Đường Ra Biển Lớn

Chương 14: THEO GƯƠNG FREDDIE LAKER

1984
Vào ngày 19/6/1984, ba ngày trước khi chúng tôi ra mắt hãng hàng không của mình, tôi xuống Gatwick để tham gia buổi xét duyệt bay thử cuối cùng của CAA. Chiếc máy bay mang tên Maiden Voyager đang đỗ tại cửa đi và tôi thật sự bị choáng ngợp bởi kích thước của nó. Tôi cũng ngạc nhiên về kích thước logo Virgin trên đuôi máy bay. Nó rất lớn – phiên bản lớn nhất mà tôi từng thấy. Tôi nhớ về đầu những năm 1970 khi Simon và tôi đề nghị Trevor Key cho một vài ý tưởng về logo mới. Không thể tìm được ý tưởng, Revor đã giao cho một nhà thiết kế đồ họa tên là Ray Kate, thuộc công ty tư vấn thiết kế Kyte & Company. Ray đã sáng tạo nên khái niệm và cung cấp kiểu dáng trực quan cho một logo phong cách chữ ký có thể được hiểu như sự chấp thuận, “V” tạo thành hình dấu tick đầy ý nghĩa. Một số chuyên gia marketing đã từng phân tích logo và viết về chiều đi lên ấn tượng từ trái sang phải của nó. Tất nhiên, điều này có thể đã xuất hiện trong đầu Ray khi anh ta phát triển ý tưởng ban đầu. Ngắm nhìn logo khắc trên đuôi máy bay khiến tôi bắt đầu nhận ra những việc chúng tôi bắt đầu thực hiện. Một việc sẽ xảy ra: đó là chúng tôi sẽ mua một chiếc jumbo.
Toàn bộ phi hành đoàn đã bước lên boong máy bay cùng 100 nhân viên Virgin, và tôi ngồi ở phía sau cùng quan chức CAA. Máy bay mới được đưa đến ngày hôm trước, từ Seattle và tận tới khi chúng tôi nhận được giấy phép cấp quyền bay chính thức của CAA, các động cơ vẫn không được bảo hiểm. Chúng tôi cất cánh và cả phi đoàn vỗ tay reo hò. Tôi dường như không thể ngăn nổi nước mắt rơi: Tôi cảm thấy tự hào về từng người xung quanh tôi.
Sau đó một tiếng nổ lớn phát ra từ bên ngoài. Máy bay nghiêng lảo đảo sang bên trái, một tia lửa rồi sau đó là vệt khói đen dài phun ra từ một trong những động cơ.
Trong sự im lặng đến rợn người, quan chức CAA đặt tay lên vai tôi. “Đừng lo, Richard” – Anh ta nói. “Những chuyện này vẫn xảy ra.”
Chúng tôi đã va phải một đàn chim và một trong những động cơ đã hút chúng vào và gây nổ. Chúng tôi cần một động cơ mới ngay lập tức để thực hiện lại buổi bay thử của CAA. Chuyến bay khai trương của chúng tôi tới New York dự định khởi hành vào ngày kia với 250 nhà báo và quay phim tham gia.
Roy Gardner ở cạnh tôi và anh ta truyền thông tin qua radio tới đội tại British Caledonian chịu trách nhiệm bảo trì cho chúng tôi. Khi Maiden Voyageger được đưa đến vào ngày trước đó, Roy đã không chấp thuận hai trong số các động cơ vì lý do tài chính và yêu cầu thay thế hai động cơ khác. Lúc này anh ta rút lại một trong hai động cơ đã đưa tới Heathrow và dự kiến bay trở lại Seattle.

Khi chúng tôi đã hạ cánh xuống mặt đất, tôi đứng bên cạnh máy bay cố gắng nghĩ cách khắc phục sự cố thì một phóng viên ảnh tới chỗ tôi và tôi mỉm cười cởi mở.
“Tôi rất tiếc” – Tôi xin lỗi. “Giờ tôi không thể làm gì được”.
“Tôi cũng lấy làm tiếc” – Anh ta nói. “Tôi đã thấy ngọn lửa và khói phát ra từ động cơ của anh. Thực tế tôi đã chụp được một tấm ảnh tuyệt vời về sự cố này.
Anh ta nhìn vào khuôn mặt chết lặng vì sợ hãi của tôi rồi nói: “Dù vậy anh đừng lo. Tôi tới từ tuần báo Financial Times, chúng tôi không phải loại báo lá cải. “Anh ta mở camera, lấy tấm phim và đưa nó cho tôi. Tôi không thể tìm được lời nào để cảm ơn anh ta. Nếu bức ảnh đó xuất hiện trên mặt báo, nó sẽ là dấu chấm hết cho Virgin Atlantic Challenger trước cả khi chúng tôi thực sự bắt đầu.
Không may, do Virgin Atlantic Challenger không có giấy phép của CAA nên chúng tôi không được bảo hiểm động cơ. Chúng tôi phải trả 600.000 bảng để thay động cơ mới. Sau một vài cuộc gọi vô vọng, tôi nhận ra không còn thiết bị thay thế. Với cảm giác sắp chìm nghỉm đến nơi, tôi đã gọi cho ngân hàng Coutts để họ biết khoản tiền trả 600.000 bảng cần được thông qua.
“Rất sát với hạn mức của công ty anh” – Chris Rashbrook, người quản lý khách hàng của chúng tôi nói.
Giới hạn thấu chi của chúng tôi với Coutts cho toàn bộ tập đoàn Virgin là vào khoảng 3 triệu bảng.
“Đó là một sự cố kinh khủng” – Tôi nói. “Một trong những động cơ bị nổ và chúng tôi không thể nhận được bảo hiểm chừng nào chúng tôi chưa nhận được giấy phép. Nếu không có động cơ mới, chúng tôi sẽ không thể có được giấy phép. Thật là một tình huống tiến thoái lưỡng nan.”
“Ồ, tôi chỉ cảnh báo anh thôi” – Rashbrook nói với tôi. “Anh đã bỏ lỡ mất vận may của mình vào việc thực hiện bộ phim Electric Dreams và chúng tôi vẫn đợi tấm séc MGM.”
Tấm sẽ MGM trị giá 6 triệu bảng trong đó MGM đồng ý chi trả để được quyền phát hành bộ phim Electric Dreams tại Mỹ.
“Anh có thể đợi tới khi tôi thực hiện xong chuyến bay khai trương này không?” – Tôi hỏi. “Chúng ta sẽ cùng xem xét khi tôi trở về nhà. Tôi sẽ về vào thứ Sáu. Chúng tôi sẽ chỉ tiêu vượt hạn mức của mình 300.000 bảng. Khi có tấm séc của MGM, chúng tôi sẽ không bị chi quá ngân sách nữa và sẽ có khoảng 3 triệu bảng tiền gửi.”
Anh ta nói anh ta sẽ suy nghĩ về việc này.
Ngày trước chuyến bay đầu tiên, Maiden Voyager đã được lắp động cơ khác và đang chuẩn bị sẵn sàng để cất cánh trở lại. Quan chức CAA bước lên boong máy bay và chúng tôi khởi hành. Lần này không có vụ nổ nào xảy ra và chúng tôi đã được trao giấy phép. Tôi vội vã quay trở lại London để dàn xếp một nguy cơ khác mang tên Randolph Fields. Chúng tôi đã trả Randolph 1 triệu bảng nhưng anh ta nghĩ con số đó vẫn chưa đủ. Anh ta đã tới một quan tòa tại Mỹ và nộp đơn khiếu nại yêu cầu dừng việc khởi hành Maiden Voyager. Trong cả đêm, chúng tôi đã có một cuộc họp hạn chế tổn thất cùng David Tait, Roy Gardner và những luật sư của tôi, cố gắng đi tới một dàn xếp nhờ đó chúng tôi có thể ngăn chặn việc Randolph hủy hoại hãng hàng không. Quan tòa cuối cùng đã bác bỏ khiếu nại của anh ta nhưng chúng tôi đã phải mất cả đêm để chiến đấu giữ lấy những gì anh ta có khả năng lấy mất. Vào lúc bình minh chúng tôi cảm nhận rằng chúng tôi sẽ chiến thắng, và tới 6 giờ sáng, tôi chạy đi tắm và gác lại mọi chuyện. Tôi cảm thấy kiệt sức. Tôi cố gắng rửa mặt nhưng mắt tôi đau nhức và đỏ ngứa tưởng như vừa bị một luồng cát thổi vào. David Tait tới, ngồi bên bệ phòng rửa mặt và chúng tôi lại tiếp tục bảng liệt kê cuối cùng những việc chúng tôi phải làm. Sau đó David rời khỏi và bắt chuyến máy bay Concorde để trở về New York trước nhằm tổ chức nghi lễ đón tiếp khách mời cho chuyến bay.
Trên boong chiếc máy bay khai trương chuyến bay đầu tiên, vây quanh tôi là bạn bè và gia đình, những người quan trọng nhất với tôi, với Virgin suốt mười năm qua. Tôi ngồi cạnh Joan, với Holly bé bỏng ngồi trên lòng cô ấy. Sau lưng chúng tôi là nhân viên toàn bộ tập đoàn Virgin. Máy bay chở đầy những nhà báo và nhiếp ảnh, cùng một đoàn các ảo thuật gia, người diễn trò và Uri Geller. Khi Maiden Voyager trượt trên đường băng, màn hình phía trước cabin hiển thị lờ mờ cảnh vật bên ngoài và hình ảnh phía sau lưng các phi công và kỹ sư điều khiển khi họ ngồi trong buồng lái. Qua vai họ chúng tôi có thể nhìn thấy quang cảnh qua kính chắn gió. Một thông báo phát ra từ loa:
“Vì đây là chuyến bay đầu tiên của chúng tôi, chúng tôi nghĩ quý vị có thể muốn được quan sát cùng chúng tôi từ khoang lái, và xem điều gì thực sự xảy ra khi chúng tôi cất cánh.”
Chúng tôi có thể thấy quang cảnh đường băng trải dài phía trước. Sau đó chúng tôi bắt đầu tăng tốc: Đường băng phía dưới kính chắn gió lướt đi thật nhanh tới khi các đường vạch trắng chỉ còn là một vệt mờ ảo. Nhưng những phi công dường như rất thư thái: Thay vì chăm chú nhìn về phía trước và điều khiển máy bay, họ lại quay sang bên nhìn nhau và mỉm cười. Một trong số họ có mái tóc dài lấp sau mũ; người còn lại là một người Tây Ấn. Lúc này chúng tôi đang lao xuống đường băng, và hai phi công chẳng quan tâm gì tới điều đó. Đơn giản họ không tập trung. Mọi người theo dõi màn hình đều nín thở: Đây là chuyến bay tự sát điên rồ của ngài Richard Branson cuồng loạn. Một sự im lặng đến chết người. Sau đó, ngay khi mũi máy bay cất lên và đường băng bắt đầu biến mất khỏi tầm nhìn, người Tây Ấn chạm vào tai anh ta, lôi ra một bộ kết nối và đưa nó cho phi công phụ. Trước khi mọi người chắc chắn đây là một trò đùa, máy bay cất cánh và hai phi công bỏ mũ ra quay mặt vào camera: Họ là Ian Botham và Viv Richards. Kỹ sư máy bay để râu chính là tôi. Cả máy bay được một trận cười. Chúng tôi đã dựng bộ phim này vào ngày trước đó trên một máy bay mô phỏng.
Chúng tôi đã bật nắp 70 chai champagne trong bữa tiệc 8 tiếng ăn mừng trên khoang máy bay. Mọi người khiêu vũ trên lối đi khi chúng tôi chơi bản hit mới của Madonna “Like A Virgin” cùng Culture Club và Phil Collins. Trong một khoảng lặng, chúng tôi đã chiếu bộ phim Airplane, và các tiếp viên bắt đầu một thông lệ của Virgin đó là phát các phần kem sôcôla cho hành khách vào giữa bộ phim.
Tại sân bay Newark ở New York, tôi nhận ra trong lúc hào hứng chuẩn bị chuyến đi, tôi đã quên mất visa của mình. Tôi suýt bị họ từ chối không cho tham dự bữa tiệc chiêu đãi tổ chức tại sân bay. Do một số nhầm lẫn, tiếp viên hàng không đã vứt đi tất cả các bộ dao kéo, vì thế họ phải lục tìm khắp nơi trong các thùng rác để lấy lại rửa sạch và sau đó đem trở lại khoang máy bay. Tôi cảm thấy hổ thẹn với mọi người ngoại trừ Thị trưởng Newark khi tôi đứng nói chuyện với ông ta bởi vì tôi nghĩ, vì một số lý do nào đó, rằng ông ta chính là người tổ chức buổi tiệc tùng này. Tôi bắt chuyến bay quay trở về Gatwick và lần đầu tiên tôi ngủ li bì trong nhiều tuần. Tôi mơ về các động cơ bị nổ, về các tiếp viên phục vụ mang các đĩa thức ăn thẳng từ thùng rác tới, và những phi công hút cần sa. Khi tỉnh dậy, tôi cảm nhận chắc chắn rằng không còn một điều gì có thể tồi tệ hơn thế nữa. Một sai lầm khủng khiếp.
Một taxi đã đưa tôi chở lại London. Khi chúng tôi dừng lại trước cửa nhà, tôi nhìn thấy một người đàn ông có vẻ ngoài rất lo lắng đang ngồi trên bậu cửa. Thoạt đầu, tôi nghĩ anh ta là một nhà báo nhưng sau đó tôi nhận ra đó chính là Christopher Rashbrook – người quản lý khách hàng của tôi tại Coutts. Tôi mời anh ta vào trong phòng khách. Toàn thân tôi mệt rã rời còn anh ta thì lộ vẻ đứng ngồi không yên. Nhưng sau đó đột nhiên tôi nghe anh ta nói rằng Coutts không thể mở rộng hạn mức thấu chi của Virgin theo yêu cầu và do đó họ sẽ rất tiếc khi phải trả lại bất kỳ tấm séc nào rút quá 3 triệu bảng. Tôi hiếm khi mất bình tĩnh – thực tế số lần tôi mất bình tĩnh có thể đếm trên đầu ngón tay – nhưng khi tôi nhìn vào người đàn ông trong bộ com-lê sọc màu xanh với chiếc cặp bằng da đen tinh xảo của anh ta, tôi thấy máu đang sôi lên. Anh ta đứng đó trong đôi giày Oxford đen bóng và bình tĩnh nói với tôi rằng anh ta sẽ để toàn bộ hạn mức của Virgin ngừng hoạt động. Tôi nhớ lại đã không biết bao nhiêu lần kể từ tháng Ba tôi và nhân viên của Virgin Atlantic Challenger đã phải làm việc thâu đêm để giải quyết một vấn đề; tôi nghĩ về việc các tiếp viên hàng không mới cảm thấy vinh dự ra sao khi được bay cùng một hãng hàng không mới thành lập; và tôi nghĩ về cuộc đàm phán kéo dài mà chúng tôi đã tranh luận với Boeing. Nếu giám đốc nhà băng trả lại các tấm séc của chúng tôi thì Virgin sẽ phải ngừng hoạt động trong rất nhiều ngày: Không ai cung cấp cho một hãng hàng không bất cứ thứ gì như nhiên liệu, thực phẩm hay bảo trì nếu họ biết rằng các tấm séc không được chấp nhận thanh toán. Và không còn hành khách nào muốn bay cùng chúng tôi.
“Xin lỗi!” – Tôi nói khi anh ta vẫn tiếp tục đưa ra lý do để bào chữa cho mình. “Anh không được chào đón trong nhà tôi. Mời anh ra khỏi đây”. Tôi dùng cánh tay nhấc anh ta lên, đẩy ra ngoài và đóng sầm cửa trước vẻ mặt ngơ ngác của anh ta. Bước trở lại phòng khách, tôi đổ sạp xuống ghế sô-pha òa khóc vì kiệt sức, tức giận và lo lắng. Sau đó tôi lên gác đi tắm và gọi cho Ken.
“Chúng ta cần phải tập trung được lượng tiền tối đa từ nước ngoài ngay hôm nay. Và sau đó phải tìm một chủ nhà băng khác. “
Các chi nhánh thu âm tại nước ngoài đã cứu chúng tôi tuần đó. Chúng tôi đã xoay xở đủ tiền vào ngày thứ Sáu để có thể duy trì hạn mức thấu chi dưới 3 triệu bảng. Chúng tôi đã khiến cho Coutts không còn lý do gì để trả lại các tấm séc của chúng tôi và vì thế chúng tôi đã ngăn chặn họ đẩy các công ty Virgin khác nhau, cùng hãng hàng không mới vào tình trạng phá sản tức thời. Đó là một tình huống phi lý: Virgin Music đã tạo ra lợi nhuận 12 triệu bảng năm đó và dự báo sẽ tăng lên 20 triệu bảng vào năm sau. Chúng tôi là một trong những công ty tư nhân lớn nhất nước Anh nhưng Coutts đã sắp đặt để đẩy chúng tôi vào tình trạng vỡ nợ – và khiến 3.000 người rơi vào tình trạng thất nghiệp – chỉ vì vượt
300.000 bảng trên hạn mức, với một tấm séc 6 triệu bảng chuẩn bị chuyển tới từ Mỹ trong bất kỳ ngày nào.
Cơn khủng hoảng Coutts đã khiến tôi nhận ra rằng chúng tôi cần một chuyên gia tài chính xuất sắc để lấp chỗ trống mà Nik để lại. Chúng tôi cần một người nào đó có thể giải quyết các vấn đề tài chính của cả Virgin Atlantic Challenger lẫn Virgin Music và đóng vai trò như một cầu nối giữa hai công ty. Bằng việc tiếp tục tồn tại trên cả dòng tiền mặt và nợ nần, toàn bộ tập đoàn Virgin Group đang sống trên bờ nguy hiểm. Giữa thập niên 1980 là những năm thịnh vượng của thành phố, và mỗi công ty dường như đều có thể bán cổ phần của họ ra ngoài và thu về hàng triệu bảng để đầu tư. Tôi bắt đầu nghĩ có lẽ đó chính là con đường phía trước cho Virgin.
Bên cạnh bốn hoạt động kinh doanh chính, Virgin Music, hệ thống cửa hàng Virgin Records, Virgin Vision và hãng hàng không mới Virgin Atlantic Challenger, hiện có một loạt các công ty nhỏ mới thành lập hoạt động dưới sự bảo hộ của Virgin. Đó là hãng thực phẩm Top Nosh, chuyên cung cấp thực phẩm cho các khu công nghiệp; Virgin Rags, một thương hiệu may mặc; Virgin Pubs và Vanson Property, một công ty phát triển tài sản chuyên chăm sóc hệ thống tài sản đang ngày một gia tăng của chúng tôi và hoạt động kinh doanh ngành phụ đang thu về lợi nhuận đáng kể từ việc mua, phát triển và sau đó bán tài sản. Số lượng các doanh nghiệp tạp nham này cần một ai đó đặt chúng vào trật tự.
David Puttnam – một nhà sản xuất phim người Anh đã khuyên chúng tôi bắt tay cộng tác với Don Cruickshank. Anh ta là một chuyên viên kế toán đã có 5 năm kinh nghiệm làm việc tại công ty tư vấn quản lý McKinsey trước khi trở thành tổng giám đốc tạp chí Sunday Times và sau đó chuyển sang Pearson với tư cách giám đốc điều hành Financial Times.
Robert Devereux, người hiện đã kết hôn với em gái tôi Vanessa, đã tình cờ gặp anh ta khi bàn công chuyện với hãng phim Goldcrest Films, một bộ phận của Pearson còn Simon thì không biết một chút nào về anh ta. Don bắt đầu làm việc trong các văn phòng chật hẹp tại Ladbroke Grove và là người đầu tiên tại Virgin mặc com-lê và đeo cà vạt. Mọi người đều ngạc nhiên trước phong cách của anh ta. Khi Don đóng vai trò giám đốc điều hành, Virgin bắt đầu được tổ chức thành một công ty có thể thu hút các nhà đầu tư bên ngoài.
Ngay sau đó, Don đã thu nạp Trevor Abbott về làm giám đốc tài chính. Trevor đã có thời gian làm việc tại MAM, Management Agency & Music, một công ty giải trí quản lý các công việc của Tom Jones và Engelbert Humperdinck, và thiết lập thương hiệu thu âm riêng để cho ra mắt Gilbert O’Sullivan. MAM sau đó đã đa dạng hóa thành nhà xuất bản âm nhạc, sở hữu một chuỗi các khách sạn, điều hành một hạm đội các máy bay phục vụ công ty, có các hộp đêm, và cho thuê máy đánh bạc hình trái cây và máy hát tự động. MAM có rất nhiều điểm chung với Virgin nhưng khi Trevor rời đi, anh ta đã làm việc dựa trên sự kết hợp giữa MAM và Chrysalis.
Don và Trevor mau chóng tổ chức các cuộc họp với nhà băng và dàn xếp lại vấn đề tài chính của chúng tôi cũng như cơ cấu nội bộ của Tập đoàn. Xét tổng thể, doanh thu của Virgin năm 1984 có khả năng vượt 100 triệu bảng, và mỗi lần Don và Trevor gặp tôi, họ lại thể hiện sự kinh ngạc về cách thức mọi việc đang diễn ra. Họ hết sức ngạc nhiên về việc thiếu máy tính tại Tập đoàn, việc không kiểm soát chặt chẽ cổ phiếu và hiển nhiên cả việc Simon, Robert và tôi tùy tiện quyết định về cách đầu tư tài chính. Họ đến gặp tôi tại Duende và bắt đầu trình bày phương thức đề xuất để tái cơ cấu Virgin với ý định mời một số nhà đầu tư bên ngoài tham gia.
Điều đầu tiên họ làm là phân loại các dịch vụ thấu chi. Coutts và công ty mẹ của họ, National Westminster Bank, đã không ngần ngại gây sức ép với chúng tôi vì vượt thấu chi 3 triệu bảng. Với cùng bảng cân đối kế toán được mang tới một liên doanh các ngân hàng khác, Don và Trevor đã thu xếp được mức thấu chi lên tới 30 triệu bảng. Sau đó họ xem xét lại cơ cấu của Virgin Group và quyết định đóng cửa một số các công ty nhỏ hơn của chúng tôi, như công ty thực phẩm Top Nosh và các quán rượu. Họ đã chia Virgin Group thành Music, Retail, Vision và sau đó chia Virgin Atlantic Challenger cùng với Virgin Holidays, Heaven, The Roof Garden và Necker Island thành một công ty tư nhân riêng rẽ. Cả Simon và tôi khi ấy đều 33 tuổi, cũng như Trevor và Ken. Don hơn chúng tôi một vài tuổi; Robert trẻ hơn. Chúng tôi cảm nhận rằng chúng tôi có thể đánh cuộc với bất kỳ ai và giờ là lúc chúng tôi chờ đợi để đưa Virgin Music ra trước công chúng. Chúng tôi đã đi một chặng đường dài từ thị trường nhạc rock sang thị trường cổ phiếu.