtagh thả rơi thanh Zar’roc ra đánh keng lên nền nhà. Rồi hắn vòng tay ôm bụng, lộn một vòng, trán úp xuống sàn.

Lúc này Eragon đứng nhìn chằm chằm, máu nóng rỉ xuống một bên mắt.

Từ trên ngai vàng, Galbatorix nói, “Naina,” rồi hàng tá đen lồng khắp căn phòng bừng sáng, lại soi sạng những hàng cột và nét chạm khắc khắp tường, kể cả đống đá xích Nasuada.

Eragon lảo đảo bước, quỳ xuống bên Murtagh.

“Và Eragon đã giành chiến thắng,” giọng nói nhà vua vang vọng khắp căn phòng vĩ đại.

Murtagh nhìn lên Eragon, khuôn mặt rịn mồ hôi co rúm lại trong đau đớn. “Mày không thể để tao thắng hay sao?” hắn khẽ gầm gừ . “Mày không thể thắng Galbatorix, nhưng mày vẫn chứng tỏ mày giỏi hơn ta à … AA!” Hắn run bắn lên, cẳng chân co giật.

Eragon đặt tay lên vai hắn. “Vì sao” Nó biết Murtagh sẽ hiểu câu hỏi.

Giọng thì thầm khó nghe cất lên tiếng trả lời. “Vì tao hy vọng có thể được lão ân sủng để có thể cứu cô ấy.” Đôi mắt Murtagh mờ đi vì dòng lệ, rồi ngoảnh mặt đi.

Ngay khi đó, Eragon nhận ra hắn đã nói sự thật, khiến nó thấy bàng hoàng.

Sau giây lát, Eragon thấy Galbatorix vẫn quan sát họ thích thú.

“Rồi Murtagh thì thào, “Mày đã bịp tao.”

“Đấy là cách duy nhất.”

Murtaghàu bàu “Đó chính là điểm khiến mày khác tao.” Hắn nhìn Eragon. “Mày sẵn sàng hy sinh bản thân. Tao thì không … Cho đến lúc đó.”

“Nhưng giờ thì anh có mà.”

“Tao không còn là người như trước nữa rồi. Giờ tao có Thorn, và …” Murtagh ngập ngừng; vai hắn khẽ so lại. “Tao không còn chiến đấu vì bản thân nữa… Thế đủ khác rồi.” Hắn hít cạn, cau mày. “Trước giờ tao cứ nghĩ mày thật ngu ngốc vì cứ mạo hiểm cuộc sống như thế … Tao hiểu rõ hơn rồi. Tao hiểu … vì sao. Tao hiểu …” Đôi mắt hắn mở to, nét mặt giãn ra, như thể quên đi hết đau đớn, một luồng sáng bên trong làm khuôn mặt hắn bừng lên. “Anh hiểu – chúng ta hiểu rồi,” hắn thầm thì, Thorn bật lên một tiếng nửa rên rỉ, nữa gầm gừ.

Galbatorix cựa khẽ mình trên ngai như thể hơi khó chịu, cất giọng cay nghiệt, “Nói đủ rồi đấy. Trận đấu của các cậu xong rồi, Eragon đã thắng. Giờ là lúc những vị khách của chúng ta quỳ gối và thề trung thành với ta … Lại gần đây nào cả hai, ta sẽ chữa lành cho các cậu, rồi chúng ta tiếp tục.”

Eragon dợm đứng lên, nhưng Murtagh bám lấy tay nó kéo lại.

“Ngay nào!” Cặp lông mày rậm rạp của Galbatorix nhướn lên. “Hoặc ta sẽ để các cậu chịu đựng chúng cho đến khi xong việc.”

Sẵn sàng đi, Murtagh mấp máy.

Eragon chần chừ, không chắc phải đợi điều gì; rồi nó gật đầu, cảnh bảo cho Arya, Saphira, Galedr và các Eldunarí.

Rồi Murtagh đẩy Eragon sang một bên, chống hai đầu gối lên, hai tay vẫn ôm bụng. Hắn nhìn lên Galbatorix. Rồi hắn thét lên Từ đó.

Galbatorix giật nảy mình, giơ tay lên như thể đang che chắn bản thân.

Vẫn gào thét, Murtagh gọi ra những từ khác bằng cổ ngữ, quá nhanh để Eragon kịp hiểu mục đích của câu thần chú.

Không gian xung quanh Galbatorix chớp lóe đỏ rồi đen, trong khoảnh khắc, thân thể lão như bọc bởi một màn lửa. Một tiếng động vang lên giống như cơn gió mùa hè tràn qua những nhành cây trong khu rừng xanh rì.” Rồi Eragon nghe thấy tiếng rít nhẹ của mười hai quả cầu ánh sáng bay quanh đầu Galbatorix, bay từ phía lão xuyên qua bức tường biến mất. Trông chúng giống như những linh hồn, nhưng Eragon không chắc lắm, nó mới chỉ nhìn lướt qua.

Thorn xoay ngoắt– nhanh như một con mèo đang cố giẫm đuôi chính nó – đâm bổ vào cái cổ khổng lồ của Shruikan. Con rồng đen rống lên, lảo đảo lui về phía sau, lắc mạnh đầu cố quăng Thorn ra. m thanh nó gào thét lớn nhức óc, sàn nhà lắc lư bởi trọng lượng của hai con rồng.

Trên thềm bệ đá, hai đứa trẻ la hét lấy tay che kín tai.

Eragon thấy Arya, Elva và Saphira lảo đảo bước về phía trước, không còn bị phép thuật của Galbatorix trói buộc. Cầm trong tay thanh Dauthdaert, Arya lao về phía ngai vàng, trong khi Saphira nhảy vọt lên chỗ Thorn đang treo trên mình Shruikan. Trong khi đó, Elva đặt tay lên miệng, vẻ như tự nói gì đó với mình, nhưng Eragon không thể nghe ra trong tiếng ầm ĩ của lũ rồng.

Những giọt máu to như nắm tay rơi xuống quanh họ, bốc khói nghi ngút trên nền đá.

Eragon đứng lên từ nơi Murtagh đẩy nó, bám gót Arya về phía ngai vàng.

Rồi Galbatorix nói tên của cổ ngữ, cùng với từ letta. Một cái cùm vô hình khóa chặt chân tay Eragon, trong toàn căn phòng, im lặng bao trùm dưới ma thuậtkiềm chế của nhà vua, kể cả Shruikan.

Eragon sôi lên giận giữ và bực bội. Họ đã suýt đánh được nhà vua, mà giờ lại không thể chống được bùa phép của lão. “Giết lão!” nó gào lên, bằng cả miệng lẫn tâm trí. Họ đã cố tấn công Galbatorix lẫn Shruikan; nhà vua sẽ giết hai đứa trẻ dù họ có tiếp tục hay không. Cách duy nhất là Eragon và những người khác – hy vọng chiến thắng duy nhất còn sót lại – phải vượt qua trở ngại tinh thần và chiếm quyền quyển soát tư tưởng Galbatorix.

Cùng với Saphira, Arya và các Eldunarí, Eragon phóng luồng tư tưởng về phía nhà vua, dồn hết lòng căm thù, giận dữ, đau đớn vào trong một tia ý nghĩ cháy bỏng chạy thẳng vào tâm trí Galbatorix. (nguyên văn rất hay: “the center of Galbatorix’s being” – nhưng chỉ “cảm” chứ không “dịch” được ==’)

Trong khoẳng khắc, Eragon cảm thấy tâm trí của nhà vua: khung cảnh tối tăm kinh khủng, quét qua bởi những luồng hơi lạnh buốt giá lẫn nóng cháy bỏng –bao bọc bằng một những thanh thép cứng rắn, chia tâm trí lão thành nhiều phần.

Rồi đến những con rồng dưới sự điều khiển của Galbatorix, điên cuồn, gào rú, đau thương, tấn công tâm trí Eragon, buộc nó phải trở về thân thể tránh bị xé thành từng mảnh.

Eragon nghe phía sau nó Elva đang chuẩn bị nói gì đó, chưa kịp mở miệng thì Galbatorix đã hô, “Theyna!”, cô bé ngậm miệng lại líu lưỡi.

“Tôi đã tháo lưới phòng hộ của lão rồi!” Murtagh hô lên. “Lão giờ …”

Dù Galbatorix có nói gì đi nữa thì cũng quá nhanh và quá nhỏ, Eragon không thể nghe thấy gì, nhưng Murtagh im bặt, rồi giây lát sau, Eragon nghe thấy hắn đổ ập xuống sàn, tiếng áo giáp kêu keng keng và cạnh mũ rơi sắc lẻm vang lên.

“Ta còn nhiều lưới phòng hộ lắm,” gương mặt diều hâu của lão tối sầm thịnh nộ. “Các người không thể làm gì ta đâu.” Lão đứng dậy, bước xuống thềm đá về phía Eragon, áo chuồng quấn quanh, tay cầm thanh Vrangr trắng ởn chết chóc.

Trong khoảng khắc ngắn ngủi, Eragon cố bắt giữ tâm trí ít nhất một con rồng chắn trước nó, nhưng có quá nhiều rồng khiến nỗ lực của nó chỉ khiến nó chật vật chống đỡ hàng đàn Eldunarí trước khi chúng khuất phục tâm trí nó.

Galbatorix dừng bước nhìn chăm chăm vào nó, tĩnh mạch hằn lên trên lông mày, gằn giọng. “Nghĩ mày có thể thách thức ta à, thằng nhóc?” lão gầm gừ, nhổ nước bọt giận dữ. “Nghĩ mày có thể ngang hàng ta à? Rằng mày có thể hạ gục ta, ăn cắp ngai vàng của ta à?” dây chằng trên cổ Galbatorix dựng đứng lên sợi dây cuộn chặt. Lão giật mạnh mép áo choàng. “Ta đã cắt cái áo này ra từ cánh của chính Balgabad đấy, cả găng tay của ta nữa.” Lão nhấc thanh Vrangr trước mặt lên bằng đầu lưỡi kiếm lạnh lẽo. “Ta đã tước thanh gươm này từ tay Vrael, và ta đoạt lấy vương miện này từ thằng cha khóc thút thít đội nó trước tao đấy. Mà chúng mày còn nghĩ có thể đánh lừa ta à? TA? Mày tới lâu đài của ta, giết lính của ta, mày cứ làm như mày tốt hơn ta ấy. Như thế mày cao quý, đức hạnh hơn ấy.”

Eragon thấy tai nó ù đi, rồi mắt nó nẩy đom đóm khi Galbatorix quật vào má bằng chuôi thanh Vrangr, cào rách da nó.

“Mày cần được học dạy một bài khiêm tốn đấy, nhóc con,” Galbatorix tiến gần hơn, cho đến khi cặp mắt lóe sáng của lão chỉ còn cách Eragon vài tấc.

Lão quật vào má kia Eragon, trong một giây, nó chỉ còn thấy khoảng không đen kịt nhấp nháy.

“Ta sẽ khoái có mày phục vụ lắm,” Galbatorix trầm giọng, “Gánga,” rồi áp lực từ các Eldunarí đang dồn dập tấn công tâm trí nó biến mất, khiến nó lại được suy nghĩ thoải mái. Nhưng nó thấy những người khác thì không như vậy từ nét nhăn trên mặt họ.

Rồi một luồng tư tưởng như thanh gươm sắc lẻm, vang vọng vào từng điểm nhỏ nhất, cắt ý thức Eragon thành từng mảnh nhỏ, gói chúng lại trong cốt lõi tồn tại của nó. Thanh gươm xoắn lại, như thể những hạt gai bám vào sợi nỉ, xé toang từng mảng tâm trí, tìm cách hủy diệt ý chí, nhân diện, ý thức sâu nhất của nó.

Chưa bao giờ Eragon bị tấn công như vậy. Nó co lại, tập trung tư tưởng vào một ý nghĩ duy nhất – báo thù – nó chật vật tự bảo vệ. Nó có thể thấy cảm xúc của Galbatorix qua sự liên kết: có giận giữ, nhưng chủ yếu là niềm vui điên cuồng khi có thể làm Eragon tổn thương, được nhìn nó quặng mình đau đớn.

Eragon nhận ra lý do vì sao Galbatorix quá giỏi đột nhập tâm trí kẻ địch, là bởi nó khiến hắn thỏa mãn.

Thanh gươm chọc sâu hơn vào bản chất của Eragon, nó tru lên, không thể chịu đựng nữa.

Galbatorix mỉm cười, khóe miệng trơ ra như đất sét nung.

Đơn độc phòng ngự mãi thì không bao giờ thắng được, dù đang bị thiêu đốt cháy bóng, Eragon vẫn buộc mình tấn công ngược lại Galbatorix. Nó ngụp trong ý thức của nhà vua, bám lấy những ý nghĩ sắc như dao cạo, cố găm chúng về vị trí, ngăn cản nhà vua di chuyển hay suy nghĩ mà không được cho phép.

Tuy nhiên Galbatorix không thèm phòng ngự. Lão rộng miệng cười độc ác, vặn xoắn lưỡi gươm sâu hơn trong tâm trí Eragon.

Eragon cảm thấy như thể nó bị một gốc mâm xôi xé toạc ra từng mảnh bên trong. Một tiếng thét nghẹt trong cổ họng, nó rũ người xuống dưới gọng kìm phép thuật của Galbatorix.

“Đầu hàng đi,” Lão nắm lấy cằm Eragon bằng những ngón tay bằng thép nguội. “Đầu hàng đi.” Lưỡi gươm vặn xoắn lần nữa, Eragon la khản giọng.

Tâm trí của nhà vua luẩn quẩn quanh ý thức Eragon, đẩy tâm trí vào những mảng càng lúc càng nhỏ, cho đến khi nó chỉ còn lại một mảng tí hon bao trùm bởi sự hiện diện của Galbatorix.

“Đầu hàng đi,” nhà vua thì thào gần như vẻ yêu thương. “Cậu không còn nơi nào để đi, không còn nơi nào để trốn… Cuộc sống này của cậu đã kết thúc, Eragon Khắc tinh của Tà thần à, nhưng một cuộc sống khác đang chờ đón. Đầu hàng đi, rồi tất cả sẽ được tha thứ.”

Nước mắt làm tầm nhìn Eragon méo mó khi nó nhìn vào vực thẳm vô tận trong con ngươi Galbatorix.

Họ đã thất bại… Nó đã thất bại.

Ý nghĩ đó đau đớn hơn bất kì vết thương nào. Hàng trăm năm cố gắng – tất cả chỉ là con số không. Saphira, Arya, các Eldunarí: không ai có thể vượt qua Galbatorix. Lão quá mạnh, quá thông tuệ. Garrow, Brom lẫn Oromis đều đã chết uổng, cũng như bao chiến binh các chủng tộc ngã xuống trong cuộc chiến chống Đế chế.

Nước mặt tuôi dài trên mặt Eragon.

“Đầu hàng đi,” nhà vua thì thầm, xiết chặt gọng kìm.

Eragon ghét cay đắng hơn hết thảy sự bất công của tình cảnh này. Nó có vẻ sai trái từ tận gốc khi bao nhiêu người đã phải chịu đựng và hy sinh chỉ để đuổi theo một mục tiêu vô vọng. Thật sai trái khi chỉ mình Galbatorix có thể gây nên nhiều đau khổ như vậy. Thật sai trái khi lão có thể thoát khỏi trừng phạt vì những tội nghiệt đã gây ra.

Vì sao? Eragon tự hỏi

Rồi nó nhớ lại giấc mơ của Eldunarí cổ xưa nhất Valdr cho nó và Saphira xem, khi những băn khoăn của con sáo đá cũng ngang bằng với của một ông vua.

“Đầu hàng ngay!” Galbatorix thét lên, tâm trí lão đè nén Eragon bẹp dí như băng vụn, những tia lửa xuyên qua nó từ bốn phương tám hướng.

Eragon gào lên, trong cơn tuyệt vọng nó vươn tới Saphira và các Eldunarí, tâm trí của họ bị vây hãm bởi những con rồng điên theo lệnh Galbatorix – không chủ định, nó rút năng lượng từ họ.

Và nó phóng bùa chú với nguồn năng lượng ấy.

Đó là một bùa chú không lời, một phần phép thuật của Galbatorix không cho phép dùng cổ ngữ, còn vì không từ ngữ nào có thể diễn tả những gì Eragon muốn, hay những gì nó cảm nhận. Một thư viện sách đồ sộ cũng không thể đủ. Bùa phép nó phóng ra từ bản năng và cảm xúc; ngôn ngữ không thể chứa đựng nó được.

Điều nó muốn vừa đơn giản lẫn phức tạp: nó muốn Galbatorix thấu hiểu … phải thấu hiểu sự sai trái trong hành động của lão. Câu thần chú không phải để tấn công mà giống như nỗ lực giao tiếp. Nếu Eragon phải dành cả phần đời còn lại làm nô lệ cho nhà vua, nó cũng muốn Galbatorix nhận thức những gì lão đã làm, đầy đủ không thiếu một chi tiết nào hết.

Khi phép thuật ứng nghiệm, Eragon cảm thấy Umaroth và các Eldunarí hướng sự chú ý đến thần chú của nó, cố lờ những con rồng của Galbatorix đi. Trăm năm đau thương giận giữ trào lên trong lòng các Eldunarí, như những đợt sóng gào thét, những con rồng can thiệp vào tâm trí Eragon, uốn nắn thần chú, khắc sâu, dang rộng nó, chồng chất lên cho tới khi nó hoàn thiện hơn nhiều những suy nghĩ đầu tiên của Eragon.

Thần chú không chỉ cho Galbatorix thấy sự sai trái trong hành động của lão; giờ nó cũng buộc lão trải qua những cảm nhận, cả tốt lẫn xấu, mà lão đã có từ khi sinh ra. Thần chú vượt xa những gì Eragon có thể tự sáng tạo, vì nó chưa nhiều hơn những gì một người, hay một con rồng có thể tưởng tượng. Mỗi Eldunarí đều đóng góp vào quá trình gia cố thần chú, tổng hợp lại khiến nó mở rộng không chỉ toàn bộ Alagaësia mà quay ngược trở lại từng giây phút trong cuộc đời Galbatorix từ khi lọt lòng.

Eragon nghĩ, đó là phép thuật vĩ đại nhất mà những con rồng đã từng tạo ra, nó là công cụ, là vũ khí của họ.

Sức mạnh của các Eldunarí tràn qua nó như dòng sông lớn tựa biển, nó cảm thấy như một con thuyền trống rỗng mỏng manh, như thể da thịt nó sẽ nứt toác ra dưới áp lực của cơn sóng ma thuật cuồn cuộn chảy. Nếu không vì Saphira và những con rồng khác, nó đã có thể chết ngay lập tức, sức mạnh bị hút cạn bởi đòi hỏi năng lượng quá lớn.

Ánh đèn lồng xung quanh họ mờ đi, trong tâm trí nó, Eragon nghe hàng ngàn giọng nói vang vọng: luồn tạp âm khủng khiếp chứa đựng vô ngần đau đớn lẫn vui sướng, vọng lại từ hiện tại lẫn quá khứ.

Nếp nhăn trên mặt Galbatorix hằn sâu, đôi mắt phình ra khỏi hốc. “Mày đã làm gì?” giọng lão trống rỗng vì căng thẳng. Lão lui lại đặt tay vào thái dương. “Mày đã làm gì!!!”

Eragon gắng nói, “Khiến ông thấu hiểu.”

Nhà vua nhìn trân trối nó bằng anh mắt kinh dị. Từng thớ cơ trên gương mặt lão co giật, cả cơ thể lão run lên rợ hãi. Lão nhe răng gầm lên, “Mày sẽ không hạ được ta đâu, nhóc con. Mày …. sẽ …. không …” Lão rên rỉ, lảo đảo, rồi cùng lúc bùa chú trấn áp Eragon biến mất, nó ngã vật xuống sàn, kể cả Elva, Arya, Saphira, Thorn, Shruikan lẫn hai đứa trẻ đều có thể di chuyển trở lại.

Shruikan gầm lên điếc tai khắp căn phòng, con rồng đen lắc Thorn bay ra khỏi cổ. Thorn rơi phịch xuống sườn trái, xương cánh gãy một tiếng tách lớn.

“Ta … sẽ … không … chịu … thua …,” Galbatorix gào. Đằng sau nhà vua, Eragon thấy Saphira – đang đừng gần ngai vàng hơn nó – chần chừ nhìn lại họ. Rồi cô lao thẳng lên bệ đá, chạy cùng Saphira tới phía Shruikan.

Thorn chật vật đứng lên lao theo.

Mặt nhăn nhúm như kẻ điên loạn, Galbatorix bước về phía Eragon, thanh Vrangr vung lên.

Eragon lộn sang bên, nghe tiếng thanh gươm chém vào đá bên đầu nó. Nó tiếp tục lăn lộn thêm vài thước, rồi bật đứng dậy. Nó còn có thể đứng thẳng là nhờ vào năng lượng từ các Eldunarí.

Galbatorix gầm lên, lao về phía nó, Eragon đỡ cú chém vụng về của nhà vua. Giữa tiếng gầm cũ lũ rồng, hai thanh kiếm vẫn rung lên rõ ràng tiếng vang sắc lẻm như lời thầm thì của người chết.

Saphira bật cao lên không, cào xé mõm Shruikan tuôn máu, rồi rơi xuống sàn. Nó dang bộ móng vuốt bự chảng quét tới, cô rồng bật lại phía lui, cánh vươn ra gần nửa.

Eragon thụp xuống khỏi cú chém, đâm vào nách trái Galbatorix. Nó ngạc nhiên nhận ra đã đánh trúng, mũi gươm Brisingr ngập máu nhà vua.

Galbatorix giật mạnh tay khiến nhát đâm tiếp theo văng ra, họ ghìm nhau bằng chuôi gươm, cố gắng đẩy người kia mất thăng bằng. Gương mặt của nhà vua vặn vẹo không thể nhận ra, rồi nước mắt chảy xuống má lão.

Một luồn lửa phun ra qua đầu họ, đốt nóng không khí xung quanh.

Những đứa trẻ gào thét từ đâu đó.

Cái chân bị thương của Eragon sụm xuống, nó ngã ra lên đất, đè lên những ngón tay cầm Brisingr tím bầm. Nó cho rằng nhà vua sẽ đứng trên nó ngay, nhưng không, Galbatorix dậm chận tại chỗ, lắc mình từ bên này sang bên khác.

“Không!” nhà vua kêu gào. “Tôi không làm …” Lão nhìn vào Eragon la hét, “Làm nó dừng lại đi!”

Eragon lắc đồng, lảo đảo đứng dậy.

Tay trái nó đau như dần, ngước lên nhìn thấy Saphira và chân trước bị một vết rách dài. Từ phía kia căn phòng, Thorn cắt ngập tai Shruikan, khiến con rồng gầm gừ chuyển qua nó. Khi Shruikan không chú ý, Saphira lao lên trên cổ nó gần xương sọ. Cô nàng xọc vuốt vào lớp vảy rồi xử dọc xuống theo hai học gai nhọn suốt sống lưng con rồng.

Shruikan kêu gào điên dại, bắt đầu quẫy đạp mạnh hơn.

Galbatorix lại chạy về phía Eragon, đâm chém nó như lúc nãy. Eragon chặn một cú, rồi một cú khác, nhưng rồi dính một chiêu vào sườn, khiến nó tối tăm mặt mũi.

“Làm nó dừng đi,” giọng Galbatorix có vẻ cầu xin hơn hơn là dọa dẫm. “Cơn đau …”

Shruikan phát ra tiếng gào khác điên cuồng hơn bao giờ hết. Eragon thấy phía sau nhà vua, Thorn treo lủng lẳng trên cổ Shruikan đối diện với Saphira. Trọng lượng hai con rồng kéo sụp đầu Shruikan xuống gần sàn nhà. Tuy nhiên con rồng đen quá lớn, cũng quá mạnh để cả hai có thể đánh gục. Thêm nữa cổ nó quá dày, Eragon không nghĩ Thorn hay Saphira có thể làm nó bị thương bằng răng được.

Rồi, Eragon thấy Arya lao lên từ sau những cây cột như bóng đen xuyên qua rừng đêm, phi thẳng về phía lũ rồng. Trên tay trái cô, thanh Dauthdaert màu lục tỏa hào quang sáng rực.

Shruikan trông thấy cô, giật mạnh người cố quăng Saphira và Thorn ra. Khi chúng vẫn không xê dịch, nó gầm lên, mở miệng phun những luồn tràn ngập căn phòng.

Arya lao lên, trong khoảnh khắc Eragon mất dấu cô sau bức tường lửa. Rồi cô xuất hiện gần đầu Shruikan lượn lờ trên sàn nhà. Đuôi tóc cô bắt lửa, nhưng cô không để tâm.

Nhảy liền ba bước, cô phi lên chân trước Shruikan, từ đó quăng mình lên một bên đầu nó, để lại vệt lửa phía sau như sao băng. Thét lên một tiếng vang khắp căn phòng, Arya phóng ngập thanh Dauthdaert giữa con mắt bự chảng, lấp lánh màu băng lam, vào sâu trong sọ rồng,

Shruikan gào thét, co giật, từ từ đổ xuống, lửa tuôn ra từ miệng.

Saphira và Thorn nhảy ra ngay trước khi con rồng đen khổng lồ ngã xuống sàn.

Hàng cột nứt toác, những tảng đá to rơi từ trần xuống bể nát. Vô số đèn lồng tắt lịm, cục nóng chảy trong chúng tan dần.

Eragon gần như ngã nhào khi căn phòng rung chuyển. Nó không thể thấy chuyện gì xảy ra với Arya, nhưng nó sợ thân hình khổng lồ của Shruikan đã đè lên cô mất.

“Eragon!” Elva thét lên. “Cúi xuống!”

Nó cúi gập người, nghe thấy tiếng gió lướt qua khi thanh gươm trắng được Galbatorix vung qua lưng nó.

Eragon nhỏm dậy lao lên …

… và đâm thẳng vào giữa bụng Galbatorix, hệt như khi nó đâm Murtagh.

Nhà vua gầm gừ lui lại, tự rút mình ra khỏi thanh gươm. Lão sờ vết thương với bàn tay còn lại, nhìn trân trối máu trên ngón tay. Rồi lão lại nhìn Eragon nói, “Những tiếng nói… chúng kinh khủng quá. Ta không chịu nổi …” Lão nhắm mắt, nước mắt tuôn trên má. “Đau … đau đớn quá… Đau thương quá… Làm nó dừng đi! Làm nó dừng đi!”

“Không,” Eragon nói. Elva đứng cạnh nó, rồi Saphira và Thorn đang đứng ở phía xa căn phòng. Eragon thở phào nhẹ nhõm khi thấy Arya đứng cùng chúng, dù chém sém, đầy máu, nhưng không bị thương.

Galbatorix trợn trừng mắt – tròn to, trắng dã – rồi lão nhìn trân trối vào phía xa, như thể Eragon và những người khác không tồn tại. Lão lắc đầu, run rẩy, quai hàm động đậy, nhưng không có tiếng nào phát ra từ cổ họng.

Rồi cả hai thứ xảy ra một lúc. Elva thét lên rồi ngất xỉu, còn Galbatorix hét lên, “Waíse néiat!”

Không tồn tại.

Eragon không còn thời gian nhiều lời. Rút năng lượng ra từ các Eldunarí, nó phù phép kéo mình, Saphira Arya, Elva, Thorn, Murtagh và hai đứa trẻ trên thềm đá về phía tảng đá xích Nasuada. Rồi nó phù phép ngăn cản hay bật lại bất kì thứ gì có thể làm làm họ bị thương.

Họ chỉ di chuyển được nửa đường tới tảng đá khi Galbatorix vụt biến mất trong tia chớp sáng chói chang hơn mặt trời. Rồi mọi thứ tối tối sầm đi trong im lặng khi bùa phép bảo vệ của Eragon phát tác.

Đau thương đến chết (Death Throes)

Roran ngồi trên chiếc cáng các tiên nhân đặt trên một tảng đá bên cảnh cổng đổ nát của Urû’baen, ra lệnh cho các chiến binh quanh anh.

Bốn tiên nhân đã mang anh ra khỏi thành phố để có thể cứu anh mà không sợ bị bùa ếm của Galbatorix làm ảnh hưởng thần chú. Họ chữa lành cánh tay trật khớp, xương sườn gãy, và những vết thương Barst gây ra, dù họ lo ngại phải mất hàng tuần xương cốt của anh mới trở lại như cũ, rồi nài nỉ anh nằm một chỗ đến hết ngày.

Anh thì khăng khăng được trở lại chiến trường. Các tiên nhân thuyết phục mãi, nhưng anh bảo họ, “hoặc là các ông đỡ tôi dậy, hoặc tôi sẽ tự đi đấy.” Rõ ràng họ không vui lắm, nhưng rồi cũng đồng ý đưa anh tới nơi anh đang ngồi quan sát quảng trường.

Như Roran đoán trước, bọn lính mất hết sĩ khí trước cái chết của chủ tướng, quân Varden đã đẩy bật được chúng vào những con phố chật hẹp. Khi Roran quay lại, quân Varden đã quét sạch quá hơn phần ba thành phố và đang nhanh chóng tiến về tòa thành chính.

Họ đã mất rất nhiều chiến binh – xác chết và những kẻ hấp hối rải trên con phố, máng nước đỏ ngầu màu máu – nhưng với lợi thế nãy giờ, Roran có thế thấy cảm giác chiến thắng lại bừng bừng trong đoàn quân trên gương mặt chiến binh con người, người lùn và Urgal, dù các tiên nhân vẫn giữ vẻ lạnh lùng phẫn nộ trước cái chết của nữ hoàng.

Các tiên nhân khiến Roran hơi lo khi sẵn sàng giết những tên lính cố đầu hàng mà không hề thương tiếc. Cơn khát máu của họ gần như không thể kiểm soát một khi bùng lên.

Sauk hi Barst gục ngã, vua Orrin bị một thanh chốt cửa giáng vào ngực khi đang công phá một trại lính sâu trong thành phố. Ông bị thương khá nặng, thậm chí các tiên nhân cũng không chắc có thể chữa được hay không. Các cận vệ đưa nhà vua trở về doanh trại, từ lúc đó Roran chưa nghe thêm tin tức nào về ông.

Dù không thể chiến đấu, Roran vẫn tiếp tục ra lệnh. Anh tổ chức quân đội phía sau, gom góp những người lang thang tụ lại tung hoành khắp thành Urû’baen – trước tiên là chiến những máy bắn đá còn lại trên tường thành. Rồi anh cho người đưa tin chạy dọc theo các tòa nhà, chuyển một tin quan trọng tới Jörmundur, Orik hay Martland Redbeard và các chỉ huy khác.

“ – mà nếu anh thấy có bất kì tên linh nào ở gần tòa nhà vòm gần chợ, hay báo cho Jörmundur biết luôn nhé,” anh dặn kiếm kĩ có đôi vai cao gầy trước mặt.

“Vâng, thưa ngài,” người chiến binh nuốt nước bọt, lưỡng quyền nhấp nhô lên xuông.

Roran nhìn chăm chú một lúc, thấy thích thú vì chuyển động đó, rồi xua tay, “Đi đi.”

Khi người chiến binh chạy đi, Roran cau mày, ngước nhìn những mái nhà hướng về phía tòa thành bên dưới mái nhô từ phiến đá khổng lồ.

Chú đang ở đâu? Anh băn khoăn. Eragon và những người kia đã không thấy đâu từ khi họ tiến vào trong tòa thành, sự vắng mặt quá lâu khiến Roran lo tợn. Anh nghĩ ra được vài lý do trì hoãn họ, nhưng đều không ổn lắm. Dễ chịu nhất là Galbatorix đang lẩn trốn, Eragon và những người đồng hành phải tìm kiếm nhà vua. Nhưng với sức mạnh của Shruikan như đêm qua, Roran không thể tưởng tượng nổi Galbatorix phải trốn tránh kẻ địch.

Nếu nỗi sợ tệ hại nhất của anh thành hiện thực, thì chiến thắng của Varden sẽ chẳng tày gang, còn Roran biết khó có binh sĩ nào có thể còn sống sót sau hôm nay.

Một người đưa tin anh gửi đi chạy ra khỏi con phố về phía bên phải Roran – một người cung thủ đầu trần tóc đầy cát, hái bên má đỏ hoe. Anh ta dừng lại trước một tảng đá lớn, gục đầu thở hổn hển.

“Anh thấy Martland chứ?” Roran hỏi.

Anh ta gật đầu, hàng tóc phấp phới qua chiếc trán bóng loáng.

“Anh có chuyển thông điệp của ta không?”

“Có thưa ngài. Martland bảo tôi nói với ngài rằng” – anh ta dừng lại lấy hơi – “bọn lính đã rút hết khỏi các nhà tắm, nhưng giờ chúng đang cố thủ trong tòa nhà lớn gần tường thành phía Nam.

Roran chuyển mình, cánh tay mới bình phục đau nhói. “Thế những tháp canh giữa nhà tắm và vựa thóc thì sao? Đã chiếm được chưa?”

“Được hai cái rồi; chúng ta đang chiến đấu ở những tòa còn lại. Mà Martland cũng thuyết phục được vài tiên nhân đến trợ giúp. Ông ấy cũng …”

Một tiếng gào rền rĩ từ vách đá ngắt lời anh ta.

Người cung thủ tái nhợt đi, trừ vệt đỏ trên hai má, lúc này còn đỏ lựng lên, giống như lớp son trên mặt tử thi vậy. “Thưa ngài, đó là …”

“Suỵtttttt!” Roran nghển cổ nghe ngóng. Chỉ có Shruikan mới kêu lớn được như vậy.

Một lát sau, họ không nghe thấy gì thêm. Rồi một tiếng gầm vang lên từ tòa nhà, Roran nghĩ anh còn nghe thấy vài tiếng động khác nhàn nhạt, nhưng không chắc lắm.

Từ khắp nơi quanh cánh cổng đổ nát, con người, tiên nhân, người lùn, Urgal cùng dừng lại nhìn về phía đó.

Rồi một tiếng gầm khác còn lớn hơn vang lên.

Roran bám chặt cáng, cứng người lại. “Giết lão đi,” anh lẩm bẩm. “Giết đồ khốn ấy đi.”

Cả thành phố phảng phất rung lên, như thể mặt đất bị khối lượng khổng lồ đập mạnh. Roran nghe thấy tiếng cái gì đó vỡ tan.

Rồi thành phố chim trong im lặng, mỗi giây trôi qua một nặng nề.

“… Ngài có nghĩ họ cần chúng ta giúp không?” người cung thủ nhẹ giọng hỏi.

“Chúng ta không làm được gì hết,” Roran vẫn chăm chú nhìn tòa thành.

“Có lẽ các tiên nhân …”

Mặt đất rung lên bần bật, rồi cánh cổng tòa thành bắn tung ra bởi ngọn lửa vàng trắng sáng lóa, đến nỗi Roran nhìn rõ nhưng đốt xương trên đầu và cổ người lính, da thịt anh ta hồng lên như quả lý trước ánh nến.

Một tiếng nổ khủng khiếp đẩy họ ngã dúi dụi, tai Roran đau buốt như bị đinh xuyên qua màng nhĩ. Anh thét lên nhưng không nghe nổi giọng chính mình và cả người khác – rồi tai anh điếc đặc sau tiếng sấm rung trời. Sỏi đá dưới chân nẩng tưng tưng, bụi mù và những mảnh vỡ cuốn bay mù mịt, cuồng phong thổi toạc áo Roran.

Roran buộc phải nhắm chặt mắt khỏi bụi bặm, chỉ có thể bám chặt vào người cung thủ chờ cơn phong ba lắng xuống. Anh cố hít thở, nhưng những cơn gió nóng rút sạch không khí chưa kịp chui vào phổi. Cái gì đó táng vào đầu đánh mũ giáp Roran bay mất.

Cơn địa chấn kéo dài mãi mới ngừng lại, Roran khẽ mở mắt, run sợ vì những gì sẽ chứng kiến.

Không trung trở nên xám xịt, mịt mù, tầm nhìn không vượt quá vài trăm thước. Từng mảnh gỗ viên đá rơi như mưa cùng những đám tro tàn. Một thanh gỗ nằm dọc theo con phố - một phần cầu thang bắn ra khi các tiên nhân phá hủy cánh cổng – đang bốc cháy. Nhiệt lượng từ vụ nổ khiếp nó cháy thành than ngay lập lức. Những chiến binh nằm la liệt trên mặt đất, vài người vẫn cử động, số còn lại rõ ràng đã chết.

Roran liếc sang người cung thủ. Anh ta cắn môi dưới mình máu chảy ướt cằm.

Họ đỡ nhau đứng dậy, Roran nhìn về phía từng là tòa thành. Anh chỉ thấy một màn đêm xám xịt. Eragon! Nó và Saphira có sống sót nổi sau vụ nổ không? Có ai đó đã gần đó không?

Roran há miệng vài lần cố rũ sạch tai – đang ù đặc đau đớn – nhưng không thể. Anh sờ lên tai phải, ngón tay nhuộm máu tươi.

“Anh có nghe tôi nói không?” Anh la lên với người cung thủ, nhưng không có gì ngoài cổ họng và miệng rung lên.

Người cung thủ nhăn mặt lắc đầu.

Roran chóng mặt, nghiêng mình dựa vào một tảng đá. Khi anh chờ lấy lại thăng bằng, anh nghĩ tới phiến đá vẫn treo trên đầu họ, thình lình nhận ra toàn bộ thành phố có thể gặp nguy hiểm.

Chúng ta phải rời ngay trước khi nó rơi, anh tự nhủ. Anh nhổ ra máu và đất cát lên nền sỏi, rồi lại nhìn về phía tòa thành vẫn bị che mờ khói bụi. Con tim anh quặn thắt đau đớn.

Eragon!

Biển tầm ma

Bóng tối, tịch mịch.

Eragon trượt người sang một bên, rồi … không thấy gì hết. Nó vẫn thở được, nhưng không khí ảm đạm không mang chút sinh khí, khi nó cử động, áp lực lên thần chú của nó càng tăng.

Nó vươn tâm trí tới những người chung quanh xem nó có cứu được tất cả hay không. Elva đã bất tỉnh, Murtagh thì gần như vậy, nhưng họ và tất cả những người khác vẫn sống.

Lần đầu tiên Eragon tiếp xúc với tâm trí Thorn. Con rồng đỏ giãy giụa phản ứng. Tư tưởng của nó u ám hơn, cũng méo mó hơn Saphira nhiều, nhưng trong đó có sức mạnh và sự cao quý khiến Eragon ấn tượng.

Chúng ta không thể giữ thần chú lâu hơn được, giọng Umaroth căng thẳng.

Mọi người phải giữ, Eragon nói. Nếu không chúng ta sẽ chết.

Thêm vài giây nữa trôi qua.

Ánh sát đột nhiên tràn vào mắt Eragon, tai nó lùng bùng những tiếng ồn.

Nó nhăn nheo, chớp mắt để quen với ánh sáng.

Quá không trung đầy khói bụi, nó thấy một miệng hố cháy sáng nơi Galbatorix từng đứng. Những tảng đá nóng rực, nảy lên như đang sống khi không khí phảng qua bề mặt. Trần nhà cũng phát sáng, cảnh tượng khiến Eragon mất bình tĩnh; như thể họ đang đứng trong một cái lò luyện kim khổng lồ vậy.

Không khí tràn ngập mùi sắt thép.

Bức tường căn phòng nứt toác, nhưng cây cột, phù điêu, đèn lồng bị nghiền nát. Phía cuối căn phòng là xã Shruikan, da thịt hầu như đã bị lột khỏi khung xương bám đầy bồ hóng. Phía trước bức tường đá đã bị vụ nổ phá nát, cùng hàng trăm thước tường nhà xa hơn, để lộ ra vô số căn phòng và lối đi. Cánh cổng vàng giữa lối đi đã bật tung bản lề, Eragon ngỡ nó thấy ánh sáng bên ngoài ở phía xa ngoài tiền sảnh.

Nó đứng dậy, để ý lưới phòng hộ vẫn rút năng lượng từ những con rồng, nhưng không nhanh như trước.

Một tảng đá to bằng ngôi nhà từ trần nhà rơi xuống ngay cạnh sọ Shruikan, vỡ tan thành hơn chục mảnh. Xunh quanh họ, bức tường nứt rộng hơn, tiếng rin rít cọt kẹt rợn người từ mọi phía vọng lại.

Arya bước tới hai đứa trẻ, ôm lấy hông bé trai giúp nó trèo lên lưng Saphira. Rồi cô chỉ vào bé gái bảo Eragon, “Ném nó cho tôi!”

Eragon chật vật mất một giây thu thanh Brisingr vào vỏ. Rồi nó ôm hông bé gái liệng sang cho Arya bắt lấy.

Ergon quay mình sải bước qua Elva về phía Nasuada. “Jierda!” nó hô, đặt tay lên ổ khóa xích chặt cô vào tảng đá xám. Thần chú có vẻ không linh nghiệm, rồi kết thúc nhanh chóng vì tốn quá nhiều năng lượng.

Nasuada rên lên hối thúc, rồi nó rút mảnh vải ra khỏi miệng cố. “Cậu phải tìm chìa khóa!” Cô nói. “Gã cai ngục của Galbatorix mang theo nó.”

“Không kịp tìm hắn đâu!” Eragon vung thanh Brisingr chém thẳng vào ổ xích quanh tay trái cô. Thanh gươm bật khỏi ổ xích kêu khô khốc, chỉ để lại một vệt mờ trên mặt kim loại. Nó chém thêm phát nữa, nhưng sợi xích vẫn trơ trơ dưới lưỡi gươm.

Một tảng đá lớn từ trần nhà rơi xuống, đập xuống sàn kêu rầm.

Một bàn tay nắm lấy tay nó, Eragon quay lại thấy Murtagh đang đứng phía sau, một tay ôm vết thương trên bịnh. “Tránh ra,” hắn càu nhàu. Eragon lui ra, Murtagh nói ra tên của các tên như đã làm, kèm theo từ jierda, rồi chiếc cùm sắt bật ra rơi khỏi tay chân Nasuada.

Murtagh nắm cổ tay cô, dẫn về phía Thorn. Mới đi được một bước, cô luôn xuống dưới cánh tay để hắn dựa vào vai mình.

Eragon há miệng rồi ngậm lại. Nó sẽ hỏi sau vậy.

“Chờ đã!” Arya kêu lên, nhảy ra khỏi Saphira và chạy đến bên Murtagh. “Thế quả trứng đâu? Các Eldunarí nữa? Chúng ta không bỏ lại đây được!”

Murtagh nhăn nhó, rồi mẩu thông tin len vào tâm trí nó và Arya.

Arya xoay mình, mái tóc cháy xém tung lên, lao thẳng về phía một cánh cửa đối diện căn phòng.

“Quá nguy hiểm!” Eragon kêu với theo. “Nơi này đang sụp đổ! Arya!”

Đi đi, cô hối thúc. Đưa lũ trẻ tới nới an toàn. Đi đi! Cậu không có nhiều thời gian đâu!

Eragon chửi thề. Nó ước gì ít nhất cô cũng mang theo Glaedr. Nó trượt thanh Brisingr vào vỏ, cúi xuống nhấc Elva, lúc này đang cựa mình lên.

“Có chuyện gì vậy?” cô bé hỏi khi Eragon đưa cô lên lưng Saphira phía sau hai đứa trẻ.

“Chúng ta rời khỏi đây,” nó dặn. “Giữ chặt.”

Saphira đã bắt đầu di chuyển. Tập tễnh vì chân trước bị thương, cô nàng phi thẳng qua miệng hố, Thorn theo sát ngay sau, mang theo Murtagh và Nasuada.

“Cẩn thận!” Eragon la lên, thấy một mảng trần sáng lóa rơi thẳng xuống đầu họ.

Saphira dạt qua bên trái, tảng đá nhọn rơi xuống bên cạnh vỡ tung tóe. Một mảnh phi trúng sườn Eragon giắt vào áo giáp. Nó rút ra quăng đi. Khói bốc lên từ đầu găng tay, nó ngửi thấy mùi lông vũ cháy khét. Những tảng đáng khác rơi khắp căn phòng.

Khi Saphira tới cửa tiền sảnh, Eragon xoay mình nhìn Murtagh. “Có những cái bẫy nào?” Nó hét lên.

Murtagh lắc đầu, vẫy tay ra hiệu họ đi tiếp.

Những đống đá đổ nát phủ lên sàn tiền sảnh, khiến lũ rồng chậm lại. Eragon thấy những căn phòng và lối đi hai bên đường đầy gạch vụn bị vụ nổ xé toang, với bàn ghế, đồ đạc bốc cháy bên trong. Lộ ra bên dưới những đống đá lớn là những xác người chết hay hấp hối đang dặt dẹo kì cục, hay những gương mặt phủ bụi.

Nó tìm kiếm Blödhgarm và các pháp sư, nhưng không thấy họ đâu, dù còn sống hay đã chết.

Phía cuối tiền sảnh, hàng trăm người cả binh lính lẫn đầy tớ túa ra từ những cánh cửa, chạy hối hả về phía cánh cửa mở toang. Hầu như họ đều bị gãy chân tay, bỏng, xây xước hay bị thương. Họ dạt ra tránh Saphira và Thorn, nhưng lờ lũ rồng đi.

Saphira vừa đến cuối sảnh thì tiếng đổ ầm như sấm vang lên phía sau, Eragon nhìn về phía phòng ngai vàng sụp xuống, chôn vùi sàn nhà dưới lớp đá hơn năm mưới thước.

Arya! Eragon hoảng hồn. Nó cố tìm cô bằng tâm thức nhưng không thấy đâu, hoặc có quá nhiều vật cản giữa họ, hoặc bùa chú xung quanh đống đá vụn cản trở tầm tư tưởng của nó, hoặc – một khả năng nó ghét cay đắng – cô đã chết. Nó biết cô không ở trong căn phòng khi nó sụp xuống, nhưng nó ngờ rằng cố có thể tìm được đường ra, giờ đây căn phòng đã bị chặn.

Rồi họ lao ra khỏi tòa thành, Eragon thấy vụ nổ tàn phá Urû’baen nghiêm trọng nhường nào. Nó hất tung trần vô số ngôi nhà chung quanh, đốt cháy những thanh xà bên dưới. Hàng trăm ngọn lửa rải khắp thành phố. Những luồn khói cuộn lại cho đến khi gặp nhau bề dưới phiến đá. Bên rìa Đông nam thành phố, khói đen che kín ánh nắng, luồn qua bờ đá nhô ra, phát sáng đỏ-cam như những viên đá lửa.

Dân chúng Urû’baen chạy nháo nhào khỏi nhà, đổ ra những con phố về phía cái hố bên tường thành. Binh lính và người hầu từ tòa thành nhanh chóng nhập vào đoàn người, để khoảng trống cho Thorn và Saphira tự do di chuyển trước khoảng sân rộng. Eragon không để ý lắm một khi chúng không gây loạn.

Saphira dừng lại giữa sân, Eragon hạ Elva và hai đứa trẻ chưa biết tiên xuống. “Các em có biết cha mẹ đâu không?” nó quỳ xuống hỏi cặp an hem.

Chúng gật đầu, đứa trẻ chỉ về phía một ngôi nhà lớn phía bên trái sân đình.

“Các em sống ở đó à?”

Bé trai gật đầu.

“Thế thì đi đi,” Eragon đẩy nhẹ chúng. Không cần giục thêm, hai an hem chạy vụt về phía ngôi nhà. Cánh cửa mở tung, một người đàn ông hios giắt kiếm trên hông bước ra, ôm lấy cả hai đứa trẻ trong vòng tay. Ông liếc nhìn Eragon, rồi rảo bước quay vào với hai đứa trẻ.

Dễ nhỉ, Eragon bảo Saphira.

Galbatorix chắc đã sai quân tìm những đứa bé ở gần nhất, cô nàng đáp. Chúng ta không cho lão nhiều thời gian hơn.

Anh cũng đoán thế.

Thorn ngồi cách Saphira mấy bộ, Nasuada đỡ Murtagh xuống. Rồi hắn ngồi sụp xuộng cạnh bụng Thurn. Eragon nghe thấy hắn tụng phép chữa thương.

Eragon cũng không để ý tới vết thương của nó, bước lại chữa cho Saphira bởi cô nàng bị nặng hơn nó nhiều. Vết rạch trên chân trước rộng ngang bàn tay nó, máu chảy đẫm bàn chân cô nàng.

Răng hay vuốt? Nó kiểm tra vết thước.

Vuốt, cô nàng đáp.

Nó sử dụng sức mạnh của mình lẫn Glaedr đắp vết rạch lại. Xong việc, nó quay lại chưa cho mình, bắt đầu từ vết bỏng rát bên sườn, nơi bị Murtagh đâm.

Nó vừa phù phép vừa trồng chừng Murtagh – đang chữa lành vết thương trên bụng, cái cánh gãy của Thorn và những vết khác. Nasuada ở cạnh hắn suốt, tay đặt lên vai Murtagh. Eragon thấy làm thế nào đó hắn đã lấy lại thanh Zar’roc trong phòng ngai vàng.

Eragon quay qua Elva đang đứng một bên. Cô bé có vẻ đau, nhưng nó không thấy máu. “Em đau à?” Nó hỏi.

Lông mày cô bé nhăn tít, lắc đầu. “Không, nhưng họ đang đau lắm.” Elva chỉ về phía đoàn người chạy khỏi tòa thành.

“Mmh.” Eragon lại liếc Murtagh. Hắn và Nasuada đang đứng nói chuyện.

Nasuada cau mày.

Rồi Murtagh vươn tay nắm cổ áo giật sang, xé toạc mảnh vải.

Eragon tuốt thanh Brisingr ra nửa đường thì nó trông thấy một những vết soi hằn sâu ngoằn ngoèo dưới xương đòn cô. Cảnh tượng ấy giáng cho nó một cú: gợi lại những vết thương trên lưng Arya khi nó và Murtagh cứu cô khỏi nhà tù Gil’ead.

Nasuada gật đầu, cúi gằm.

Rồi Murtagh bắt đầu nói, Eragon chắc chắn lần này bằng cổ ngữ. Anh nhẹ nhàng đặt tay lên nhiều chỗ trên cơ thể cô – hơi rụt rè nữa – rồi nét mặt cô giãn ra minh chứng rõ ràng cho Eragon thấu hiểu đau đớn cô phải chịu.

Eragon quan sát thêm một phút, rồi cảm xúc đột nhiên trào lên trong nó. Nó quỳ ngồi lên móng phải Saphira, đầu gối mềm đi. Cô nàng cúi đầu cọ lên vai nó, nó cũng tựa đầu vào cô nàng.

Chúng ta đã làm được rồi, cô nàng lắng giọng.

Chúng ta làm được rồi, nó không tin nổi những từ ngữ ấy.

Nó có thể cảm thấy Saphira suy nghĩ về cái chết của Shruikan: dù nó có nguy hiểm nhường nào, cô nàng vẫn đau buồn vì sự ra đi của một trong những thành viên cuối cùng của chủng tộc.

Eragon tóm lấy vảy cô nàng. Nó thấy nhẹ bẫng, gần như chóng mặt, như thể nó đang bồng bềnh trên mặt đất. Giờ đây thế nào …?

Giờ đây chúng ta sẽ tái thiết, cảm xúc của ông lẫn lộn giữa thỏa mãn, đau thương và kiệt queek. Cậu đãlàm tròn bổn phận của mình rồi Eragon à. Không ai khác có thể tấn công Galbatorix như cậu đâu.

“Tôi chỉ muốn lão thấu hiểu,” nó khẽ lẩm bẩm. Nhưng Glaedr không đáp lại.

Cuối cùng, kẻ phá-lời-Thề đã chết, Umaroth vui mừng.

Sự thực Galbatorix không còn nữa dường như không thể nào xảy ra được. Eragon suy nghẫm lại về sự thực ấy, dường như giải phóng điều gì đó trong tâm thức, rồi nó nhớ lại – như thể chưa bao giờ quên – từng thứ đã trải qua trong Hầm mộ của Linh Hồn.

Nó háo hức. Saphira…

Em biết, cô nàng cũng phấn khích không kém. Những quả trứng!

Eragon mỉm cười. Những quả trứng! Trứng rồng! Giống nòi của chúng sẽ không tuyệt chủng nữa. Chúng sẽ tồn tại, sẽ sinh sôi, trở lại ngày tháng huy hoàng như trước sự sụp đổ của những Kỵ Sỹ.

Rồi một tia ngờ vực khủng khiếp thoáng qua. Người không khiến chúng ta quên cái gì khác chứ? Nó hỏi Umaroth.

Nếu quả thế, làm sao chúng ta biết được? con rồng trắng đáp lời.

“Nhìn kìa!” Elva chỉ tay la lên.

Eragon quay lại, thấy Arya đi ra từ giữa lòng tòa thành. Đi cùng cô là Blödhgarm và các pháp sư, thâm tím và trầy xước, nhưng vẫn sống. Arya mang trên tay một hòm gỗ nhỏ khóa vàng. Một hàng dài hộp kim loại -mỗi cái lớn ngang thùng xe ngựa – đang trôi nổi là là trên mặt đất phía sau các tiên nhân.

Eragon phấn chấn lao đến phía họ. “Các vị vẫn sống!” Nó ôm chầm lấy Blödhgarm, khiến ông kinh ngạc.

Blödhgarm nhìn nó trong giây lát bằng đôi mắt vàng, rồi ông mỉm cười giơ móng vuốt lên.

“Chúng tôi còn sống, Khắc tinh của Tà thần à.”

“Và đây là những … Eldunarí?” Eragon nhẹ giọng hỏi.

Arya gật đầu. “Họ ở trong phòng chứa của Galbatorix. Chúng ta sẽ phải quay lại khi nào đó, có nhiều kì quan còn ẩn giấu.

“Họ thế nào? Ý tôi là các Eldunarí.”

“Lộn xộn lắm. Chắc phải mất hàng năm họ mới hồi phục, ấy là nếu có thể.”

“Và đây là…” Eragon hướng về phía cái hòm cô mang.

Arya liếc qua, chắc chắn không ai đó ở quá gần có thể thấy; rồi cô nhấc khẽ nắp hòm bằng ngón tay. Bên trong, trên lớp nhung, Eragon thấy một quả trứng rồng xinh đẹp, màu lục xen lẫn những nét trắng.

Khuôn mặt rạng ngời của Arya khiến trái tim Eragon nhảy lên. Nó cười toe toét ra hiệu với các tiên nhân. Khi họ tụ tập xung quanh, nó thầm thì bằng cổ ngữ, nói về những quả trứng ở Vroengrad.

Họ không cười, không la lên, nhưng ánh mắt lấp lánh, cả nhóm người run người khấn khích. Vẫn cười toe toét, Eragon nhún nhảy vui mừng vì phản ứng của họ.

Rồi Saphira nói. Eragon!

Cùng lúc Arya nhăn mặt nói, “Thorn với Murtagh đâu rồi?”

Eragon nhìn sang, thấy Nasuada đang đứng một mình trên sân đình. Bên cạnh cô là một cặp túi yên Eragon không nhớ từng thấy Thorn mang. Gió thổi qua sân, rồi nó nghe thấy tiếng vỗ cánh, nhưng không thấy Murtagh và Thorn đâu.

Eragon phóng tâm trí về phía nó nghĩ có họ. Nó cảm thấy họ ngay, vì họ không ẩn tâm trí đi, nhưng họ từ chối nói chuyện với nó.

“Khỉ thật,” Eragon lẩm bẩm, chạy về phía Nasuada. Má cô vương lệ, gương mặt suýt mất vẻ điềm tĩnh.

“Họ đi đâu rồi?!”

“Đi xa.” Cằm cô run run. Rồi cô hít sâu, thở ra, đứng thẳng lên.

Eragon lại chửi thầm, nghiêng mình mở túi yên ra. Nó tìm thấy bên trong một vài Eldunarí nhỏ đóng trong những ngăn riêng. “Arya! Blödhgarm!” nó hô lên, chỉ vào hai cái túi. Hai tiên nhân gật đầu.

Eragon chạy thẳng về phía Saphira. Nó không cần phải giải thích, cô nàng hiểu cả. Dang rộng cánh cho nó trèo lên yên, rồi lập tức bay khỏi sân đình ngay khi nó yên vị.

Tiếng hoan hô nổi lên khắp toàn quân Varden khi nhìn thấy cô nàng.

Saphira hối hả vỗ cánh lần theo mùi Thorn trên không trung. Cô nàng bay về phía Nam, xa khỏi bóng của phiến đá, rồi ngặt theo một hòn đá lớn về phía Bắc theo dòng Ramr.

Thêm vài dặm, dấu mùi chạy thẳng và hướng lên cao. Khi dòng sông lớn hình thân cây ở phía dưới, dấu mùi bắt đầu hướng xuống.

Eragon quan sát mặt đất trước mắt, thấy một ánh đỏ ở ngọn đồi nhỏ phía bên kia dòng sông. Bên kia, nó nói, nhưng Saphira đã nhận ra Thorn từ trước.

Cô nàng bay xoắn ốc xuống, nhẹ nhàng hạ cánh trên đỉnh đồi với lợi thế độ cao. Không khí mát rượi và ẩm ướt, mang theo mùi mùn rêu, bùn và nhựa cây. Giữa ngọn đồi và dòng sông là một biển cây tầm ma. Chúng mọc dày tới mức cách duy nhất để đi qua là phải cắt sạch thành đường đi. Những phiến lá đen hình răng cưa rối ào nhau vang tiếng rì rào hòa lẫn tiếng dòng sông chảy xiết.

Murtagh đang đứng cạnh Thorn bên bờ biển tầm ma, điều chỉnh đai yên rồng.

Eragon gỡ chốt thanh Brisingr, thận trọng tiến lại.

Murtagh hỏi, không quay lưng lại, “Cậu đến để chặn bọn ta lại à?”

“Còn phụ thuộc. Các anh đi đâu?”

“Anh không biết. Có lẽ phía Bắc, … đâu đó xa khỏi con người.”

“Anh có thể ở lại.”

Murtagh cười khổ. “Cậu biết rõ mà. Thế chỉ tổ gây phiền phức cho Nasuada thôi. Thêm nữa, đám người lùn không chấp nhận đâu. Anh đã giết Hrothgar.” Anh so vai với Eragon. “Galbatorix hay gọi anh là Sát thủ của Nhà Vua. Chú giờ cũng là Sát thủ của Nhà Vua rồi.”

“Có vẻ di truyền rồi.”

“Cậu phải để ý tới Roran đấy … rồi Arya là kẻ giết rồng. Sẽ không dễ dàng với cô ta đâu – một tiên nhân giết rồng. Cậu nên nói chuyện, đảm bảo cô ta vẫn ổn.”

Eragon king nghạc vì sự sâu sắc của Murtagh. “Em sẽ làm thế.”

“Rồi,” Murtagh buộc nút cài cuối cùng trên đai. Rồi anh quay ra nhìn Eragon, Eragon thấy anh đang tuốt sắn thanh Zar’roc, sẵn sàng sử dụng. “Nên lần nữa: cậu đến ngặn bọn anh phải không?”

“Không.”

Murtagh cười nhẹ, đút thanh Zar’roc vào bao. “Tốt. Anh hơi ghét lại phải đánh nhau với chú.”

“Làm sao anh thoát khỏi Galbatorix được? Đó là tên thật của anh, phải không?”

Murtagh gật đầu. “Như anh nói, anh không … bọn anh không” – anh chạm nhẹ Thorn – “như trước nữa. Phải mất một thời gian mới nhận ra được.”

“Còn Nasuada.”

Murtagh nhăn mày, quay đi nhìn về phía biển tầm ma. Eragon bước tới bên cạnh, “Cậu có nhớ lần cuối chúng ta ở con sông này không?”

“Khó quên đấy. Em vẫn nghe thấy tiếng kêu của lũ ngựa.”

“Cậu, Saphira, Arya, và ta, cùng nhau, không gì có thể ngăn cản …”

Eragon hồi tưởng lại, cảm nhận Saphira và Thorn đang nói chuyện. Nó biết Saphira sẽ nói lại với nó sau.

“Anh sẽ làm gì?” nó hỏi Murtagh.

“Ngồi nghĩ thôi. Có lẽ anh sẽ xây một lâu đài. Anh có đủ thời gian.”

“Anh không phải đi đâu. Em biết sẽ rất … khó, nhưng anh còn có gia đình ở đây: em và cả Roản nữa. Anh ấy cũng là anh họ của anh như em vậy, mà anh thì còn chưa bao giờ gặp anh ấy… Anh cũng thuộc về Carvahall và Thung lũng Palancar nhiều như Urû’baen vậy, có khi còn hơn ấy.”

Murtag lắc đầu, tiếp tục nhìn chăm chú lên những cây tầm mà. “Không được đâu. Thorn và anh cần ở một mình; bọn anh cần thời gian chữa lành. Nếu ở lại, bọn anh sẽ quá bận rộn để nghĩ về bản thân.”

“Có người bên cạnh, rồi luôn tay luôn chân thường là liều thuốc tuyệt nhất cho tâm hồn bị tổn thương mà.”

“Không phải những gì Galbatorix đã gây ra với bọn anh… Hơn nữa, sẽ rất đau đớn khi ở bên Nasuada lúc này, cho cả anh và cô ấy. Không được, bọn anh phải đi.”

“Anh nghĩ sẽ đi bao lâu?”

“Cho đến khi thế giới này không còn hận thù, bọn anh không còn muốn giết chóc nữa.”

Eragon nín lặng. Họ sánh vai nhìn về phia dòng sông phía dưới hàng liễu thấp. Tiếng gió Tây lùa qua hàng tầm ma càng lúc càng lớn.

Rồi Eragon nói, “Khi các anh không còn muốn ở một mình nữa, cứ đến tìm bọn em. Các anh sẽ luôn được chào đón trong ngôi nhà của bọn em, dù nó có là gì đi nữa.”

“Chắc rồi. Anh hứa đấy.” Eragon ngạc nhiên nhin anh mắt Murtagh sáng lên. Nhưng chỉ giây lát sau nó biến mất. “Cậu biết không,” Murtagh nói, “anh không bao giờ cho rằng cậu có thể làm điều đó … nhưng anh vui vì cậu làm được.”

“Em đã may mắn. Mà cũng sẽ không thể nếu không có anh giúp.”

“Kể cả thế … Cậu có thấy những Eldunarí trong mấy cái túi không?”

Eragon gật nhẹ.

“Tốt lắm.”

Chúng ta có nên nói cho họ không? Eragon hỏi Saphira, hy vọng cô nàng đồng ý.

Saphira nghĩ một hồi. Được, nhưng đừng nói ở đâu. Anh cứ nói với anh ta đi, em sẽ bảo Thorn.

Theo ý em vậy. Eragon nói với Murtagh. “Có một chuyện anh nên biết.”

Murtagh liếc qua nó.

“Quả trứng Galbatorix giữ - nó không phải quả duy nhất ở Alagaësia. Có nhiều hơn nữa, giấu ở cùng nơi bọn em tìm thấy các Eldunarí cùng đi theo.”

Murtagh quay sang, mặt lộ vẻ không tin. Cùng lúc, Thorn uốn cổ, phát ra một tiếng gầm vui sướng làm lũ nhạn bên những nhành cây bên cạnh hoảng sợ.

“Có bao nhiêu?”

“Hàng trăm.”

Trong khoảnh khắc, Murtagh không thốt nên lời. Rồi: “Cậu sẽ làm gì với chúng?”

“Em à? Em nghĩ Saphira và các Eldunarí sẽ có ý kiến trong chuyện này, nhưng có lẽ sẽ tìm nơi nào đó an toàn chờ những quả trứng nở, rồi bắt đầu xây dựng lại đoàn Kỵ Sỹ.”

“Cậu và Saphira sẽ dạy chúng chứ?”

Eragon vươn vai. “Em chắc các thần tiên sẽ giúp. Anh nữa, nếu anh nhập bọn em.”

Murtagh nghiêng đầu thở dài. “Những con rồng sẽ trở lại, và các Kỵ Sĩ nữa.” Anh cười nhẹ. “Thế giới này sẽ thay đổi.”

“Nó đã thay đổi rồi.”

“Uhm. Vậy cậu và Saphira sẽ là lãnh đạo mới của đoàn Kỵ Sỹ, trong khi anh và Thorn sống nơi thâm sơn cùng cốc.” Eragon cố nói gì đó khích lệ Murtagh, nhưng anh nhìn nó. “Không, cứ như thế là hơn. Cậu và Saphira sẽ dạy tốt hơn anh nhiều.”

“Em không chắc đâu.”

“Mmh… Hứa với anh một chuyện.”

“Gì vậy?”

“Khi cậu dạy chúng – hãy dạy chúng đừng sợ hãi. Một ít thì cũng tốt, nhưng khi sợ hãi thường trực, nó sẽ xâu xé bản ngã của cậu, khiến cậu khó có thể làm những việc cậu biết là đúng đắn.”

“Em sẽ cố.”

Rồi Eragon thấy Saphira và Thorn không nói gì nữa. Con rồng đỏ đi vòng quanh cô nàng đến khi cúi xuống nhìn Eragon. Thorn nói giọng ấm áp nghe như một điệu nhạc, Cảm ơn vì đã không giết Kỵ Sỹ của ta, Eragon-Em-trai-Murtagh.

“Ừ, cảm ơn,” Murtagh nói khô không khốc.

“Em mừng vì không phải làm thế,” Eragon nhìn con mắt đỏ rực lấp lảnh của Thorn.

Con rồng khịt mũi, cúi xuống chạm nhẹ đầu Eragon, vuốt ve vảy trên mũ nó. Cầu cho nắng và gió sẽ phù hộ cậu.

“Và của các vị nữa.”

Cảm giác giận giữ, đau thương, mâu thuẫn tràn qua Eragon khi tâm thức Glaedr phủ lấy nó, Murtagh và Thorn có vẻ căng thẳng, chuẩn bị một cuộc đấu. Eragon quên khuấy mất Glaedr cùng các Eldunarí đang ẩn túi không gian vô hình phía sau nó – đã ở đây và nghe cuộc nói chuyện.

Ta có phải cảm ơn vì điều tương tự không, từng lời Glaedr cay đắng như vỏ sồi non. Cậu giết thân thể ta, và cậu giết Kỵ Sỹ của ta. Câu nói thẳng thừng, đơn giản nhưng bởi vậy càng đáng sợ hơn.

Murtagh nói gì đó bằng ý nghĩ, nhưng Eragon không biết đó là gì, vì nó trực tiếp hướng tới Glaedr, và Eragon thì chỉ có thể nghe thấy ý nghĩ của Glaedr mà thôi.

Không, ta không thể, con rồng vàng nói. Tuy nhiên, ta hiểu Galbatorix đã khiến cậu tới đó, là hắn đã vung tay gươm của cậu, Murtagh… ta không thể tha thứ, nhưng Galbatorix đã chết, và lòng báo thù của ta cũng chết theo. Con đường của các cậu đã luôn khó khăn từ khi sinh ra. Nhưng hôm nay các cậu đã cho thấy những bất hạnh không thể đánh gục mình. Các cậu đã chống lại Galbatorix khi điều đó chỉ mang lại đau đớn, và nhờ đó cho phép Eragon giết hắn. Hôm nay cậu và Thorn đã chứng tỏ bản thân xứng đáng với Shur’tugal, dù các cậu chưa bao giờ có được sự hướng dẫn đúng đắn. ĐIều đó thật … đáng ngưỡng mộ.

Murtagh cúi nhẹ đầu, Thorn nói, Xin cảm ơn người, Ebrithil, Eragon nghe được. Lời kính cẩn của Thorn ebrithil có vẻ khiến Murtagh giật mình, quay lại nhìn con rồng há miệng như thể định nói gì đó.

Rồi Umaroth cất tiếng. Chúng ta biết nhiều khó khăn các cậu phải đối mặt, Thorn và Murtagh à, vì chúng ta đã quan sát các cậu từ xa, kể cả khi đang dõi theo Eragon và Saphira. Có nhiều thứ chúng ta sẽ dạy các cậu khi đến lúc sẵn sàng, nhưng giờ đây, ta sẽ nói điều này: trong cuộc lãng du, tránh xa nấm mồ Anghelm, vị vua duy nhất của loài Urgal,Kulkarvek yên nghỉ. Tránh xa tàn tích của Vroengard và củaEl-harím. Cẩn thận những nơi sâu thẳm, và đừng đặt chân lên những nền đất đen giòn vỡ, nơi không khí đượm mùi lưu huỳnh, vì đó là nơi ma quỷ ẩn nấp. Cứ làm thế, trừ khi thật bất hạnh, các cậu sẽ không gặp phải nguy hiểm vượt quá khả năng của mình.

Murtagh và Thorn cảm ơn Umaroth, rồi Murtagh liếc nhìn về phía Urû’baen, “Bọn anh nên đi thôi.” Anh lại nhìn Eragon. “Giờ cậu có nhớ tên của cổ ngữ không, hay phép thuật của Galbatorix vẫn bao phủ tâm trí cậu?”

“Em có thể gần như nhớ được, nhưng …” Eragon lắc đầu chán nản.

Rồi Murtagh nói tên của các tên hai lần: đầu tiên để gạt bỏ bùa chú lãng quên Galbatorix đặt lên Eragon, rồi một lần nữa để Eragon và Saphir có thể nhớ cái tên. “Anh sẽ không nói cho ai khác nữa,” anh nói,” Nếu mỗi pháp sư đều biết tên cổ ngữ, ngôn ngữ này sẽ còn tệ hơn cả khi nó vô hại.”

Eragon gật đầu đồng ý.

Rồi Murtagh nắm tay Eragon, nó cũng nắm chặt cánh tay anh. Họ đứng nguyên trong giây lát, nhìn nhau chăm chú.

“Bảo trọng,” Eragon nói.

“Cậu nữa… Em trai.”

Eragon chần chừ, rồi gật đầu. “Anh trai.”

Murtagh kiểm tra đai trên yên Thorn rồi leo lên mình con rồng. Khi Thorn dang cánh chuẩn bị nhấc mình, Murtagh kêu lớn, “Nhớ đảm bảo Nasuada được bảo vệ an toàn. Galbatorix có rất nhiều tay sai, nhiều hơn lão nói với anh nhiều, và không phải tất cả bọn chúng đều bị rằng buộc với lão chỉ bằng phép thuật đâu. Chúng sẽ tìm cách trả thù cho chủ nhân đấy. Phải luôn luôn đề phòng. Có những kẻ còn nguy hiểm hơn Ra’zac nhiều!”

Rồi Murtagh giơ tay tạm biệt. Eragon cũng vậy, rồi Thorn nhảy ba bước khỏi biển tầm ma rồi phi lên trời, để lại dấu chân bự chảng trên nền đất mềm.

Con rồng đỏ lấp lánh lượn một vòng, hai vong, ba vòng, rồi quay mình về phương bắc, vỗ cánh chầm chậm, vững chãi.

Eragon đi về phía Saphira ở dưới chân đồi, cùng quan sát Thorn và Murtagh nhỏ dần như ngôi sao mờ trôi về đường chân trời.

Cùng cảm thấy nỗi buồn dâng lên trong lòng, Eragon leo lên mình Saphira, khởi hành từ ngọn đồi nhỏ về Urû’baen.

Người kế thừa Đế chế

Eragon chậm rãi leo lên từng bậc thang mòn vẹt trong tòa tháp màu lục. Trời đã về chiều, từ khung cửa sổ hình vòm, nó có thể thấy những dãy nhà đổ bóng xuống mặt trong thành Urû’baen, cũng như xa xa cánh đồng mịt mù, và sau đó bóng đen ngọn đồi nhô cao cuối đường chân trời.

Tòa tháp rất cao khiến Eragon mệt mỏi. Nó ước gì có thể để Saphira chở lên đỉnh. Sau một ngày dài nó chẳng thiết tha gì hơn là được ngồi bên Saphira uống một cốc trà nóng ngắm hoàng hôn. Nhưng như thường lệ luôn có việc phải làm.

Nó mới chỉ thấy Saphira hai lần từ khi quay lại thành phố sau cuộc chia tay với Murtagh và Thorn. Cô nàng dành phần lớn buổi chiều đó bắt hoặc giết đám binh lính tàn dư, rồi gom về doanh trại những người bỏ nhà cửa chạy khắp vùng quê chờ xem phiến đá có đổ xuống hay không.

May mà không, các tiên nhân giải thích với Eragon rằng bởi những thần chú được ếm vào trong đá trong hàng bao năm trời – khi Urû’baen còn có tên là Ilirea – rồi bởi mái nhô gần như thẳng đứng khiến nó có thể chịu chấn động từ vụ nổ mà không suy suyển gì đáng kể.

Tự ngọn đồi đã chịu đựng ảnh hưởng của vụ nổ, dù một lượng lớn đã thoát ra ngoài qua cổng tòa thành, hầu như tất cả mọi người trong thành Urû’baen đều phải được chữa trị chằng phép thuật, hoặc họ sẽ sớm đổ bệnh chết. Đến giờ rất nhiều người đã bị ốm. Cùng các tiên nhân, Eragon cật lực cứu được càng nhiều người càng tốt; năng lượng từ các Eldunarí giúp nó cứu phần lớn quân Varden và rất nhiều người dân trong thành phố.

Trong thời gian này, các tiên nhân và người lùn lập thành hàng rào chắn trước tòa thành để ngăn chặn dịch bệnh rò rỉ thêm. Trước đó, họ tìm kiếm những người sống sót: binh lính, người hầu, và hàng trăm tù nhân nằm trong hầm ngục bên dưới. Một kho báu khổng lồ nằm trong tòa thành, bao gồm thư viện đồ sộ của Galbatorix, được thu lại nhanh chóng sau đó. Đó không phải là một công việc dễ dàng gì. Tường của nhiều căn phòng đã sập hoàn toàn, vô số nhưng căn phòng khác tuy vẫn đứng được, nhưng hư hại đến mức không ai dám lại gần. Thêm nữa, cần pháp thuật để chặn những chất độc đã thấm vào trong không khí, đá và những những vật thể khắp các hang hốc tòa thành. Rồi thêm những bùa chú cần để gột sạch những thứ họ mang ra ngoài.

Một khi tòa thành đã bị phong tỏa, các tiên nhân sẽ thanh tẩy thành phố và những vùng phụ cận khỏi tàn dư nguy hại vẫn còn đọng lại, để người ta có thể tiếp tục an toàn sống ở những nơi đó. Eragon biết nó phải giúp làm những chuyện đó nữa.

Trước khi chữa trị và đặt lưới phòng ngự bảo vệ an toàn mọi người xunh quanh Urû’baen, nó mất cả tiếng sử dụng tên thật của cổ ngữ để lột bỏ vô số bùa chú Galbatorix trói buộc trên những ngôi nhà và người dân trong thành phố. Một số bùa ếm có vẻ vô hại, có khi còn có ích – như một bùa có vẻ chỉ để giữ bản lề cánh cửa khỏi long, rút năng lượng từ một tinh thể cỡ quả trứng đặt dưới cửa – nhưng Eragon không dám bỏ sót bất kì phép thuật nào của nhà vua, không kể chúng vô hại thế nào đi nữa. Đặc biệt là những bùa ếm lên những kẽ dưới quyền Galbatorix. Trong số họ, phổ biến nhất là lời thề trung thành, nhưng cũng vài người có lưới phòng hộ, bùa ếm trao sức mạnh phi thường, và còn những thần chú bí ẩn khác nữa.

Khi Eragon giải phóng các quý tộc và thường dân khỏi ràng buộc, thi thoảng nó cảm thấy thống khổ, như thể đang tước khỏi họ thứ gì đó quý giá.

Khủng hoảng xảy ra khi nó gỡ bỏ không chế Galbatorix ếm lên các Eldunarí bị giam cầm. Lũ rồng ngay lập tức bị kích động, tấn công trí óc của mọi người trong thành phố không phân biệt bạn thù. Lúc đó không khí khiếp đảm bao lan tỏa khắp Urû’baen, khiến tất cả mọi người, kể cả các tiên nhân cũng phải thu mình, tái nhợt vì sợ hãi.

Rồi Blödhgarm và mười pháp sư lập thành một đoàn bảo vộ đưa những hộp kim loại chứa Eldunarí lên một đôi ngựa mang xa khỏi Urû’baen nơi ý thức của lũ rồng không còn gây hiệu ứng ghê người nữa. Glaedr cùng vài Eldunarí từ Vroengard khăng khăng được hộ tống những con rồng điên. Đó là lần thứ hai Eragon thấy Saphira từ khi trở về, khi nó gỡ bỏ bùa chú dấu Umaroth và những con rồng khác, để năm Eldunarí tách ra đưa cho Blödhgarm bảo quản. Glaedr cùng năm con rồng là những luồn tâm trí duy nhất có thể xoa dịu, giao tiếp với lúc rồng bị Galbatorix hành hạ quá lâu. Eragon không chắc lắm, nhưng nó hy vọng họ nói phải.

Khi các tiên nhân và Eldunarí lên đường rời khỏi thành phố, Arya liên lạc với nó, phát đi một câu hỏi từ bên ngoài cánh cổng đổ nát, nơi cô đang họp bàn với những vị tướng trong quân đội tiên nhân. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi tiếp xúc, nó cảm nhận được sự u buồn vì sự hy sinh của Islanzadí, cũng như niềm hối hận và giận dữ cuộn chảy bên dưới nỗi đau thương, nó thấy cảm xúc đe dọa lấn át lí trí, cùng cuộc đấu tranh chật vật kiềm chế nó trong cô. Nó cố an ủi, nhưng có vẻ không thấm tháp gì so với mất mát cô phải trải qua.

Từ khi Murtagh ra đi đến giờ, cảm giác trống rỗng lúc nào cũng bao lấy Eragon. Nó đáng ra phải cảm thấy vui mừng vì đã giết được Galbatorix, và dù nó cũng mừng – và nó đã vui mừng – khi nhà vua không còn nữa, giờ đây nó không biết nó phải làm gì. Nó đã đạt được mục đích. Nó đã leo lên đỉnh núi dường như không thể leo được. Giờ nó không có mục đích nào dẫn đạo, thúc đẩy nữa, nó cảm thấy thiếu thốn. Nó và Saphira sẽ làm gì trong đời bây giờ? Điều gì còn có thể có ý nghĩa? Nó biết theo thời gian, nó và Saphira sẽ tạo dựng nên thế hệ Kỵ Sỹ và rồng tiếp theo, nhưng viễn cảnh ấy quá xa vời để có thể là sự thực.

Nó cảm thấy nao nao ức chế khi quay lại những câu hỏi ấy. Nó cố hướng suy nghĩ đi, nhưng chúng cứ chờn vờn quanh tâm trí, rồi cảm giác trống rống lại dai dẳng.

Có lẽ Murtagh và Thorn đã đúng.

Cầu thang tòa tháp dường như dài vô tận. Nó bước lên, vòng rồi vòng, cho đến khi người dưới phố chỉ nhỏ như kiến, bắp chân và mắt cá của nó bỏng rát vì lặp đi lặp lại một chuyển động. Nó thấy một tổ chim nông choẹt xây dưới cánh cửa rổ hẹp, bên dưới, nó thấy vài bộ xương nhỏ xíu: những con chim đại bàng hoặc ưng non rời tổ.

Cuối cùng nó lên tới đỉnh cầu thang xoắn – một cánh cửa vòm lớn xám xịt cũ kĩ – nó khựng lại thu vén suy nghĩ và cố thở chậm. Rồi bước vài bậc thang cuối cùng, nhấc then cửa lên, đẩy tới bước vào một căn phòng rộng trên đỉnh tháp canh của tiên nhân.

Có sáu người đang chờ đợi nó, cùng Saphira: Arya và vị tiên nhân tóc bạc tướng Däthedr, vua Orrin, Nasuada, vua Orik, và vua mèo ma, Grimrr Nửa vuốt. Họ đang đứng – trừ Orrin đang ngồi – thành một vòng tròn rộng rãi, Saphira nằm ngược phía cầu thang, trước cánh cửa sổ hướng về phía Nam cho phép cô nàng hạ cánh trong tòa tháp. Ánh sáng từ mặt trời đang lặn chiếu ngang qua căn phòng, soi rọi vết chạm trổ của tiên nhân trên những bức tường và những viên đá màu rối rắm trên sàn nhà nứt nẻ.

Trừ Saphira và Grimrr, ai cũng có vẻ tỏ ra căng thẳng và không thoải mái. Từ những vệt hằn sâu trên đôi mắt và chiếc cổ ngăm ngăm của Arya, Eragon có thể nhận ra nỗi đau buồn lẫn rối ren trong lòng cô. Nó ước có thể làm gì đó để xoa dịu nỗi đau ấy. Orrin ngồi trên một chiếc ghế sâu lòng, tay phải cầm cốc rượu tay trái đặt lên bộ ngực băng bó. Ông di chuyển cực kì cẩn thận, như thể sợ tự làm mình đau, nhưng đôi mắt sáng người và trong vắt, nên Eragon đoán vết thương chứ không phải rượu làm ông thận trọng như vậy. Däthedr đang vỗ ngón tay vào chuôi kiếm, trong khi Ork đứng đặt một tay lên cán cây Volund – cây búa dựng thẳng trướng người ông – nhìn chăm chú vào bộ râu. Nasuada khoanh tay như thể bị lạnh. Bên phải cô, Grimrrr Nửa vuốt nhìn trân trối lên trời, có vẻ lơ đãng tất cả mọi người.

Khi Eragon mở cửa, tất cả đều nhìn nó, Orik cười tươi. “Eragon!” ông la lên, rồi vác cây Volund lên vai, bước tới vòng tay ôm lấy nó. “Anh biết em có thể giết lão mà! Làm tốt lắm! Đêm nay ta sẽ ăn mừng, nhá! Để những ngọn lửa cháy rực, giọng nói chúng ta vang lên tới khi thiên đường cũng phải vọng lại tiếng vang của bữa tiệc đêm nay.”

Eragon mỉm cười gật đàu, Orik vỗ vỗ cánh tay nó, rồi trở về vị trí còn Eragon đi xuyên căn phòng tới đứng cạnh Saphira.

Anh nhỏ, cô nàng quẹt miệng vào vai nó.

Nó bước tới chạm vào bên má đầy vảy của cô nàng, tận hưởng cảm giác dễ chịu khi được gần Saphira. Rồi nó phóng tâm thức tới những Eldunarí cô nàng mang theo. Cũng như nó, họ đều mệt mỏi vì những việc trong nhgay, nó biết họ muốn quan sát nghe ngóng hơn là tham gia vào cuộc đàm luận sắp bắt đầu.

Các Eldunarí tỏ ý chào mừng nó, Umaroth nói, Eragon, rồi im lặng.

Trong phòng không ai có vẻ sẵn sàng mở lời. Từ thành phố phía dưới, Roran nghe thấy tiếng ngựa hí. Từ phía tòa thành vang lên tiếng khóa, tiếng đục vọng lại. Vua Orrin cựa mình không thoải mái trên ghế, nốc sạch cốc rược. Grimrr cào nhẹ cái tai nhọn, khịt mũi như thể đang kiểm tra không khí.

Cuối cùng, Däthedr phá vỡ im lặng. “Chúng ta có một quyết định cần phải ra,” ông nói.

“Cái đó ai cũng biết rồi, tiên nhân,” Orik ồm ồm.

“Cứ để ông ta nói,” Orrin ra hiệu bằng chiếc cốc nạm ngọc. “Ta muốn nghe suy nghĩ của ông ta xem ông ta muốn chúng ta tiếp tục thế nào.” Khuôn mặt ông nở nụ cười chua chát, hơi chế giễu. Ông nghiêng đầu về phía Däthedr như thể cho phép vị tiên nhân được nói.

Däthedr gật nhẹ đầu đáp trả. Dù có bị xúc phạm hay không, vị tiên nhân cũng không hề phản ứng lối nói của nhà vua. “Không ai che giấu rằng Galbatorix đã chết. Kể cả lúc này, tin tức về chiến lắng của chúng ta vẫn đang lan tỏa khắp các nơi. Đến cuối tuần, phần lớn Alagaësia sẽ biết về cái chết của Galbatorix.”

“Như chuyện phải thế,” Nasuada trầm ngâm. Cô đã thay chiếc áo choàng gã coi tù mặc cho bằng một bộ đồ đỏ đen, lộ rõ hơn sự sụt cân của cô trong những ngày bị bắt, vì bộ đồ trễ qua vai cô và lộ ra bờ eo tóp lại. Nhưng dù trông yếu ớt, có vẻ cô đã lấy lại phần nào sức khỏe. Khi Eragon và Saphira trở lại tòa thành, Nasuada đã gần như suy sụp, kiệt quệ cả về thể chất lẫn tinh thần. Khi Jörmundur trông thấy cô, ông đưa cô về doanh trại và để cô được cách ly đến hết ngày. Eragon đã không thể xin ý kiến cố cho đến khi gặp trong cuộc họp, nên nó không chắc ý kiến của cô về những chuyện họ đang bàn bạc. Nếu cần thiết, nó sẽ trực tiếp liên lạc bằng ý nghĩ, nhưng hy vọng có thể tránh được, nó không muốn xâm phạm sự riêng tư của cô, sau những gì cô đã trải qua.

“Như chuyện phải thế,” giọng Däthedr mạnh mẽ, rõ ràng, vang vọng lên trần nhà hình vòm cao vút. “Tuy nhiên, khi dân chúng biết Galbatorix đã mất, câu hỏi đầu tiên sẽ là ai nắm giữ vị trí của hắn.” Däthedr nhìn quanh. “Chúng ta phải cho họ câu trả lời trước khi bất ổn lan ra. Nữ hoàng của chúng tôi đã mất. Vua Orrin, ông bị thương. Lời đồn có chân đấy, tôi chắc chắn. Giờ quan trọng là phải dập tắt chúng trước khi gây hại. Chậm trễ là thảm họa. Chúng ta không thể để mỗi lãnh chúa với một nhúm quân tin hắn có thể trở thành quân vương trong vương quốc nhỏ xíu của hắn được. Nếu chuyện đó xảy ra, Đế chế sẽ tan rã thành hàng trăm vương quốc nhỏ. Không ai muốn chuyện đó xảy ra hết. Một người kế nhiệm phải được chọn ra – chọn ra và lên ngôi, dù có khó khăn đến chừng nào đi nữa.

Grimrr nhìn thẳng, “Không thể dẫn đầu bầy đàn mà yếu đuối được.”

Vua Orrin cười nhạt. “Thế các người muốn đóng vai trò gì nào, Arya, Tướng Däthedr? Hay ông, vua Orik? Hay ông, vua Nửa Vuốt? Chúng tôi rất vui mừng vì tình bạn và sự giúp đỡ của các người, nhưng đây là chuyện để con người quyết định, không phải các người. Chúng tôi tự cai quản, và sẽ không để người khác chọn vua cho mình.”

Eragon ngạc nhiên thấy Nasuada xiết nhẹ đôi tay đang khoanh lại. “Tôi đồng ý. Đây là chuyện chúng tôi phải tự sắp xếp.” Cô nhìn quanh căn phòng tới Arya và Däthedr. “Dĩ nhiên các bạn hiểu. Các bạn sẽ không cho phép chúng tôi bảo nên chọn ai trở thành vua hoặc nữ hoàng mới.” Cô nhìn Orik. “Và các bộ tộc cũng sẽ không để chúng tôi lựa chọn anh làm người kế tục Hrothgar đâu.”

“Không,” Orik nói. “Họ sẽ không chấp nhận.”

“Quyết định thì, dĩ nhiên, là của các bạn,” Däthedr nói. “Chúng tôi không muốn chỉ dạy các bạn nên hay không nên chuyện gì cả. Tuy nhiên, là đồng minh và bạn bè các bạn, chúng tôi cũng có quyền đưa ra lời khuyên cho vấn đề lớn lao như thế này, đặc biệt khi nó sẽ ảnh hưởng tới tất cả chúng ta chứ? Dù các bạn lựa chọn thế nào thì cũng sẽ tác động sâu rộng, và các bạn phải thật thận trọng thấu hiểu những tác động ấy trước khi đưa ra lựa chọn.”

Eragon hiểu khá rõ. Đó là một lời đe dọa. Däthedr đang nói rằng nếu họ đưa ra quyết định mà các tiên nhân không ưng ý, rồi sẽ có hậu quả không tốt đẹp. Eragon cố kiềm chế không quắc mắt. Lập trường của tiên nhân có thể đoán trước được. Rủi ro khá lớn, sai lầm lúc này có thể để lại hâu quả hàng thập kỉ sau.

“Cái đó … có vẻ hợp lý,” Nasuada liếc nhìn vua Orrin.

Orrin nhìn chằm chằm chiếc cốc trong tay vừa xoay nhẹ nó, làm chất lỏng bên trong sóng sánh. “Chỉ là làm sao các vị cho chúng tôi lời khuyên để chọn lựa vậy, Tướng Däthedr? Nói xem, tôi tò mò lắm.”

Vị tiên nhân khựng lại. Trong ánh chiều tà ấm áp, mái tóc bạn của ông có vẻ phát ra vòng hào quang quanh đầu. “Dù ai đeo vương miện cũng phải có kĩ năng và kinh nhiệm cần thiết để cai trị hiệu quả ngay từ đầu. Không có thời gian để hướng dẫn ai đó cách lãnh đạo, cũng như chúng ta không thể chấp nhận sai lầm từ một kẻ học việc. Thêm nữa, người đó cần phải có đạo đức tốt để tiếp nhận vị trí cao cả, phải là lựa chọn chấp nhận được từ phía các chiến binh của Varden, và trong chừng mực nào đó, người dân của cả Đế chế; và nếu có thể, người đó phải khiến chúng tôi và các đồng minh khác cảm thấy ổn thỏa.”

“Ông giới hạn lựa chọn của chúng tôi khá nhiều với mớ yêu cầu vừa rồi đấy,” vua Orrin nói.

“Chúng chỉ đơn là yêu cầu của một nhà chính trị tốt. Hay ngài có cách nhìn khác?”

“Tôi thấy vài lựa chọn ông bỏ qua hoặc loại trừ, có lẽ ông thấy chúng không được vừa ý lắm. Nhưng không sao. Tiếp tục đi.”

Đôi mắt Däthedr nheo lại, nhưng giọng nói vẫn trôi chảy như không. “Lựa chọn hiển nhiên nhất – và là người mà dân Đế chế chắc chắn trông mong - là người đã thực sự giết Galbatorix. Đó là, Eragon.”

Không khí trong căn phòng trở nên giòn tan như thể làm bởi thủy tinh.

Mọi người đều nhìn về phía Eragon, kể cả Saphira và ma mèo, nó cũng thấy Umarroth và các Eldunarí đang quan sát kĩ lưỡng. Nó nhìn lại những người khác, không sợ hãi lẫn giận dữ bởi cái nhìn chằm chằm của họ. Nó dò xét khuôn mặt Nasuada tìm gợi ý về phản ứng của cô, nhưng không có gì ngoài biểu tình nghiêm túc, nó không nhận ra cô đang nghĩ hay cảm thây gì hết.

Nó khó chịu, nhận ra Däthedr nói chính xác: nó có thể trở thành vua.

Trong khoảng khắc, Eragon cho phép nó tận hưởng khả năng ấy. Sẽ không ai có thể cản nó nắm ngai vàng, không ai trừ Elva hay có lẽ Murtagh – nhưng giờ nó đã biết cách chống lại khả năng của Elva, còn Murtagh cũng không còn ở đây để thách thức nó. Nó có thể cảm thấy từ tâm trí Saphira sẽ không chống lại nó dù chọn lựa thế nào. Và dù không đọc được biểu tình của Nasuada, nó cũng có một cảm giác kì lạ là lần đầu tiên, cô sẵn sàng bước sang một bên để nó nắm quyền lãnh đạo.

Anh muốn điều gì? Sasphira hỏi.

Eragon suy nghĩ về chuyện đó. Anh muốn … có ích. Nhưng quyền lực và chi phối người khác – những thứ Galbatorix tìm kiếm – chúng không hấp dẫn anh lắm. Dù sao, chúng ta cũng có những trách nhiệm khác.

Chuyển sự chú ý về những người đang quan sát mình, nó nói, “Không, như thế không đúng đắn.”

Vua Orrin càu nhàu, uống một hớp rượu, trong khí Aray, Däthedr và Nasuada có vẻ giãn ra, tuy nhiên chỉ một chút nếu có. Cũng như họ, các Eldunarí có vẻ mừng vì quyết định của nó, dù họ không nhận xét gì về lời nó nói.

“Tôi mừng vì cậu nói thế,” Däthedr nói. “Không nghi ngờ gì cậu sẽ là một người cai trị tốt, nhưng tôi không nghĩ sẽ tốt cho giống loài của cậu, cũng như những loài khác trên đất Alagaësia khi một Kỵ Sỹ Rồng khác nắm ngôi vị.”

Rồi Arya ra hiệu cho Däthedr. Vị tiên nhân tóc bạc lui lại một chút, Arya nói, “Roran là một lựa chọn hiển nhiên khác.”

“Roran!” Eragon hoài nghi.

Arya nhìn nó bằng ánh mắt trang trọng – và hơn nữa – sáng rỡ và sắc nhọn, như viên ngọc lục bảo vậy. “Vì chiến công của anh ta mà Varden chiếm được Urû’baen. Anh ta là anh hùng của Aroughs và rất nhiều trận chiến khác. Quân Varden và toàn Đế chế sẽ đi theo anh mà không do dự.”

“Nhưng anh ta thô lỗ, quá tự tin, và không có kinh nghiệm cần thiết,” Orrin nói, rồi liếc sang Eragon nét mặt tội lỗi. “Tuy nhiên anh ta là một chiến binh tuyệt vời.”

Đôi mắt Arya nháy lên, như con cú. “Tôi tin ngài sẽ thấy sự thô lô ấy còn tùy vào người anh ta đối mặt … thưa Đức Vua. Tuy nhiên, ngài nói chính xác; Roran thiếu kinh nghiệm cần thiết. Và còn lại hai lựa chọn: cô, Nasuada; và ngài, vua Orrin.

Vua Orrin cựa mình trên chiến ghế sâu lòng, lông mày nhăn tít lại, trong khi biểu tình Nasuada vẫn không thay đổi.

“Tôi cho rằng,” Orrin nói với Nasuada, “rằng công nương muốn đòi quyền lợi hả.”

Cô nhấc cằm. “Tôi muốn.” Giọng nói cô vẫn bình tĩnh và êm ái.

“Thế thì chúng ta đi vào ngõ cụt rồi, vì tôi cũng thế. Và tôi sẽ không lui bước đâu.” Orrin xoay xoay gốc chiếc cốc giữa hai ngón tay. “Cách duy nhất tôi thấy có thể giải quyết chuyện này mà không đổ máu là công nương rút lại lời đòi hỏi. Nếu vẫn tiếp tục theo đuổi, cuối cùng công nương sẽ phá hủy tất cả chúng gì đã giành được hôm nay, mà công nương sẽ không thể trách bất cứ ai trừ chính mình cho tình cảnh hỗn loạn đó.”

“Ngài sẽ đối đầu với các đồng minh của chính mình chẳng để làm gì ngoài đẩy Nasuada khỏi ngai vàng ư?” Arya hỏi. Vua Orrin có thể không nhận ra, nhưng Eragon thấy thái độ lạnh nhạt khó chịu ấy có nghĩ cô sẵn sàng chém giết ngay trong lúc đó.

“Không,” Orrin đáp. “Ta sẽ đối đầu với Varden để giành ngai vàng. Có khác nhau nhiều đấy.”

“Vì sao?” Nasuada hỏi.

“Vì sao à?” câu hỏi có vẻ làm Orrin cáu tiết. Nhân dân tôi đã che chở, cho ăn và trang bị cho Varden. Họ đã chiến đấu và ngã xuống bên những chiến binh của công nương, và là một đất nước, chúng tôi mạo hiểm hơn xa với Varden. Varden không có quê hương; nếu Galbatorix đánh bại Eragon và lũ rồng, công nương cho thể chạy trốn, ẩn nập. Nhưng chúng tôi không có nơi nào để về ngoài Surda. Galbatorix có thể đè bẹp chúng tôi như kiến cỏ, rồi sẽ tàn sát khắp vùng. Chúng tôi đặt cược mọi thứ - gia đình, nhà cửa, tài sản, tự do của mình – để cuối cùng, sau mọi hy sinh nỗ lực, công nương thực sự tin rằng chính tôi sẽ thỏa mãn trở về đồng ruộng quê nhà mà không có phần thưởng nào ngoài cái vỗ đầu tán thưởng và lời cảm tạ của cô sao? Hừm, lẽ ra ta phải rút sớm mới đúng. Chúng tôi đã tưới đẫm mặt đất từ Cánh Đồng Cháy tới đây bằng máu của mình, giờ là lúc đòi quyền đền bù.” Ông nắm chặt tay. “Giờ chúng tôi chỉ được hưởng rác rưởi thôi sao.”

Những lời của Orrin không làm Nasuada bối rối, trái lại cô có vẻ thấu hiểu, thậm chí đồng cảm.

Rõ là cô ấy sẽ không cho lão chết toi sủa om sòm ấy cái lão muốn, Saphira nói.

Cứ chờ xem đã, Eragon nói. Cô ấy chưa bao giờ làm chúng ta lạc hướng cả.

Arya nói, “tôi hy vọng hai vị có thể đi đến một thỏa thuận hòa giải, và …”

“Dĩ nhiên,” vua Orrin nói. “Ta cũng hy vọng thế đấy.” Ông nhìn chằm chằm Nasuada. “Nhưng ta sợ rằng quyết tâm độc đoán của Nasuada sẽ không cho phép công nương nhận ra rằng cuối cùng cô ấy sẽ phải phục tùng.”

Arya tiếp tục: “- và như Däthedr nói, chúng tôi sẽ không can thiệp vào việc chọn lựa người cai trị của giống nòi các bạn.”

“Ta nhớ rõ,” vua Orrin cười tự mãn.

“Tuy nhiên,” Arya nói, “là đồng minh thề nguyện của Varden, tôi xin nhắc ngài là chúng tôi sẽ coi mọi công kích vào họ cũng như công kích chính mình, và chúng tôi sẽ phản ứng lại.”

Khuôn mặt Orrin nhăn lại, như thể cắn phải một quả chanh.

“Cũng tương tự với người lùn vậy,” giọng Ork như hai viên đá nghiền vào nhau dưới vang lên trong lòng đất.

Grimrr Nửa vuốt nâng bàn tay sứt sẹo lên trước mặt, xem xét từng chiếc móng-như-vuốt trên ba ngón tay còn sót lại. “Chúng tôi không quan tâm ai trở thành vua hay nữ hoàng, cho đến khi vẫn còn có một vị trí bên cạnh ngai vàng như đã hứa hẹn. Dù sao, Nasuada là người đã đàm phán với chúng tôi, và Nasuada cũng sẽ được chúng tôi tiếp tục ủng hộ cho đến khi không còn là người đầu đàn Varden nữa.”

“À há!” vua Orrin la lên, rướn mình tới, tay đặt trên đầu gối. “Nhưng công nương không phải là lãnh đạo Varden. Không phải nữa. Là Eragon!”

Mọi cặp mắt dồn về phía Eragon. Nó hơi nhăn nhó nói, “Tôi tưởng đã rõ ràng là tôi đã nhường thẩm quyền lại cho Nasuada ngay khi công nương tự do rồi chứ. Nếu không, giờ sẽ không còn ai nhầm lẫn nữa: Nasuada là lãnh đạo Varden, không phải tôi. Và tôi tin công nương nên là người thừa hưởng ngai vàng.”

“Cậu sẽ nói vậy mà,” Orrin trề môi chế nhạo.“Cậu đã thề trung thành với cô ấy. Dĩ nhiên cậu tin công nương nên thừa hưởng ngai vàng rồi. Cậu chả hơn gì so với một tên đầy tớ trung thành đứng lên bảo vệ chủ nhận, ý kiến của cậu không có trọng lượng hơn ý kiến của bất kì tên gia nhân nào của ta.”

“Không!” Eragon nói. “Thế thì ông sai rồi. Nếu tôi nghĩ ông hay bất kì ai khác sẽ là người cai trị tốt hơn, tôi sẽ nói thế! Đúng, tôi đã thề với Nasuada, nhưng điều đó không ngăn tôi nói sự thật như tôi thấy.”

“Có lẽ không, nhưng lòng trung thành của cậu với cô ấy vẫn làm lu mờ lý trí.”

“Kể cả như lòng trung thành với Surda làm lu mờ ông vậy,” Orik nói.

Vua Orrin quắc mắt. “Tại sao các người luôn chống lại ta?” Ông nhìn từ Eragon sang Arya tới Orik, “Tại sao thế, trong mọi tranh chấp, các người về phe với cô ta?” Rượu tràn ra từ mép cốc khi ông chỉ về phía Nasuada. “Tao sao cô ta có được sự tôn trọng của các người, mà không phải là ta và nhân dân Surda? Tại sao Nasuada và Varden lại luôn có đặc ân của các người, rồi trước cô ta, là Ajahad. Nếu cha ta còn sống …”

“Nếu cha ngài, vua Larkin, còn sống,” Arya nói, “ông ấy sẽ không ngồi đây rên rỉ những người khác nhìn ông như thế nào, mà sẽ làm gì đó có ích.”

“Bình tĩnh nào,” Nasuada can ngăn trước khi Orrin thốt lên phản pháo. “Không cần phải phỉ báng nhau ở đây… Orrin, băn khoăn của ngài rất hợp lý. Ngài nói đúng: dân Surda đã cống hiến rất nhiều. Tôi xin thừa nhận rằng nều không có sự giúp đỡ của các vị, chúng ta sẽ không bao giờ có khả năng tấn công Đế chế như đã làm, và các vị xứng đáng được đèn bù vì những gì đã mạo hiểm, bỏ ra, và mất mát trong cuộc chiến này.”

Vua Orrin gật đầu, tỏ ra thỏa mãn. “Vậy ra cô chịu nhường bước rồi à?

“Không,” Nasuada vẫn bình tĩnh. “Cái đó thì không. Nhưng tôi có một đề nghị thay thế, sẽ khiến toàn bộ chúng ta mãn nguyện.” Orrin có vẻ không thỏa mãn, nhưng không cắt ngang. “Đề nghị của tôi như sau: một phần rất lớn đất đai chúng ta đã chiếm được sẽ thuộc về Surda. Toàn bộ Arough, Feinster và Melian sẽ là của ngài, cũng như những hòn đạo ở phía Nam, cho tới khi chúng thuộc về chúng ta. Với sự sát nhập này diện tích Surda sẽ tăng lên gần gấp đôi.”

“Và đổi lại?” Vua Orrin nhướng mày.

“Đổi lại, ngài sẽ thề trung thành với ngai vàng ở Urû’baen này và bất kì ai giữ nó.”

Orrin xoắn miệng. “Công nương sẽ tự lập làm Hoàng Hậu của cả vùng đất này à.”

“Hai vương quốc – Đế chế và Surda – phải được hợp nhất để tránh sự thù địch trong tương lại. Surda sẽ thuộc quyền lãnh đọa của ngài tùy ý, chỉ trừ một điều: các pháp sư của cả hai đất nước phải tuân theo một luật lệ nhất định, chính là những điều chúng ta sẽ quyết định vào một ngày tới. Cùng với những luật lệ đó, Surda sẽ phải góp phần phòng thủ lãnh thổ chung. Nếu một trong hai bị tấn công, quốc gia còn lại sẽ trợ giúp bằng sức người và sức của.”

Vua Orrin đặt cốc rượu lên vạt áo, nhìn chăm chú xuống nó. “Tôi xin hỏi lại: vì sao là cô chứ không phải tôi ngồi trên ngai vàng? Dòng họ tôi đã trị vì Surda từ khi Công nương Marelda chiến thắng Trận Cithrí và xác lập nên cả Surda lẫn Dòng họ Langfeld, mà chúng tôi có thể truy nguồn gốc đến tận Thanebrand người Trao Nhẫn nữa. Chúng tôi đã chiến đấu với Đế chế suốt cả thế kỉ. vàng, vũ khí và giáp trụ của chúng tôi cho phép Varden tồn tại ngay từ trong trứng nước và duy trì các người suốt bao năm qua. Không có chúng tôi, các người không thể chống cự Galbatorix. Những người lùn không thể cho các người những gì cần thiết, cả tiên nhân nữa, họ ở quá xa. Nên tôi hỏi lại, tại sao phần thưởng phải thuộc về cô, Nasuada, mà không phải tôi?”

“Bởi,” Nasuada nói, “tôi tin mình có thể làm một nữ hoàng tốt. và bởi – với mọi điều tôi đã làm khi lãnh đạo Varden – tôi tin đó là điều tốt nhất dành cho nhân dân chúng ta và toàn thể Alagaësia.”

“Công nương có vẻ hơi đề cao mình quá thì phải.”

“Khiêm tốn nhầm chỗ không bao giờ đáng khâm phục hết, ít nhất đối với những người lãnh đạo. Có phải tôi đã thể hiện đầy đủ năng lực lãnh đạo hay không? Nếu không phải là tôi, quân Varden vẫn rúm ró trong lòng Farthen Dûr, chờ đợi dấu hiệu từ trên trời rơi xuống để xem bao giờ là thời điểm tốt tấn công Galbatorix. Chính tôi đã dẫn dắt Varden từ Farthen Dûr tới Surdar, chính tôi xây đắp họ thành một đội quân hùng mạnh. Với sự giúp đỡ của ngài, đúng vậy, nhưng tôi là người dẫn dắt họ, và tôi là người bảo đảm sự giúp đỡ của người lùn, tiên nhân và Urgal. Ngài có thể làm nhiều như thế không? Ai trị vì ở Urû’baen sẽ phải đối đãi với mọi giống loài trên mảnh đất này, không phải chỉ của mình. Một lần nữa, chuyện đó tôi đã làm được, và tôi có thể làm được.” Rồi Nasuada mềm mỏng, nhưng nét mặt vẫn mạnh mẽ như trước. “Orrin, vì sao ngài muốn ngai vàng? Nó có khiến ngài hạnh phúc hơn không?”

“Đây không pahri là vấn đề hạnh phúc,” ông gầm lên,

“Nhưng một phần thì có. Ngài có sẵn sàng quản lý toàn bộ Đế chế bên cạnh Surda không? Bất kì ai nắm ngai vàng sẽ phải thực hiện nhiệm vụ khổng lồ. Có cả một vương quốc phải tái thiết: đàm phán hiệp ước, chiếm các thành phố, khuất phục các quý tộc và pháp sư. Thậm chí phải mất cả đời để bắt đầu khôi phục những tổn thất Galbatorix gây ra. Đó là trách nhiệm ngài sẵn sàng gánh vác chứ? Với tôi có vẻ ngài thích cuộc sống như trước hơn.” Cô nhìn xuống cốc rượu, rồi chuyển ánh mắt về khuôn mặt Orrin. “Nếu ngài chấp nhận đề nghị của ta, ngài có thể trở về với Aberon và những thí nghiệm triết học tự nhiên của mình. Không phải ngài muốn vậy sao? Surda sẽ rộng hơn, giàu có hơn, mà ngài thì sẽ tự do theo đuổi sở thích của mình.”

“Chúng ta không thể luôn làm theo những gì mình thích. Đôi khi chúng ta phải làm điều đúng đắn, không phải điều mình muốn,” vua Orrin nói.

“Đúng, nhưng …”

“Bên cạnh đó, nếu ta làm vua tại Urû’baen này, ta vẫn có thể theo đuổi sở thích dễ dàng như ở Aberon vậy.” Nasuada cau mày, nhưng trước khi cô kịp nói, Orrin gạt đi: “Cô không hiểu …” ông cau có, uống thêm một hớp rượu.

Thế thì giải thích cho chúng ta đi, Saphira nói, ý nghĩ cô nàng sặc mùi thiếu kiên nhẫn.

Orrin khịt mũi, nốc cạn cốc rượu rồi quăng nó xuống cầu thang, cái cốc vàng lõm vào, bắn những viên ngọc khảm trên nó ra xoay mòng mòng trên sàn. “Ta không thể,” ông càu nhàu, “mà cũng không có ý thử.” Ông lướt mắt khắp căn phòng, “Không ai trong càng người hiểu đâu. Càng người quá buộc mình vào sự quan trọng của bản thân để thấu suốt. Làm sao có thể, khi các người chưa bao giờ trải nghiệm những gì ta đã từng?” Ông ngồi phịch xuống ghế, ánh mắt như than chì bên dưới cặp lông mày nhô cao. Ông nói với Nasuada, “Công nương vẫn quyết tâm à? Cô sẽ không rút lại đòi hỏi của mình phải không?”

Cô lắc đầu.

“Và nếu ta chọn tiếp tục theo đuổi đòi hỏi của ta thì sao?”

“Thì chúng ta sẽ có tranh chấp.”

“Rồi ba người sẽ về phe với cô ta hả?” Orrin quay sang Arya, Orik và Grimrr.

“Nếu Varden bị tấn cộng, chúng tôi sẽ chiến đấu cạnh họ,” Orik nói.

“Kể cả chúng tôi nữa,” Arya nói.

Vua Orrin cười nhe răng. “vậy các người không nghĩ là đang bảo chúng ta nên chọn ai làm người cai trị, đúng không?”

“Dĩ nhiên là không,” Orik nói, hàm răng trắng lấp lánh nguy hiểm trong bộ râu.

“Dĩ nhiên là không rồi.” Orik nhìn Nasuada. “Ta muốn Belatona, cùng với những thành phố công nương đã nhắc tới.”

Nasuada nghĩ một chốc. “Ngài đã sẵn có hai thành phố cảng là Feinster và Arough, ba nếu tính tới Eoam ở đảo Beirland. Ta sẽ cho ngài Furnost thay vào đó, và ngài sẽ có cả vùng hồ Tüdosten, như tôi có toàn bộ hồ Leona.”

“Leona có giá trị hơn Tüdosten, vì nó cho phép tới những dãy núi và bờ biển biển bắc,” Orrin chỉ ra.

“Đúng. Nhưng ngài đã sẵn có đường tới hồ Leona từ Dauth và sông Jiet rồi.”

Vua Orrin im lặng nhìn trân trối sàn nhà giữa phòng. Đỉnh mặt trời đang lặn dần xuống khỏi đường chân trời, chỉ còn rọi sáng vài đám mây lơ thơ. Bầu trời tối dần, vài ngôi sao đã nhấp nháy: ánh sáng lập lòe trong khoảng tím vô biên. Một cơn gió nhẹ nổi lên từ phía nam thổi vào mạn tháp. Eragon nghe tiếng cây tầm ma xào xạc bên kẽ lã.

Eragon nghĩ càng đợi lâu thì có vẻ Orrin sẽ từ chối đề nghị của Nasuada, hoặc ông sẽ ngồi đó im lặng cả buổi đêm.

Rồi nhà vua nhấc mình nhìn lên. “Tốt lắm,” ông nhỏ giọng. “Đến khi nào công nương vẫn tôn trọng giao ước của chúng ta, ta sẽ không thách thức công nương ngai vàng của Galbatorix… thưa Nữ Hoàng.”

Eragon rùng mình khi nó nghe Orrin thốt lên những lời đó.

Nét mặt vẫn ưu phiền, Nasuada tiến lên đứng giữa căn phòng. Rồi Orik đập đuôi cán Volund xuống sàn tuyên bố, “Nhà vua đã chết, Nữ hoàng muôn năm!”

“Nhà vua đã chết, Nữ hoàng muôn năm!” Eragon, Arya, Däthedr và Grimrr hô vang. Môi con ma mèo giãn rộng, vuốt nhe ra, còn Saphira phát ra tiếng kêu trầm đục như tù và, vang vọng giữa trần nhà ra thành phố phủ bụi phía dưới. Ý nghĩ tán thành cũng phát ra từ các Eldunarí.

Nasuada đứng thẳng tự hào, đôi mắt cô tuôn lệ, ngời sáng trong anh đèn xam xám. “Cảm tạ,” cô nhìn vào mắt từng người một. Tuy nhiên, ý nghĩ của cô có vẻ đang lang thang đâu đó, một tia buồn bã thoang thoảng mà Eragon ngờ rằng không ai để ý nữa.

Bóng đêm bao phủ khắp vùng đất, những ngọn đèn từ đỉnh tháp sáng rực lên soi rọi trên đầu thành phố.

Lời mộ chí thích đáng(A fitting epitaph)

Sau chiến thắng ở Urû’baen, Eragon cảm thấy những tháng ngày kế tiếp trôi vừa nhanh vừa chậm. Nhanh bởi có rất nhiều việc cần nó và Saphira làm, hiếm có hôm nào họ không mệt lử khi mặt trời lặn. Chậm bởi vẫn cảm thấy thiếu thốn mục đích – dù có vô số nhiệm vụ Nữ hoàng Nasuada giao cho – với nó như thể chúng chỉ là những khoảng nước tĩnh lặng chờ bất kì cái gì đẩy vào dòng chảy.

Saphira và nó ở lại Urû’baen thêm bốn ngày sau khi Nasuada trở thành nữ hoàng, giúp Varden hiện diện ở những khu vực lân cận. Họ dành phần lớn thời gian xử lý chuyện của người dân trong thành – xoa dịu những đám đông phẫn nộ vì vài hành động của quân Varden – hay truy đuổi những nhóm binh lính chạy khỏi Urû’baen, lẩn trong những đám lữ hành, nông dân hay những trang trại gần đó. Nó cùng Saphira cũng tham gia vào quá trình xây dựng lại cánh cổng thành khổng lồ, theo chỉ thị của Nasuada nó ếm vài câu thần chú phòng ngừa những kẻ vẫn còn trung thành với Galbatorix làm loạn. Chúng chỉ có hiệu lực với những người trong thành và vùng đất xung quanh, nhưng dù sao cũng làm quân Varden yên tâm hơn nhiều.

Eragon để ý quân Varden, người lùn, kể cả các tiên nhân cũng đối xử với nó lẫn Saphira khác hẳn so với trước cái chết của Galbatorix. Họ có vẻ tôn trọng và cung kính hơn hẳn, nhất là con người, nó dần nhận ra là họ tôn tờ nó và Saphira. Đầu tiên nó cũng thích thú – Saphira thì có vẻ không quan tâm lắm – nhưng nó bắt đầu thấy phiền toái khi nhận ra nhiều người lùn và con người quá sốt sắng làm nó vui lòng, họ sẽ nói bất kì điều gì họ cho là nó muốn nghe, kể cả không phải sự thật. Nó thấy bực mình khi biết được điều đó; giờ nó cảm thấy không thể tin ai khác ngoài Roran, Arya, Nasuada, Orik, chú Horst, và dĩ nhiên là Saphira.

Nó rất hiếm gặp Arya trong mấy ngày này. Trong vài lần chạm mặt, cô có vẻ thu mình, rồi nó nhận ra đó là cách cô đối mặt với nỗi đau thương trong lòng. Họ không có cơ hội nói chuyện riêng, nó chỉ kịp bày tỏ những lời chia buồn ngắn ngủi và kì cục. Nó nghĩ cô ghi nhận chúng, nhưng khó mà biết được.

Còn Nasuada có vẻ đã lấy lại hầu hết động lực, tinh thần và nặng lương trước đây chỉ sau một giấc ngủ, khiến Aragon kinh ngạc. Nó càng đánh giá cô cao tợn khi nghe kể về thử thách trong Căn phòng Tiên tri, và khi nó nhắc tới Roran, người mà cô không hé răng từ hồi nào. Cô ca ngợi Eragon vì lãnh đạo Roran khi không có cô – nó phản đối rằng hầu như nó đi biền biệt – rồi cảm ơn nó đã giải cứu cô nhanh nhất có thể, vì cô thừa nhận sau đó, Galbatorix đã suýt hạ gục cô.

Vào ngày thứ ba, Nasuada đăng quang trong quảng trường lớn gần trung tâm thành phố, trước mặt đám đông khổng lồ con người, người lùn, tiên nhân, ma mèo và cả Urgal. Vụ nổ kết liễu Galbatorix đã phá hủy vương miện cổ của Broddring, nên những người lùn đã đúc một chiếc mới từ vàng tìm thấy trong thành phố và những viên ngọc các tiên nhân rút ra từ mũ giáp lẫn chuôi gươm của họ.

Buổi lễ diễn ra đơn giản, nhưng càng hiệu quả hơn. Nasuada đi ra từ phía tòa thành đổ nát. Cô mặc một bộ đồ hoàng gia màu tím – cắt một vạt ở khuỷu tay, khiến ai cũng có thể thấy những vết sẹo trên cánh tay cô – cùng hàng ren lông chồn được Elva mang theo, bởi Eragon nài nỉ cô bé theo sát Nasuada gần nhất có thể sau lời cảnh báo của Murtagh.

Tiếng trống chậm rãi vang lên khi Nasuada bước lên bệ đá dựng giữa quảng trường. Trên đỉnh bệ, Eragon đứng cạnh chiếc ngai vàng uốn lượn, Saphira ở sát phía sau. Phía trước chiếc bục nhô lên là vua Orrin, Ork, Grimrr, Arya, Däthedrvà Nar Garzhvog.

Nasuada bước lên đài, gùy xuống trước Eragon và Saphira. Một người lùn trong tộc Orik dân lên Eragon chiếc vương miện mới làm, nó đặt lên đầu Nasuada. Rồi Saphira vòng cổ xuống chạm vào lông mày Nasuada bằng mõm, rồi cả cô nàng và Eragon cùng nói:

“Hãy đứng dậy hỡi nữ hoàng Nasuada, con gái của Ajihad và Nadara.”

Một hồi kèn hiệu vang lên, cả đám đông đang im phăng phắc chợt hoan hô thành một tạp âm kì cục, khi tiếng la hét của Urgal hòa lẫn với giọng êm ái thánh thót của tiên nhân.

Rồi Nasuada ngồi lên ngai vàng. Vua Orrin tiến lên phía trước thề trung thành, theo sau là Arya, vua Orik, Grimrr Nửa vuốt và Nar Garzhvog, mỗi người tuyên bố tình hữu nghị của giống nọ họ.

Eragon bị buổi lễ tác động mạnh. Nó thấy mình đang kìm nước mắt khi nhìn Nasuada ngồi trên ngai vàng. Chỉ khi cô đăng quang, tàn dư sự đàn áp của Galbatorix mới bắt đầu bị xóa đi.

Sau đó họ ăn mừng, quân Varden và các đồng mình liên hoan qua đêm đến tận ngày hôm sau. Eragon không nhớ nhiều về bữa tiệc trừ điệu nhảy của các tiên nhân, tiếng trống thập thình của người lùn, và bốn gã Kull leo lên tháp canh trên tường thành, thổi vang tù và làm từ sọ của cha chúng. Nhân dân trong thành cùng liên hoa, Eragon thấy vẻ mừng vui và nhẹ nhõm khi Galbatorix đã bị hạ bệ hiện trên gương mặt họ. Bên dưới cảm xúc của những người đang hiện diện là ý thức về tầm quan trọng của khoảng khắc này, bởi họ đang chứng kiến tận mắt kết thúc của một thời đại và bắt đầu của một thời đại khác.

Ngày thứ năm, khi cánh cổng đã gần dựng xong và thành phố có vẻ khá trật tự, Nasuada lệnh Eragon và Saphira bay tới Dras-Leona, rồi Belatona, Feinster và Aroughs, ở mỗi nơi dùng tên của cổ ngữ giải phóng lời thề trung thành với Galbatorix. Cô cũng yêu cầu Eragon trói buộc các binh sĩ và quý tốc – như đã làm ở Urû’baen – không cố gắng phá hoại nền hòa bình mới lập. Eragon từ chối, cảm thấy quá giống cách Galbatorix điều khiển lũ bầy tôi. Ở Urû’baen, rủi ro các sát thủ và những kẻ trung thành đủ lớn để Eragon sẵn sàng làm vậy. Nhưng nơi khác thì không. Nó nhẹ nhõm khi Nasuada đồng ý sau một hồi cân nhắc.

Nó và Saphira mang theo nữa số Eldunarí từ Vroengard, số còn lại ở cùng với những trái tim của tim giải cứu từ phòng chứa của Galbatorix. Blödhgarm và các pháp sư – những người không còn trói buộc bởi lời thề bảo về Eragon và Saphira – mang các Eldunarí tới một lâu đài cách vài dặm về phía bắc Urû’baen để dễ dàng bảo vệ những trái tim khỏi kẻ trộm, và tư tưởng của những con rồng điên loạn không ảnh hưởng tới ai trừ những người trông nom.

Chỉ khi thấy các Eldunarí an toàn Eragon và Saphira mới yên tâm lên đường.

Khi họ tới Dras-Leona, Eragon ngạc nhiên vì số lượng bùa chú rải khắp thành phố, cũng như ở tháp đá tối tăm Helgrind. Nó đoán rất nhiều trong đó phải có tuổi hàng trăm năm nếu không hơn: những bùa ếm bị lãng quên từ những thời đại trước. Nó để lại những câu thần chú có vẻ vô hại, và thi thoảng nó hơi miễn cưỡng làm xáo trộn những thần chú mà nó không hiểu mục đích la gì. Lúc này Eldunarí tỏ ra rất có ích, trong vài trường hợp họ nhớ được ai đặt thần chú và vì sao, hoặc là có khả năng tìm ra mục đích của thần chú từ những mẩu thông tin vô nghĩa với Eragon.

Khi tới Helgrind và hàng loạt hang ổ của các thầy tu – những người trốn biệt ngay khi tin về cái chết của Galbatorix lan đến – Eragon giải trừ hết bùa chú bất kể tới có hại hay không. Nó cũng dùng tên của các tên để tìm thắt lưng Beloth Thông thái trong khu tàn tích của tòa thánh đường lớn nhưng không thấy.

Họ dừng lại Dras-Leona trong ba ngày, rồi tiến đến Belatona. Rồi nó lần lượt giải trừ bùa ếm của Galbatorix ở đây lẫn Feinster và Aroughs. Ở Feinster, kẻ nào đó đã cố đầu đọc nó bằng đồ uống. Lưới phòng hộ đã bảo vệ nó, nhưng vụ việc khiến Saphira tức tối.

Nếu dồn được đồ chuột-cống-hèn-nhát làm chuyện này, em sẽ ăn sống hắn kể cả ngón chân, cô nàng gầm ghè.

Trong chuyến bay trở lại Urû’baen, Eragon đi chệch một chút. Saphira đồng ý, đảo hướng bay, nghiêng đi khiến đường chân trời trở nên thằng đứng, cả đất trời phân tách làm đôi thành bầu trời xanh thẫm và mặt đất màu nâu lục.

Phải mất nửa ngày tim kiếm cuối cùng Saphira mới tìm thấy dãy đồi sa thạch, trên đó có một ngọn đồi đặc biệt: một phiến đá đỏ dốc xuống cùng hang động giữa lưng chừng. Trên đỉnh đổi là ngôi mộ kim cương lấp lánh.

Ngọn đồi vẫn y chang như trong trí nhớ Eragon. Khi nhìn lên, ngực nó co thắt lại.

Saphira đáp xuống cạnh ngôi mộ. bụi tung lên.

Eragon chậm rãi tháo đai chân, trượt xuống mặt đất. Cơn sóng quay cuồn tràn qua nó cùng mùi ấm áp của đá, trong khoảnh khắc nó như đang trở lại quá khứ.

Rồi nó lắc đầu tỉnh táo lại. Bước lại gần nhìn sâu trong lòng mộ trong suốt, nó thấy Brom.

Ở đó nó thấy cha mình.

Vẻ ngoài Brom vẫn không thay đổi. Lớp kim cương bao quanh giữ thân thể ông khỏi sự tàn phá của thời gian, da thịt không phân hủy chút nào. Làn da nhăn nheo trên khuôn mặt nhuộm hồng, như thể máu tươi vẫn chảy bên dưới. Bất kì lúc nào trông Brom cũng như thể sẽ mở mắt đứng dậy, cùng đi tiếp hành trình dang dở của họ. Như thế nào đó, ông sẽ bất diệt vì không bao giờ già đi, nhưng mãi mãi chìm sâu trong giấc mộng.

Thanh gươm nằm trên ngực Brom, đuôi kiếm đặt sát bộ râu, bàn tay cầm chuôi gấp lại như Eragon đã xếp. Rồi bên cạnh ông là cây trượng xương xẩu, giờ Eragon mới nhận ra trên nó khắc chạm một tá nét chữ bằng cổ ngữ.

Mắt Eragon tuôn lệ. Nó khụy gối câm lặng khóc trong khoảng thời gian như vô tận. Rồi nó cảm thấy Saphira trong tâm trí, nó biết cô nàng cũng đang tiếc thương sự ra đi của Brom.

Cuối cùng Eragon đứng thẳng dậy, vươn mình về phía rìa mộ quan sát gương mặt Brom. Giờ nó đã biết mình nhìn thấy gì, nó có thể thấy những nét giống nhau trên gương mặt họ, mờ đi theo thời gian và bị che khuất bởi bộ râu của ông, nhưng không thể nhầm được. Góc cạnh trên gò má Brom, nếp nhăn giữa đôi mày ông, phiến môi trên cong cong; Eragon nhận ra cả. Nhưng nó không thừa hưởng cái mũi khoằm của Brom, cái đó nó nhận từ mẹ mình.

Eragon nhìn xuống, hơi thở nặng nề, trước mặt lại mờ đi. “Xong rồi,” nó thấp giọng. “Con đã làm được rồi. Chúng con đã làm được rồi. Galbatorix đã chêt,s Nasuada ngồi trên ngai vàng, và cả Saphira lẫn còn đều không sao. Như thế làm hài lòng cha chứ, đồ cáo già?”Nó bật cười nhẹ rồi gạt nước mặt bằng cánh tay. “Thêm nữa, còn có những quả trứng rồng ở Vroengard. Nhiều trứng rồng ấy! Lũ rồng sẽ không bị tuyệt diệt đâu. Saphira và con sẽ nuôi nấng chúng. Cha sẽ không bao giờ thấy trước chuyện đó, phải không? Nó lại cười, vừa cảm thấy ngốc nghếch lẫn đau thương. “Cha sẽ nghĩ gì về tất cả chuyện vậy? Cha vẫn như vậy mãi, nhưng bọn con thì không. Giờ cha còn nhận ra bọn con nữa chăng?”

Dĩ nhiên ông ấy sẽ, Saphira nói. Anh là con trai ông mà. Cô nàng chạm nhẹ mõm vào nó. Ngoài ra, khuôn mặt anh không quá khác để ông phải nhầm với ai đó đâu, kể cả nếu mùi của anh đã thay đổi.

“Thật à?”

Mùi của anh giờ giống tiên nhân hơn … Dù sao ông cũng sẽ không nhầm em với Shruikan hay Glaedr, phải không?

“Không đâu.”

Eragon khụt khịt, lùi ra khỏi ngôi mộ. Brom trông vẫn đầu sức sống trong lớp kim cương, cảnh tượng khiến nó nảy lên một ý: một ý tưởng điên rồ, vô lý đến mức nó gần như chối phắt, nhưng cảm xúc buộc nó không bỏ qua được. Nó nghĩ tới Umaroth và các Eldunarí – với hiểu biết và những gì đã đạt được với thần chú của nó ở Urû’baen – một tia hy vọng cháy bỏng lóe lên trong tim nó.

Nó nói vởi cả Saphira lẫn Umaroth, Brom chỉ vừa mới chết khi chúng tôi chôn ông. Đến hôm sau Saphira mới biến tảng đá thành kim cương, nhưng ông vẫn được bọc trong đá trước đó cách ly khỏi không khí cả đêm. Umaroth, với sức mạnh và hiểu biết của người, liệu có thể … có thể chúng ta vẫn chữa lành cho ông được. Eragon rùng mình như thể đang lên cơn sốt. Trước đây tôi không biết làm sao để chữa lành vết thương ông ấy, nhưng bây giờ - giờ tôi nghĩ có thể.

Sẽ khó hơn cậu tưởng tượng nhiều đấy, Umaroth nói.

Đúng vậy, nhưng người có thể làm được mà! Eragon nói. Tôi đã thấy mọi người và Saphira làm được những điều thần kì bằng phép thuật. Chắc chắn chuyện này không quá sức mọi người được!

Anh biết chúng em không thể sử dụng phép thuật theo ý mình mà, Saphira nói.

Kể cả nếu thành công, Umaroth tiếp, rất có khả năng chúng ta có thể hồi phục tâm trí Brom như trước. Trí óc là thứ rất phức tạp, ông ấy có thể sẽ trở nên lẫn lộn và thay đổi tính cách. Rồi sao nữa? Cậu có muốn ông ấy sống như thế không? Ông ấy có muốn vậy không? Không đâu, tốt nhất cứ để ông ấy như thế, Eragon à, để tôn vinh ông với những suy nghĩ và việc làm của mình như cậu đã từng. Cậu muốn mọi chuyện sẽ khác đi. Thế thì hãy hành động vì những kẻ đã mất người thân yêu. Tuy nhiên, đó là đạo lý. Brom sống trong trí nhớ của các cậu, và nếu ông là người như cậu đã cho chúng tôi thấy, ông sẽ đồng ý như vậy. Và cậu cũng nên chấp nhận như thế.

Nhưng …

Không phải Umaroth mà là Eldunarí cổ nhất, Valdr ngắt lời. Eragon nhạc nhiên vì ông lên tiếng không phải bằng hình hay hay cảm xúc, mà những từ cổ ngữ, căng thẳng và vất vả, như thế một ngôn ngữ xa lạ. Ông nói, Để những người chết cho lòng đất đi. Họ không phải dành cho chúng ta. Rồi ông không nói thêm, nhưng Eragon cảm thấy rõ sự buồn bã và thông cảm.

Eragon thở dài, nhắm mắt một hồi. Rồi trong tim, nó cho phép mình giải phóng hy vọng sai lầm đó, chấp nhận sự thật Brom đã ra đi.

“Ài,” nó bảo Saphira. “Anh không nghĩ chuyện này sẽ khó khăn như vậy.”

Sẽ thực lạ lùng nếu nó không khó. Nó cảm giác hơi thở ấm áp của cô nàng mơn man trên đỉnh đầu, vành môi cô nàng chạm vào lưng nó.

“phụ thân,” Lời nói có vẻ kì lạ từ miệng nó, nó chưa bao giờ mở miệng như vậy trước ai. Rồi Eragon nhìn về phía hàng kí tự nó khắc trên chóp ngôi mộ, rằng: