Đường Về Nô Lệ

Chương 9: An Toàn Và Tự Do

Cả xã hội sẽ biến thành một cơ quan duy nhất, một nhà máy duy nhất, mọi người cùng làm việc như nhau và cùng được trả lương như nhau.

V. I. Lenin, 1917

 

Trong một quốc gia, nơi nhà nước là người sử dụng lao động duy nhất thì đối lập nghĩa là chết dần chết mòn. Nguyên tắc cũ: Ai không làm thì không có ăn đã được thay bằng nguyên tắc mới: Ai không tuân phục thì không được ăn.

Leon Trotsky, 1937

 

Giống như thứ “tự do kinh tế” giả mạo đã nói đến bên trên, sự an toàn về kinh tế cũng thường được và có nhiều cơ sở hơn để coi là điều kiện tối cần thiết nếu muốn có tự do thực sự. Theo một nghĩa nào đó thì điều đó vừa đúng lại vừa quan trọng nữa. Những người không tự tin rằng họ có thể tự nuôi sống được mình thường không có tư duy độc lập và không có cá tính mạnh. Nhưng thực ra khái niệm an toàn về kinh tế, cũng như đa số các khái niệm khác trong lĩnh vực này, là một khái niệm mơ hồ và khá tù mù. Vì vậy, coi nó là điều kiện tối cần thiết là việc làm nguy hiểm đối với tự do. Trên thực tế, khi sự an toàn về kinh tế được hiểu theo nghĩa tuyệt đối thì việc mọi người cùng phấn đấu để đạt cho bằng được một sự an toàn như thế chẳng những không làm gia tăng cơ hội được tự do mà còn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với tự do nữa.

Cần phải phân biệt ngay từ đầu hai loại an toàn: loại an toàn có giới hạn, có thể đạt được cho tất cả mọi người và vì vậy không phải là đặc ân mà là yêu cầu chính đáng của mỗi thành viên trong xã hội và loại an toàn tuyệt đối mà xã hội tự do không thể bảo đảm cho tất cả mọi người và không được coi như một đặc quyền đặc lợi, trừ những trường hợp đặc biệt, thí dụ như những bảo đảm cần thiết cho sự độc lập của các quan tòa, những bảo đảm như thế đóng vai trò quan trọng nhất đối với hoạt động của họ. Hai loại an toàn, loại thứ nhất, bảo đảm để người ta không lâm vào hoàn cảnh thiếu thốn quá mức, bảo đảm một mức sống tối thiểu cho tất cả mọi người; và loại thứ hai là bảo đảm một lối sống hay một địa vị tương đối mà một người hoặc một nhóm người được hưởng so với những người khác. Hay nói một cách ngắn gọn, loại thứ nhất là bảo đảm một mức thu nhập tối thiểu chung cho tất cả mọi người và loại thứ hai bảo đảm một mức thu nhập mà một người cho là mình xứng đáng được hưởng. Chúng ta phải thấy sự khác nhau một trời một vực giữa sự bảo đảm mà mọi người đều được hưởng, đấy chính là biện pháp bổ sung bên cạnh hệ thống kinh tế thị trường, với sự bảo đảm chỉ dành cho một số người và chỉ có thể thực hiện được với điều kiện kiểm soát hoàn toàn hay bãi bỏ hẳn thị trường.

Muốn giữ được tự do nói chung thì không có lí do gì mà một xã hội đã đạt đến mức độ thịnh vượng như xã hội chúng ta lại không bảo đảm cho tất cả mọi người loại an toàn thứ nhất. Dĩ nhiên là xác định một mức sống tối thiểu là vấn đề vô cùng phức tạp. Một câu hỏi khác cũng rất quan trọng: những người ăn bám vào xã hội như thế có được hưởng tất cả các quyền tự do như những người khác hay không[1]. Không chú ý đến những vấn đề như thế có thể kéo theo những rắc rối chính trị nghiêm trọng, thậm chí là nguy hiểm nữa; nhưng không nghi ngờ gì rằng mọi người đều có thể được đảm bảo một lượng thức ăn, nhà ở và quần áo tối thiểu đủ bảo đảm sức khỏe và khả năng làm việc. Trên thực tế, việc bảo đảm như thế từ lâu đã trở thành hiện thực đối với đa số công dân Anh quốc.

Không có lí do gì mà chính phủ lại không giúp đỡ các nạn nhân gặp phải các hoàn cảnh không lường trước được, chẳng mấy người có thể tạo được dự phòng thỏa đáng cho những trường hợp như thế. Ốm đau, tai nạn là những hoàn cảnh mà việc trợ giúp không hề làm cho người ta lơ là việc phòng tránh rủi ro và khắc phục hậu quả - tóm lại là những rủi ro thực sự có thể bảo hiểm được - đòi hỏi nhà nước phải giúp đỡ trong việc tổ chức hệ thống an sinh xã hội trên bình diện quốc gia. Những người ủng hộ và những người phản đối cạnh tranh có thể không đồng ý về các chi tiết của hệ thống an sinh xã hội ấy; và dưới cái mác bảo đảm an sinh xã hội người ta có thể thực hiện chính sách mà trên thực tế lại làm giảm hiệu quả của cạnh tranh. Nhưng về nguyên tắc, việc nhà nước cố gắng bảo vệ các công dân của mình theo cách đó là phù hợp với tự do cá nhân. Cũng có thể nói như thế về sự trợ giúp của nhà nước cho các nạn nhân của thiên tai như động đất, bão lụt. Không nghi ngờ gì rằng khi người ta gặp những tai họa mà họ không thể tránh được và không có đủ dự phòng để khắc phục hậu quả thì cộng đồng nhất định phải dang tay giúp đỡ.

Cuối cùng, còn đó một vấn đề cực kì quan trọng: đấu tranh với các suy thoái kinh tế và hiện tượng thất nghiệp hàng loạt đi kèm với nó. Đấy là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất và cấp bách nhất trong thời đại chúng ta. Và mặc dù muốn giải quyết nó thì phải lập kế hoạch theo đúng nghĩa của từ này, nhưng vấn đề là không và không được đưa ra những loại kế hoạch thay thế cho thị trường. Thực ra thì một số nhà kinh tế học hy vọng là có thể giải quyết vấn đề bằng chính sách tiền tệ, phương cách mà họ cho là không trái ngược gì với cả chủ nghĩa tự do thế kỉ XIX. Nhưng cũng có những người cho rằng giải pháp duy nhất là thực hiện các công trình xã hội quy mô lớn vào đúng những lúc cần thiết. Cách làm này có thể gây ra những trở ngại nghiêm trọng đối với cạnh tranh và vì vậy phải rất thận trọng khi tiến hành thử nghiệm theo hướng này để tránh làm cho nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào sự lãnh đạo và các khoản đầu tư của chính phủ. Tuy nhiên, đây không phải là cách duy nhất và theo tôi không phải là cách tốt nhất cho việc bảo đảm an toàn về kinh tế. Dù sao mặc lòng, nhu cầu bảo đảm khỏi các hậu quả của suy thoái kinh tế hoàn toàn không đồng nghĩa với việc áp dụng hệ thống kế hoạch hóa là cái sẽ tạo ra mối đe dọa đối với quyền tự do của chúng ta.

* * *

Kế hoạch hóa để bảo vệ loại an toàn thứ hai là có hại cho tự do. Đấy là kế hoạch được thiết kế nhằm bảo đảm cho một số người hoặc nhóm người tránh được thất thu, mà đấy lại là chuyện bình thường trong xã hội dựa trên nguyên tắc cạnh tranh. Việc thất thu không thể nào được biện hộ về mặt đạo đức, dù có nguy cơ gây ra cảnh thiếu thốn, nhưng lại là phần không thể tách rời của cạnh tranh. Đòi hỏi bảo đảm kiểu này là một hình thức khác của đòi hỏi thù lao tương xứng, nghĩa là thù lao tương xứng với ưu điểm chủ quan của con người chứ không phải là tương xứng với những kết quả lao động khách quan của anh ta. Nhưng kiểu bảo đảm hay công bằng đó không phù hợp với nguyên tắc tự do lựa chọn nghề nghiệp của con người.

Trong xã hội, nơi việc phân công lao động được thực hiện dựa trên quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp của người dân, thù lao lúc nào cũng phải phù hợp với lợi ích mà người lao động mang lại cho những người khác, ngay cả khi các ưu điểm chủ quan của anh ta không được tính tới. Thường thì kết quả công việc tỉ lệ thuận với các cố gắng đã bỏ ra, nhưng không phải lúc nào cũng như thế. Đôi khi một công việc nào đó bỗng trở thành vô ích, xã hội nào cũng có thể xảy ra những chuyện như thế cả. Mọi người đều có thể hiểu bi kịch của một chuyên gia sau nhiều năm đèn sách, nhưng tay nghề bỗng mất giá vì một phát minh đem lại lợi ích lớn lao cho toàn thể xã hội. Lịch sử thế kỉ vừa qua có đầy rẫy các thí dụ về những phát minh như thế, đôi khi các phát minh này có ảnh hưởng đến hàng trăm ngàn người.

Khi thấy một người có tay nghề và đã lao động hết mình bị sa sút về thu nhập, khi chứng kiến cảnh tuyệt vọng mà không phải do lỗi của anh ta thì cảm nhận về lẽ công bằng của chúng ta nhất định sẽ bị tổn thương. Và những người bị thiệt hại đòi hỏi chính phủ bảo đảm cho họ mức thu nhập mà họ đáng được hưởng sẽ nhận được sự cảm thông và ủng hộ của nhiều người. Kết quả là các chính phủ không chỉ thông qua các biện pháp nhằm đảm bảo cho những người rơi vào hoàn cảnh như thế có được các phương tiện sống tối thiểu mà còn đảm bảo cho họ thu nhập ổn định như cũ, nghĩa là che chờ cho họ khỏi mọi phong ba bão táp của kinh tế thị trường[2].

Nhưng nếu chúng ta muốn bảo vệ quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp thì chúng ta không thể bảo đảm thu nhập ổn định cho tất cả mọi người. Còn nếu sự đảm bảo như thế chỉ được dành cho một số người thì đấy là đặc quyền đặc lợi, làm tổn hại quyền lợi của những người khác vì mức độ an toàn của những người này nhất định sẽ bị suy giảm. Dễ dàng thấy rằng việc bảo đảm thu nhập ổn định cho tất cả mọi người chỉ có thể được thực hiện với điều kiện bãi bỏ hoàn toàn quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp. Và mặc dù bảo đảm thu nhập cho tất cả mọi người được coi là mục tiêu mà tất cả chúng ta đều phải hướng tới, trên thực tế mọi sự diễn ra hoàn toàn không phải như thế. Trên thực tế các bảo đảm loại này sẽ được ban phát từng tí một, khi thì cho nhóm người này, khi thì cho nhóm người kia và kết quả là những nhóm bị bỏ rơi sẽ càng ngày càng bấp bênh hơn. Vì vậy mà không có gì ngạc nhiên khi trong nhận thức xã hội các bảo đảm được ban phát như vậy càng ngày càng có giá hơn, đòi hỏi càng ngày càng khẩn thiết hơn và dần dần người ta còn muốn có được những bảo đảm như thế bằng mọi giá, ngay cả với giá của tự do.

Nếu ta muốn bảo vệ những người, do những hoàn cảnh không thể dự đoán được hoặc bất khả kháng mà công việc của họ không còn hữu ích như trước, bằng cách đền bù cho họ các thiệt hại trong khi hạn chế thu nhập của những người hữu dụng hơn thì chẳng mấy chốc thù lao chẳng còn liên hệ gì với lợi ích xã hội thực sự nữa. Nó chỉ còn phụ thuộc vào quan niệm của các nhà chức trách, chỉ còn phụ thuộc vào ý kiến của anh ta về việc dân chúng phải làm gì, phải biết trước những gì, ý định của người ta tốt xấu ra sao. Quyết định được thông qua trong những trường hợp như thế nhất định sẽ là quyết định độc đoán. Nguyên tắc này, nếu được áp dụng, nhất định sẽ dẫn đến hiện tượng là những người làm những việc như nhau lại có thù lao khác nhau. Lúc đó sự khác biệt về tiền công sẽ không còn là động lực thúc đẩy người ta thực hiện những thay đổi có ích cho xã hội nữa; hơn thế nữa, người ta còn không thể đánh giá được là liệu có nên thực hiện những thay đổi như thế hay không.

Nhưng nếu việc luân chuyển người từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, tất yếu diễn ra trong mọi xã hội, không được thúc đẩy bởi “thưởng” và “phạt” (không phải lúc nào cũng phụ thuộc vào phẩm chất chủ quan của họ) thì chỉ còn một cách: ra lệnh. Khi thu nhập đã được bảo đảm thì người ta không được quyền ở lại chỗ làm cũ chỉ vì thích công việc đó, cũng không được lựa chọn công việc theo ý thích của mình, ở lại hay đi đối với anh ta cũng thế, chẳng được, cũng chẳng mất gì, chính những người phân bổ thu nhập sẽ quyết định anh ta đi hay ở.

Vấn đề khuyến khích ở đây thường được thảo luận như thể đây chủ yếu là vấn đề về sự tự nguyện làm hết sức mình của người dân. Mặc dù đây là khía cạnh quan trọng, nhưng không phải là tất cả, lại càng không phải là khía cạnh quan trọng nhất của vấn đề. Vấn đề không chỉ là muốn người ta tích cực làm việc thì phải có khuyến khích thỏa đáng. Quan trọng hơn là, nếu chúng ta để cho người dân quyền lựa chọn công việc, nếu muốn cho người dân có đủ khả năng quyết định nên làm cái gì thì chúng ta cũng phải cung cấp cho họ tiêu chuẩn đánh giá đơn giản và rõ ràng vì tính hữu dụng tương đối của các ngành nghề khác nhau. Một người, dù được thúc đẩy bởi những động cơ cao đẹp nhất, không thể lựa chọn được một nghề giữa muôn vàn nghề nghiệp nếu lợi thế mà anh ta nhận được từ công việc đó chẳng có liên quan gì với tính hữu dụng của nó đối với xã hội. Muốn cho một người quyết định chuyển nghề hay chuyển môi trường công tác mà anh ta đã quen và có thể đã thích thì điều quan trọng là giá trị xã hội đã biến đổi của từng ngành nghề phải thể hiện trong thù lao của ngành nghề đó.

Nhưng vấn đề còn nghiêm trọng hơn vì trong thế giới trần tục, chỉ có quyền lợi riêng tư mới làm cho người ta sẵn sàng cống hiến hết sức mình cho công việc trong một thời gian dài. Chí ít là rất nhiều người chỉ thực sự làm việc khi có áp lực từ bên ngoài. Theo ý nghĩa này thì vấn đề khuyến khích là vấn đề sống còn cả trong lĩnh vực lao động phổ thông cũng như lĩnh vực quản lí. Áp dụng các phương pháp thiết kế kĩ thuật cho cả một dân tộc - mà đây chính là kế hoạch hóa - “đặt ra vấn đề kỉ luật rất khó giải quyết”, một kĩ sư người Mĩ có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực lập kế hoạch ở cấp chính phủ đã viết như thế.

“Muốn giải quyết một công trình kĩ thuật”, ông ta giải thích, “cần phải có một khu vực hoạt động kinh tế phi kế hoạch tương đối lớn, cần phải có một khu vực dự trữ tuyển mộ nhân công để sao cho một nhân viên nào đó bị sa thải thì anh ta không chỉ biến khỏi chỗ làm việc mà còn biến khỏi bảng lương nữa. Không có khu vực dự trữ như thế thì chỉ có thể duy trì kỉ luật bằng roi vọt, hệt như thời nô lệ[3]”.

Vấn đề trừng phạt thói vô trách nhiệm trong lĩnh vực quản lí cũng không kém phần nghiêm trọng. Như có người đã nhận xét rất đúng rằng nếu như trong nền kinh tế cạnh tranh nhân viên thi hành án là cấp thực thi phán quyết cuối cùng thì trong nền kinh tế kế hoạch hóa nấc thang trừng trị cuối cùng nằm trong tay đao phủ[4]. Giám đốc các xí nghiệp được giao khá nhiều quyền lực. Nhưng địa vị và thu nhập của anh ta, giống như địa vị và thu nhập của người công nhân, không đơn thuần chỉ phụ thuộc vào thành công hay thất bại của xí nghiệp dưới quyền anh ta. Và vì anh ta chẳng mất cũng chẳng được gì cho nên không phải ý kiến cá nhân mà là các quy tắc đã được xác định sẽ quyết định anh ta phải làm gì. Cho nên sai lầm mà anh ta “phải tránh” không phải là cái thuộc phạm vi công việc quản lý của mình, mà là những biểu hiện đi ngược lại xã hội, những thứ bị xã hội lên án. Khi anh ta còn đi theo con đường an toàn “hoàn thành trung thực nhiệm vụ của mình”, anh ta có thể yên tâm là thu nhập sẽ ổn định hơn chủ doanh nghiệp tư nhân, nhưng khi anh ta đi lệch khỏi con đường đó thì hậu quả sẽ khủng khiếp hơn việc phá sản. Khi cấp trên còn hài lòng, anh ta sẽ được bảo đảm về mặt kinh tế, nhưng cái giá phải trả là tự do và sự an toàn của chính cuộc sống của anh ta.

Như vậy là chúng ta đang đối mặt với mâu thuẫn căn bản giữa hai kiểu tổ chức xã hội không đội trời chung, thường được mô tả, căn cứ vào những biểu hiện đặc thù của chúng: kiểu thương mại và kiểu quân sự. Các thuật ngữ này đáng tiếc là không hoàn toàn chính xác vì chúng hướng sự chú ý vào những biểu hiện không phải là cốt yếu và che lấp sự thực là trước mắt chúng ta chỉ có hai lựa chọn, không còn cách thứ ba. Hoặc là cá nhân có cả hai, quyền lựa chọn và gánh chịu rủi ro đi kèm, hoặc mất cả hai thứ đó. Quân đội đúng là một minh họa tốt cho kiểu tổ chức thứ hai, ở đây công việc và người công nhân đều do cấp trên chỉ định, còn khi nguồn lực bị hạn chế thì tất cả đều được một khẩu phần ít ỏi như nhau. Đây là hệ thống duy nhất trong đó cá nhân được bảo đảm hoàn toàn về mặt kinh tế, chỉ cần mở rộng hệ thống đó ra toàn xã hội là chúng ta sẽ làm được như thế cho tất cả mọi người. Nhưng sự bảo đảm này lại gắn liền với những hạn chế về quyền tự do và hệ thống cấp bậc của nhà binh, nghĩa là sự an toàn của trại lính.

Dĩ nhiên là có thể thành lập trong xã hội tự do những ốc đảo nơi cuộc sống được tổ chức theo nguyên tắc nhà binh như thế và không có lí do gì để phải cấm đoán những người thích cách sống như thế. Trên thực tế, lao động tình nguyện được tổ chức theo kiểu nhà binh có lẽ là biện pháp tốt nhất mà chính phủ có thể theo nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người tham gia làm việc và có mức thu nhập tối thiểu để sống còn. Nhưng trước đây những đề nghị như thế vẫn bị bác bỏ là vì những người sẵn sàng hi sinh tự do để đổi lấy an toàn lại đòi tước đoạt tự do của cả những người không đồng ý tham gia tự nguyện như thế. Rõ ràng đây là một đòi hỏi quá đáng.

Nhưng quân đội, như chúng ta biết, chỉ là một bức tranh gần đúng về cái xã hội được tổ chức hoàn toàn theo kiểu nhà binh mà thôi. Khi chỉ có một phần xã hội được tổ chức theo kiểu nhà binh thì sự mất tự do bên trong lòng nó sẽ được cảm nhận một cách nhẹ nhàng hơn vì người ta biết rằng ngay ngoài kia là cuộc đời tự do, ta có thể đi ra nếu cảm thấy quá gò bó. Hãy nhìn lại thành quốc Sparta cổ đại hay nước Đức hiện đại sau khi đi theo con đường đó vài ba thế hệ: Đây là những xã hội dường như đã tiến gần đến cái lí tưởng mà nhiều đảng viên xã hội chủ nghĩa đã từng kì vọng, tức là xây dựng xã hội tương tự như một nhà máy lớn.

* * *

Trong xã hội đã quen với tự do, chắc chẳng có mấy người sẵn sàng mua sự an toàn với cái giá như thế. Nhưng chính sách cung cấp sự an toàn đang tung hoành khắp nơi, khi thì cho nhóm xã hội này, khi thì cho nhóm xã hội kia, sẽ nhanh chóng tạo ra những điều kiện mà ước muốn an toàn về kinh tế sẽ mạnh hơn tình yêu đối với tự do. Đấy là vì bất cứ sự bảo đảm an toàn tuyệt đối nào cho một nhóm cũng sẽ làm gia tăng sự mất an toàn của những nhóm khác. Nếu bạn bảo đảm cho một người một miếng bánh cố định trong một chiếc bánh khi thì to khi thì nhỏ, thì phần chia cho những người khác sẽ dao động nhiều hơn là kích thước của chính cái bánh đó. Trong khi đó nhân tố chính yếu đảm bảo sự an toàn mà hệ thống cạnh tranh cung cấp, tức là sự đa dạng của cơ hội, sẽ càng ngày càng giảm đi.

Trong khuôn khổ của nền kinh tế thị trường, việc đảm bảo an toàn cho những nhóm nhất định chỉ có thể được thực hiện nhờ kiểu kế hoạch gọi là chủ nghĩa bảo hộ (tất cả các loại kế hoạch hóa đang được thực thi hiện nay đều thuộc kiểu này!). Trong nền kinh tế thị trường thì “kiểm soát”, nghĩa là giới hạn đầu ra sao cho giá cả giữ được khoản lợi nhuận “thích đáng” là biện pháp duy nhất nhằm bảo đảm cho những người sản xuất mức thu nhập chắc chắn. Nhưng như thế nhất định sẽ làm giảm các cơ hội của những người khác. Nếu một người sản xuất, bất kể là doanh nhân hay công nhân, được bảo hộ khỏi sự cạnh tranh của những người cung cấp cùng một loại hàng hóa với giá cả thấp hơn, điều đó có nghĩa là những người thiệt thòi hơn lại không được chia sẻ sự thịnh vượng tương đối trong lĩnh vực bị kiểm soát. Bất kì sự hạn chế việc tham gia của các doanh nhân mới vào một lĩnh vực nào đó cũng làm giảm sự an toàn của những người nằm bên ngoài lĩnh vực kinh doanh đó. Khi số người với thu nhập được bảo đảm theo cách đó càng gia tăng thì cơ hội cho những người thiệt thòi sẽ giảm đi và những người chịu ảnh hướng bởi các thay đổi tiêu cực sẽ khó mà thoát khỏi cảnh bần hàn. Và nếu, như gần đây thường xảy ra, nhân viên một ngành mà điều kiện kinh doanh được cải thiện được quyền không cho những người khác tham gia vào nhằm hưởng trọn bổng lộc dưới dạng lợi nhuận hay là tiền lương cao hơn thì những người trong các ngành mà nhu cầu sụt giảm sẽ hết đường sống. Kết quả là mọi thay đổi về cơ cấu kinh tế đều dẫn đến bùng nổ của nạn thất nghiệp.

Không nghi ngờ gì rằng chính lòng khao khát có bảo đảm về mặt kinh tế đã gây ra nạn thất nghiệp và sự mất an toàn của rất nhiều người trong vài chục năm lại đây.

Ở Anh và Mĩ việc bảo hộ, đặc biệt là bảo hộ liên quan đến tầng lớp trung lưu, chỉ mới được áp dụng rộng rãi trong thời gian gần đây và chúng ta vẫn chưa thấy hết được hậu quả của chúng. Chỉ những ai đã từng trải nghiệm nỗi tuyệt vọng của một người sống trong xã hội bị chia cắt bởi những hàng rào không thể nào vượt qua được, bị ngăn cản không được tham gia vào những công việc bảo đảm một cuộc sống ấm no, mới cảm thấy hết cái vực thẳm chia tách một kẻ thất nghiệp và một người may mắn, một người được che chắn khỏi sự cạnh tranh đến mức chẳng thèm nhúc nhích để nhường một chút cho kẻ không may. Vấn đề dĩ nhiên không phải là những người gặp may phải nhường chỗ cho những kẻ bất hạnh, nhưng những người đó phải chia sẻ những sự rủi ro bằng cách giảm thu nhập hay ít nhất cũng phải hi sinh một phần sự phồn vinh của họ chứ. Nhưng khi người ta còn tin rằng việc bảo đảm một “mức sống” nào đó hay bảo đảm một mức “giá công bằng” hay “thu nhập cho người có tay nghề” là điều cần thiết và được chính phủ ủng hộ thì chuyện đó không thể xảy ra được. Kết quả là không phải giá cả, lương bổng hay thu nhập cá nhân mà chính là sản xuất và số người có việc làm bị dao động mạnh. Sự bóc lột, được chính phủ khuyến khích bằng biện pháp “điều tiết” cạnh tranh của những người sản xuất đã thành đạt đối với những người sản xuất kém may mắn hay chưa trụ vững là sự bóc lột tàn bạo nhất và xấu xa nhất trong lịch sử. Khó có thể tìm được khẩu hiệu gây ra nhiều tai họa hơn là khẩu hiệu về sự “ổn định” giá cả (hay tiền lương) trong một số lĩnh vực nào đó, vì trong khi bảo đảm thu nhập cho một số người thì lại làm cho vị thế của những người khác càng bấp bênh thêm.

Như vậy là chúng ta càng cố gắng bảo đảm sự an toàn về kinh tế cho tất cả mọi người bằng cách can thiệp vào cơ chế của thị trường thì sự bấp bênh lại càng gia tăng. Và nguy hiểm hơn là nó dẫn đến sự chênh lệch giữa những người có đặc quyền đặc lợi và những người không có những đặc lợi như thế. Sự bảo đảm càng trở thành đặc ân thì những người không được hưởng đặc quyền đặc lợi càng gặp nhiều nguy hiểm, khiến cho sự bảo đảm như vậy càng trở nên có giá hơn. số người có đặc quyền đặc lợi càng gia tăng, khoảng cách giữa họ và những người khác càng cách biệt thì sẽ xuất hiện các xu hướng và giá trị hoàn toàn mới. Không phải là tính tự chủ mà là việc được bảo đảm về kinh tế sẽ quyết định địa vị xã hội của một người. Các cô con gái sẽ không lấy những người tự tin và tử tế mà sẽ lấy người có đồng lương đảm bảo, còn chàng thanh niên không tìm được cách chui vào tầng lớp đặc quyền đặc lợi có nguy cơ sẽ vĩnh viễn trở thành một kẻ khốn khổ, một kẻ suốt đời nằm dưới đáy của xã hội.

* * *

Những cố gắng nhằm bảo đảm sự an toàn bằng các biện pháp bảo hộ, được nhà nước thực hiện hay ủng hộ, cùng với thời gian đã tạo ra trong xã hội những biến dạng nghiêm trọng - những biến dạng đủ loại mà Đức là nước dẫn đầu và những nước khác đã đi theo. Quá trình này còn được lí thuyết xã hội chủ nghĩa thúc đẩy hơn nữa: cố tình miệt thị tất cả các hoạt động có dính dáng với rủi ro kinh tế và lên án về mặt đạo đức đối với những khoản thu nhập có được nhờ mạo hiểm nhưng chỉ một ít người thành công. Chúng ta không thể trách các bạn trẻ khi họ thích được an toàn, được ăn lương hơn là mạo hiểm kinh doanh vì ngay từ khi còn bé họ đã được dạy rằng viên chức hưởng lương là nghề cao sang, bất vụ lợi và không ích kỉ như các doanh nhân. Thế hệ trẻ hiện nay đã lớn lên trong một thế giới mà cả trường học lẫn báo chí đều tìm cách thóa mạ tinh thần cạnh tranh thương mại, đều coi việc kiếm lời là vô luân, coi việc sử dụng 100 người lao động là bóc lột nhưng chỉ huy một số người tương đương lại là vinh dự. Những người già hơn có thể cho rằng nói thế là phóng đại, nhưng kinh nghiệm tiếp xúc hằng ngày với sinh viên của tôi cho thấy rằng việc tuyên truyền chống tư bản đã làm cho các giá trị của giới trẻ thay đổi và việc thay đổi giá trị đã diễn ra trước khi có những điều chỉnh trong các thiết chế. Vấn đề là liệu khi điều chỉnh các thiết chế cho phù hợp với những đòi hỏi mới, chúng ta có vô tình phá hủy các giá trị mà chúng ta vẫn còn đánh giá cao hay không.

Chiến thắng của lí tưởng mong muốn bảo hộ thay vì độc lập tự chủ đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong cơ cấu xã hội, và ta có thể thấy rõ điều này khi so sánh xã hội nước Anh với xã hội Đức cách đây chừng mười - mười hai năm. Dù ảnh hưởng của quân đội ở Đức có lớn đến đâu cũng không thể coi cái mà người Anh cho là tính chất “nhà binh” của xã hội Đức là do ảnh hưởng đó mà ra. Hiện tượng đó có nguyên nhân sâu xa hơn rất nhiều, thái độ đặc biệt của các giới chịu ảnh hưởng mạnh của quân đội và các giới mà ảnh hưởng này không đáng kể, cũng gần như nhau, vấn đề không chỉ là gần như lúc nào đa số dân chúng Đức (hơn là dân chúng các nước khác) cũng được tổ chức để tiến hành chiến tranh mà vấn đề là kiểu tổ chức, đặc trưng cho bộ máy chiến tranh đã được áp dụng cho nhiều mục đích khác nhau đã tạo cho xã hội Đức những tính chất đặc biệt. Không có nước nào sử dụng nguyên tắc tổ chức thang bậc từ trên xuống một cách rộng rãi như ở Đức, cũng không ở đâu có nhiều người hoạt động trong đủ mọi lĩnh vực lại cảm thấy mình không phải là người tự do mà là một quan chức như ở Đức, điều đó đã tạo ra cấu trúc đặc thù của xã hội Đức. Chính người Đức vẫn thường khoe rằng nước Đức đã trở thành một nhà nước của Beamienstaat[5], trong đó chính quyền bảo đảm thu nhập và địa vị xã hội không chỉ cho những người phục vụ trong bộ máy nhà nước mà cho hầu như tất cả những người làm việc trong các lĩnh vực khác nữa.

Tôi không tin là bạo lực có thể bóp chết được tinh thần tự do, nhưng tôi ngờ rằng không phải dân tộc nào cũng có thể kháng cự được sự hủy diệt tự do một cách từ từ như đã từng xảy ra ở Đức. Khi chỉ những người hoạt động trong bộ máy nhà nước mới có vị trí trong xã hội, khi việc thực hiện nhiệm vụ công tác được coi là một cái gì đấy vinh quanh hơn hẳn sự tự do lựa chọn lĩnh vực hoạt động, khi tất cả những nghề không mang lại cho người ta địa vị được thừa nhận trong bộ máy nhà nước hay không mang lại cho người ta quyền được có đồng lương đảm bảo ổn định đều bị coi là thấp kém thậm chí nhục nhã thì thật khó mà hi vọng rằng nhiều người sẽ thích tự do hơn là được an toàn. Nhưng, nếu thay cho một địa vị được an toàn, dù là an toàn trong phụ thuộc lại là một vị trí bấp bênh, bị khinh thường cả khi thất bại lẫn lúc thành công, thì việc rất ít người dám đánh đổi an toàn để lấy tự do cũng là việc chẳng đáng ngạc nhiên vậy. Khi mọi sự đã tiến xa đến như thế thì tự do đã trở thành gần như một sự nhạo báng, bởi vì muốn có nó người ta phải hi sinh tất cả mọi thứ trên đời. Khi đã bị đưa đến tình trạng như thế thì càng ngày càng có nhiều người nghĩ rằng không có sự bảo đảm về kinh tế thì “tự do cũng chẳng có ý nghĩa gì” và họ sẽ vui mừng hi sinh nó, sẵn sàng đánh đổi nó lấy sự an toàn. Có thể hiểu được điều này. Nhưng thật khó mà hiểu được giáo sư Harold Laski khi ông ta cổ vũ cho chính cái lí lẽ vốn đã từng đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thuyết phục người Đức hi sinh quyền tự do của họ[6].

Dĩ nhiên là một sự đảm bảo nhất định dành cho những trường hợp thiếu thốn quá mức, cũng như có các biện pháp giúp cho việc phòng ngừa rơi vào các tình huống không mong muốn, phải là một trong những mục tiêu chủ yếu của chính sách của chúng ta. Song để cho những biện pháp này thành công và không đe dọa tự do cá nhân thì mọi sự bảo đảm đều phải được tiến hành bên ngoài quan hệ thị trường, cạnh tranh phải hoạt động một cách thông suốt. Muốn bảo vệ tự do thì phải có một số bảo đảm kinh tế nào đó, vì nhiều người sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi rủi ro không quá lớn. Nhưng không có gì khủng khiếp hơn là cái mốt ca ngợi sự an toàn với cái giá phải trả là tự do của các “cây đa, cây đề” trong hàng ngũ trí thức. Điều quan trọng là chúng ta phải học lại để nhận chân sự thật rằng tự do có giá của nó và từng cá nhân phải sẵn sàng chấp nhận những hi sinh to lớn về vật chất để bảo vệ tự do. Chúng ta phải tái khẳng định lại niềm tin và cũng là cơ sở của tư tưởng tự do trong các nước Anglo-Saxon, đã được Benjamin Franklin thể hiện trong một câu, có thể áp dụng cho từng cá nhân cũng như cho các dân tộc, như sau: “Người nào từ bỏ tự do thực sự để đổi lấy một ít an toàn tạm thời thì không xứng đáng được tự do, cũng chẳng xứng đáng được an toàn”.


Chú thích:

[1] Ở đây còn có các vấn đề quan hệ quốc tế nữa vì việc cho nhập quốc tịch đồng nghĩa với quyền có mức sống cao hơn các nước khác.

[2] Một số ý tưởng thú vị về cách thức giải quyết vấn đề này trong khuôn khổ xã hội tự do được giáo sư W. H. Hutt trình bày trong tác phẩm rất đáng nghiên cứu mới được xuất bản gần đây. (Plan for Reconstruction (Kế hoạch tái thiết), 1943).

[3] Coyle D.C. The Twilight of National Planning (Thoái trào của kế hoạch hoá quốc dân)//Harper’s Magazine. October 1935. trang 558.

[4] Roepke W. Die Gesellschaftskrisis der Gegenwart Zurich, 1942, trang 172.

[5] Các viên chức - Tiếng Đức - ND.

[6] “Những ai từng quen với đời sống của người nghèo, những người luôn cảm thấy tai họa sắp ập xuống, những người luôn run rẩy đuổi theo các giấc mơ chẳng bao giờ trở thành hiện thực mới hiểu được tự do mà không có an toàn về kinh tế là thứ vô giá trị.” (Laski H. I, Liberty in the Modern State (Tự do trong nhà nước hiện đại) // Pelican edition. 1937. trang 51).