Em phải đến Harvard học kinh tế

CHƯƠNG 3 (tt)

MẸ CON HỘI NGỘ “NGHIỆM THU” RẤT MÃN NGUYỆN

Thời gian trôi nhanh, Đình Nhi đã sống ở nhà bà được hơn một năm. Cháu bắt đầu tỏ ra chán ghét những tri thức vốn đã thuộc làu làu trong lòng. Bà biết được rằng sự giáo dục của mình không thể theo kịp sự phát triển trí lực của Đình Nhi, hy vọng tôi sẽ trực tiếp giáo dục ở bước tiếp theo. Vì Đình Nhi và cũng vì để cho bà vất vả đã lâu nay có thể đến trường của ông để đoàn tụ, tôi quyết định lợi dụng kỳ nghỉ thăm nhà trong dịp tết năm 1984 đưa Đình Nhi trở về Thành Đô.

Để tránh thời gian cao điểm chạy tàu, tôi quyết định đi vào hôm tất niên. Buổi tối hôm trước trên tàu còn đông như nêm cối,, vậy mà giờ lặng ngắt không một bóng người. Trong toa chỉ có tôi ngồi. Tuy có thể nằm xuống chỗ ngồi của ba người nhưng lại lạnh đến nỗi không thể chợp mắt. Qua một đêm, cuối cùng vào ngày mồng 1 Tết, tôi đã nhìn thấy đứa con gái mong mỏi bấy lâu được gặp mặt.

Nỗi niềm vui mừng của cảnh đoàn tụ kể sao cho hết, tình hình về Đình Nhi cũng khiến tôi hết sức hài lòng.

Tính cách của cháu phát triển rất lý tưởng, nhiệt tình, chủ động, ý thức tham dự rất mạnh. Ngày Tết, những người đến chúc Tết bà ngoại rất nhiều. Mỗi khi có khách, Đình Nhi lại ra giúp tiếp đãi khách, lại còn chủ động biểu diễn tiết mục, khách vỗ tay tán thưởng khiến Đình Nhi càng phấn khởi, cháu thường kéo tay khách khi ra về: “Các bà đừng đi, cháu còn chưa biểu diễn hết cơ mà …”. Bà ngoại vội vàng nói giúp khách rằng, mọi người còn phải đi chúc tết những nơi khác. Nếu muốn để Đình Nhi biểu diễn hết thì phải mất một tiếng đồng hồ, vì ngoài biểu diễn ca múa, đọc thơ, cháu còn thích tự biên tự diễn, những bài ca múa do cháu hứng khởi sáng tác phải đến khi bản thân thấy mệt cháu mới kết thúc.

Khả năng lý giải và khả năng tự kiềm chế của Đình Nhi vẫn phát triển tốt, phàm là những việc không cho phép cháu làm, chỉ cần giảng giải kỹ đạo lý cho cháu, cháu sẽ nỗ lực tự kiềm chế không làm. Thí dụ: cậu Vệ Trung nhờ bạn cùng học mua ở Thẩm Quyến về một chiếc raido cassete âm thanh nổi, cậu thường ghi những lời bài hát, lời đọc thơ, lời nói của Đình Nhi vào trong băng, sau đó mở ra cho cháu nghe, để cổ vũ cháu học tập. Đình Nhi rất muốn chơi đùa với chiếc radio cassete, nhưng cậu Vệ Trung không cho Đình Nhi động đến đài, nói để đến khi lớn lên sẽ dạy cháu cách dùng, cháu bèn nhẫn nại không động đến.

Có lúc, bạn cùng học của cậu cho Đình Nhi nghịch cassete, Đình Nhi liền nói: “Đợi đến khi cháu đi học, cậu sẽ dạy cháu, cậu yêu cầu cháu bây giờ không được động đến”. Quan niệm phải trái của cháu rất rõ, có lần cháu làm việc trái, bèn chủ động thỉnh cầu trừng phạt: “Bà đánh cháu đi!”. Nếu như có đạt thật một hai roi cháu cũng không khóc. Năng lực tư duy trừu tượng của Đình Nhi phát triển rất nhanh, đã có thể suy diễn lô-gíc theo chuẩn mực. Trong hơn 10 ngày đợi tôi đến đón, Đình Nhi nói: “Cháu muốn có mẹ!”. Cậu ruột đùa nói: “Cậu muốn coóchị, cháu đòi được chị cậu đến, cháu sẽ có mẹ!”. Đình Nhi suy nghĩ một lát liền nói: “Cậu yêu cầu mẹ cháu tới, cậu sẽ có chị!”. Nhiệt tình học tập của Đình Nhi rất cao, bà ngoại dạy cháu học câu thơ: “Gà cất gáy, trời hửng sáng, mọi người thức dậy mở cửa…”. Trên đường từ phía nam đến phía bắc nhà máy, cháu nhìn thấy một con gà trống liền đọc lại câu thơ trên. Nửa năm trước khi tôi trở về thăm nhà, cháu đã nhận biết hơn 20 cuốn sách tranh thiếu nhi, lần này cháu còn có thể vừa lật sách vừa giảng cho tôi những nội dung cháu đã đọc thuộc như “Bướm đến nhà hoa” và “Câu chuyện bốn mùa …”. Cháu còn rất thích trò chơi chữ, một loại là từ phản nghĩa, một loại là từ đồng âm.

Đối với từ phản nghĩa, cháu bắt đầu biết từ khi 2 năm 3 tháng tuổi. Bắt đầu cũng rất ngẫu nhiên. Hôm đó, bà ngoại và Đình Nhi đứng trên sân thượng nhà bốn tầng, bà ngoại tự nhiên nói một câu: “Đứng thật cao, nhìn thật xa”. Khi trở về phòng bếp, Đình Nhi tự nhiên nói: “Đứng thật cao, nhìn thật xa”, bà ngoại nghe vậy rất mừng bèn giảng giải cho Đình Nhi: “Bà nói đứng thật cao, cháu phải đối lại là nhìn thật xa” và luyện vài lần cho Đình Nhi. Bữa cơm trưa ngày hôm sau, cậu Vệ Trung nói: “Đứng thật cao”, Đình Nhi bèn mở to mồm đối lại: “Nhìn thật xa”; cậu nói: “Nhìn thật xa, Đình Nhi đối lại: “Đứng thật cao”. Khi tôi biết được sự việc này từ trong thư, tôi lập tức thỉnh cầu mẹ bắt đầu cho Đình Nhi học từ phản nghĩa. Khi tôi về thăm nhà vào dịp hè, tôi lại dạy cho Đình Nhi một số từ phản nghĩa, có lẽ những trò chơi này đã không ngừng thức tỉnh cháu chú ý phân biệt sự vật, chơi mấy tháng mà vẫn không thấy chán.

Đối với những từ đồng âm thì là do trước Tết cháu học được từ một bài hát như sau:

Hoa đo đỏ, cỏ xanh xanh

Hát bài ca, cười yên ngựa

Ngựa gì? – Ngựa to

Gì to? – Núi to

Núi gì? – Núi cao

Gì cao? – Tháp cao

Tháp gì? - Bảo tháp

Gì bảo? - Quốc bảo

Gì quốc? – Trung Quốc

Tôi cảm thấy hình thức hỏi đáơ của bài này rất thú vị. Chỉ cần đổi câu sau thành: Gì quốc? Trung Quốc. Gì trung? Miền trung, hoặc Lòng trung, Gia trung … sẽ có thể biến thành một phương pháp huấn luyện từ vựng lớn vô hạn. Vậy là, trước tiên tôi dạy Đình Nhi chơi trò đếm số, người thua hỏi, người thắng trả lời, khi không trả lời được sẽ mất tư cách trả lời, biến thành người hỏi. Để Đình Nhi học được nhiều từ mới trong trò chơi, tôi thường “mượn” một từ cho cháu khi cháu không trả lời được. Mỗi lần tôi trả lời hoặc mượn cho cháu từ mới, tôi liền nhân cơ hội đó giảng giải một lượt cho cháu hiểu, sau đó lại chơi tiếp. Đình Nhi rất thích thú trò chơi đối từ này, và cho mãi đến khi cháu vào tiểu học, cháu vẫn thường lợi dụng lúc chúng tôi cùng đi trên đường để đòi cùng tôi chơi trò “đối từ”. Trò chơi đó đã nhanh chóng củng cố và phát triển từ vựng của Đình Nhi.

3 TUỔI KIỂM TRA TRÍ LỰC ĐÃ NHẢY MỘT BƯỚC ĐI VẠN DẶM

Phương pháp giáo dục này còn mang lại thành công ngoài dự đoán: tại căn nhà mới của Vệ Trung và Đan Lệ, tôi phát hiện một cuốn sách “Bách khoa toàn thư nhật dụng gia đình”. Trong sách có một phần “Bảng trắc lượng trí lực nhi đồng nhóm tuổi 3 – 7”. Bảng trắc lượng này do Belner, nhà tâm lý học người Pháp và Simon, nhà tâm lý học người Mỹ cùng biên soạn. Với sự hiếu kỳ cao độ, tôi đã dùng nó để kiểm tra trí tuệ của Đình Nhi, muốn kiểm nghiệm xem những nỗ lực gần 3 năm qua của mình đã đạt được kết quả như thế nào.

Dạng trắc lượng này chính alf sự so sánh giữa tuổi trí lực nhi đồng và tuổi thực tế để phán đoán mức độ trí lực, công thức của nó là tuổi tâm lý + tuổi thực tế = thương số trí lực. Nói cách khác, nếu một đứa trẻ vượt qua được trắc nghiệm mà bình quân những đứa trẻ 3 tuổi mới có thể vượt qua thì tuổi trí lực (tức là tuổi tâm lý) của trẻ là 3 tuổi, vượt qua trắc nghiệm mà những đứa trẻ 4 tuổi mới có thể vượt qua thì tuổi trí lực của đứa trẻ là 4 tuổi. Cứ như vậy tịnh tiến dần lên. Trong trắc nghiệm, nếu vượt tuổi thực tế thì mỗi một đề trắc ngiệm được tăng thêm 2 tháng tuổi trí tuệ, ngược lại cũng như vậy. Nếu như tuổi trí lực là 8 tuổi, tuổi thực tế mới chỉ có 6 tuổi, thương số trí lực là 8: 6 x 100 = 133, nếu như tuổi trí lực là 8 tuổi thực tế là 12, thương số trí lực là 8: 12 x 100 = 67.

Lần đầu tôi trắc lượng trí lực cho Đình Nhi là vào trung tuần tháng 2 năm 1984, Đình Nhi kém 1 tháng thì đây 3 tuổi, tuổi trí lực đo được là 5 tuổi 4 tháng, thương số trí lực là 183. Cháu đều vượt qua toàn bộ những đề trắc lượng về năng lực ngôn ngữ ở nhóm 3 – 7 tuổi; cháu cũng vượt qua tuyệt đại bộ phận đề của nhóm 3 – 7 tuổi về mặt thường thức (như giữa gỗ và kính có gì khác nhau); cháu chỉ không làm được một đề (Đổi số có 3 chữ số); trong số bảy đề ở bộ đề trắc nghiệm ở nhóm 7 tuổi, cháu cũng không thể vượt qua một số đề của nhóm 4 – 6 tuổi (như vẽ hình học, buộc dây thừng).

Kết quả này đã đủ làm phấn chấn lòng người. Theo thống kê điều tra của các nhà tâm lý học, ở độ tuổi lên 3, một đứa trẻ có độ tuổi tâm lý “sớm 2 năm” là tuyệt đỉnh thông minh, trong 5 vạn người mới có một.

(Cần phải nói thêm là đến 13 tuổi sự “sớm 2 năm” sẽ không có gì đặc biệt nữa. Bởi vì con người ở khoảng 6 – 12 tuổi sự tăng trưởng trí lực có quan hệ trực tuyến với tuổi đời, sau 12 tuổi sẽ rất khó căn cứ vào sự tăng trưởng của tuổi đời để phán đoán trình độ trí lực của người. Vì thế, thương số trí lực của người 12 tuổi đến trưởng thành phải dựa vào góc độ thống kê học để tính toán, tức là coi điểm bình quân đạt được qua trắc nghiệm của người cùng lứa tuổi là 100, lấy dãy phân số thuộc điểm giành được của người đó để đoán định vị trí điểm trí lực của anh ta trong số người cùng lứa tuổi).

Để kiểm nghiệm tình hình phát triển trí lực của Đình Nhi theo tiêu chuâẩ Trung Quốc, tôi đã nhờ mẹ mình mượn cuốn “Đại cương giáo dục nhà trẻ” do Uỷ ban giáo dục quốc gia phát hành. Đối chiếu kết quả cho thấy, Đình Nhi đã nắm được toàn bộ nội dung giảng dạy của lớp mẫu giáo nhỏ và mẫu giáo lớn. Nói một cách khác, nhìn từ góc độ nắm vững tri thức, cháu đã có thể trực tiếp học tiểu học.

Thế nhưng, tình hình Trung Quốc khi đó không thể cho phép tôi thực hiện được kế hoạch của mình: do ngân sách giáo dục có hạn, nhà nước quy định 7 tuổi mới được vào tiểu học. Tôi thì vừa không có tiền để nuôi gia sư dạy cháu học tiểu học, lại vừa không thể vứt bỏ công việc của mình để dạy cháu. Đó là điểm mà tôi không thể sánh kịp những người đi trước trong thực hiện giáo dục từ sớm ở Âu Mỹ và Nhật Bản.

Có điều, tôi đã sớm có sự chuẩn bị tư tưởng cho việc này. Đó là hiện thực mà tuyệt đại đa số những gia đình ở Trung Quốc phải đối mặt. Tôi nghĩ, trong điều kiện như vậy nếu mình có thể mò mẫm ra một con đường giáo dục cho trẻ có trí lực sớm, thì chẳng phải càng có ý nghĩa hơn hay sao? Khi đó, kế hoạch của tôi là phải tìm cho Đình Nhi một nhà trẻ thật tốt tại Thành Đô, sau giờ làm việc phải dốc sức dạy con tất cả những điều cần dạy, mà trọng điểm là tập đọc tiếng Hán và học tiếng Anh.

Vì việc học đọc tiếng Hán, có thể nói đây là một sai lầm rất đáng tiếc của tôi trong việc giáo dục Đình Nhi từ 0 đến 3 tuổi. Khi đó, tôi chỉ nghĩ được rằng “học chữ” trong giai đoạn trẻ con đang tập ghi nhớ bằng hình mẫu chưa có tác dụng gì, không thể dùng để đọc sách, mà không nghĩ rằng có thể lợi dụng phương thức ghi nhớ theo hình mẫu để trực tiếp học các từ ngữ tiếng Hán, cũng giống như học tiếng Anh bắt đầu từ việc học từ đơn âm tiết. Mặc dầu vậy ngay từ khi Đình Nhi mới được 2 năm 4 tháng tuổi, đã tự phát nhận biết được tên của mười mấy quyển truyện tranh nhi đồng. Tôi và mẹ đã chưa biết kịp thời phát huy tác dụng khả năng học tập này.

Bảy năm sau, một tổ chức chuyên nghiên cứu về giáo dục từ sớm cho trẻ nhỏ của Trung Quốc đã xuất bản một cuốn sách cho lưu hành nội bộ có tên “Phương pháp bồi dưỡng cho các cháu có tư chất thông minh”, trong đó có nói đến phương pháp làm thể nào để dạy cho trẻ em dưới 1 tuổi học chữ. Đại ý là lợi dụng những nguyên lý của phương pháp nhớ theo hình mẫu để trẻ con nhận biết mặt chữ trên các tấm bìa cứng giống như việc nhận biết hình vẽ các đồ vật vậy. Cứ thế luyện tập mãi mãi, trẻ con hai ba tuổi có thể tự mình đọc sách được.

Ngoài ra, những việc cần làm khác chúng tôi đều đã hoàn thành tốt đẹp, hơn nữa những công việc mà chúng tôi đã làm là những công việc vô cùng quan trọng. Đó là “kích thích và phát triển toàn diện các khả năng tiềm ẩn của trẻ nhỏ” chứ không phải chỉ là học tập tri thức từ sớm. Hiện nay, có không ít các bậc cha mẹ và một vài tổ chức nghiên cứu về việc giáo dục trẻ trước tuổi đi học. Họ đã làm một cách đơn giản là lấy việc dạy chữ sớm cho trẻ để thay thế cho việc giáo dục từ sớm toàn diện. Họ nghĩ rằng, giáo dục từ sớm chính là dạy trẻ con biết chữ từ rất sớm. Đây là một sự hiểu lầm về việc giáo dục từ sớm. Nếu đặt trọng tâm của việc giáo dục từ sớm ở chỗ dạy chữ từ sớm, mà bỏ qua việc phát huy các tiềm năng trí tuệ, như thế thì những đứa trẻ trước tuổi đi học ấy cũng chỉ là những đứa trẻ được học sớm dăm bảy chữ mà thôi. Những tri thức đó tuy rằng có lợi, nhưng hiệu quả của nó thật kém xa so với việc phát triển trí lực toàn diện.

Thực ra, trí lực và tri thức không phải là một. Tri thức là sự nhận thức các sự vật và các qui luật phát triển của nó, cùng với sự tích luỹ kinh nghiệm thực tiễn của loài người, là sự cấu thành của các loại khả năng như: khả năng chú ý, khả năng quan sát, khả năng tưởng tượng, khả năng tư duy … Chả thế, đã có người nói rằng: “Phát triển trí lực là hòn ngọc vô giá, còn truyền thụ tri thức chỉ là một vật quý giá mà thôi”. Khi đã hiểu được điều đó, thì sự kiên trì nhẫn nại giáo dục con cái của các bậc cha mẹ sẽ tăng lên gấp bội, họ không nôn nóng thực dụng nữa, mà đã biết sàng lọc chắt chiu để nhào nặn nên những tố chất quý báu và tâm hồn trong sáng cho con cái mình.

Chính vì cả nhà tôi đã biết tình nguyện dồn hết tất cả thời gian và tâm huyết cho sự tiến bộ từng bước của Đình Nhi, mới có thể làm cho cháu trong hoàn cảnh cha mẹ ly dị nhau mà vẫn hoàn thành tốt đẹp công việc phát triển trí lực và giáo dục tình cảm từ 0 đến 3 tuổi.