Đời viết văn của tôi

Phần VI

GIỜ LÀM VIỆC MỖI NGÀY

 

Tôi làm việc đều đều mỗi ngày, có giờ nhất định như một công chức, chỉ khác công chức là không có ngày nghỉ nhất định, không có chủ nhật, không có cả ngày lễ, ngày tết. Buồn thì ngày nguyên đán âm lịch tôi cũng viết. Lúc nào tôi muốn nghỉ, cần phải nghỉ thì nghỉ. Thường thường, mỗi khi viết xong một cuốn vài trăm trang, tôi nghỉ độ nửa tháng; và cứ vài tháng tôi lại về Long Xuyên nửa tháng.

 

Mệt nhất là công việc khảo cứu về văn học, triết học Trung Hoa; còn việc dịch các tiểu thuyết của phương Tây như Chiến tranh và Hoà bình của Léon Tolstoi, Kiếp người (Of Human bondage) của Somerset Maugham thì không mệt mấy, tôi thấy thú, coi như một việc để tiêu khiển. Hồi dịch cuốn Kiếp người tôi đem bản tiếng Anh về Long Xuyên để hẳn ở dưới đó, mỗi lần về tôi lấy ra dịch ba bốn chục trang.

 

Tôi tự đặt cho tôi một kỷ luật, trừ khi đau ốm còn thì ngày nào cũng dậy từ sáu giờ hay sáu giờ rưỡi, điểm tâm lúc 7 giờ, rồi nằm đọc sách, chín giờ là lại ngồi vào bàn viết để viết luôn tới 12 giờ, giờ bữa trưa.

 

Ăn trưa xong, tôi nằm nghỉ khoảng 1 giờ, nhắm mắt lại, chợp được độ nửa giờ là nhiều; một giờ rưỡi thức dậy, nằm ở giường đọc sách đến 3 giờ. Chiều lại viết từ 3 giờ đến 5 giờ rưỡi, 6 giờ; tắm xong, ăn bữa tối lúc 7 giờ. Cả buổi tối, cho tới 10 giờ, tôi chỉ nằm đọc sách báo. Hồi chưa lên Sài Gòn, còn dạy học ở Long Xuyên, tôi có thể viết cả buổi tối, nhưng sau khi bị loét bao tử và lao phổi, tôi mất ngủ, thường phải uống thuốc an thần (thứ nhẹ, Equanil Transquanil) nên buổi tối tôi không viết, cũng không đọc những sách cần suy nghĩ nhiều, không tiếp khách mà cũng không đi xem hát, cho rằng không gì quí bằng giấc ngủ. Tôi ngủ mỗi đêm được 7 giờ, thường thẳng một giấc. Bây giờ (1980), mỗi đêm chỉ được 5 giờ và phải thức giấc một lần.

 

Như vậy mỗi ngày tôi viết nhiều nhất khoảng 5-6 giờ, đọc sách báo cũng 5-6 giờ, nhưng còn phải trừ mỗi ngày độ 1 giờ vào công việc xuất bản (sửa ấn cảo, giao thiệp với nhà in, nhà sách, viết thư cho bạn và độc giả…) rốt cuộc còn thực sự làm việc được mười giờ. Mỗi năm viết cả sách lẫn báo trung bình được ngàn trang trở lại, mỗi ngày trung bình ba trang.

 

Tôi ráng ngày nào cũng phải viết ít nhất cho được một trang, nếu không thì có cảm giác như ở không.

 

Nhiều bạn hỏi tôi làm sao có thể viết trong trên 30 năm được 120 nhan đề (100 đã xuất bản, 20 còn là bản thảo). Tôi đáp: 120 nhan đề đó được khoảng 30.000 trang, chia cho 33 năm chỉ có khoảng 900 trang một năm, trung bình mỗi ngày chưa được 3 trang mà!

 

Tuy nói là mỗi ngày làm việc vào khoảng mười giờ, nhưng sự thực thì trí óc không lúc nào thảnh thơi. Gần như tuần nào cũng phải làm việc cả 7 ngày, mỗi ngày 12 giờ; vì khi đã có một đề tài để viết mà tôi bao giờ cũng có vài ba đề tài trong đầu thì tiềm thức luôn luôn làm việc, cả trong bữa ăn, giấc ngủ, cả trong lúc đi chơi, tiếp khách hay đọc sách báo để tiêu khiển. Những lúc đó tôi đâu có muốn kiếm tài liệu để viết, nhưng gặp một câu, một lời hay thấy một việc gì, một cảnh nào có liên quan xa gần đến đề tài thì tự nhiên tiềm thức của tôi hoạt động mà tôi không hay và bắt tôi nghĩ tới, nhớ lấy. Biết bao đêm thức giấc, sực nảy ra một ý gì, tôi phải vén mùng, sờ soạng mặt tủ nhỏ ở đầu giường, lấy cây bút chì và một cuốn sách đương đọc; rồi không bật đèn, sợ làm mất giấc ngủ của vợ con viết nguệch ngoạc ít chữ bất kì trang nào trong sách, để ghi lại ý đó kẻo quên mất, sau cùng gấp trang đó lại để đánh dấu, sáng dậy sẽ chép lại.

 

KIẾM TÀI LIỆU – ĐỌC SÁCH BÁO

 

Làm nhà biên khảo thì việc đầu tiên là kiếm tài liệu. Viết về nhiều môn như tôi thì cần phải đọc nhiều sách báo. Tôi vốn có óc tò mò cho nên loại sách nào tôi cũng muốn đọc cho biết, chỉ trừ loại “chưởng” của Kim Dung. Một bạn trẻ tặng tôi bộ Cô gái đồ long, mong rằng tôi sẽ nhờ bộ đó mà thần kinh dịu xuống, bớt đau bao tử. Tôi ráng đọc năm, 5-6 chục trang rồi phải bỏ, không thể thích nổi.

 

Tôi rất ngại đến thư viện để đọc sách, kiếm tài liệu; vả lại thư viện rất ít tài liệu mới, cho nên hầu hết các sách tôi dùng để biên khảo đều phải mua ở nước ngoài. Tôi gởi một số tiền dự trữ độ 200 quan cho nhà Rayonnement du livre français ở Paris. Họ gởi đều đều cho tôi tập Livres du mois, thư mục đủ các loại sách Pháp xuất bản mỗi tháng, sắp thành từng loại: ngôn ngữ học, triết học, sử học, luật học, kinh tế học, tiểu thuyết, thơ, kịch v.v… Thấy cuốn nào muốn đọc, tôi báo họ gởi cho; họ sẵn sàng kiếm cả những sách ngoại quốc cho nữa. Mỗi năm họ gởi cho tôi khoảng 50-60 cuốn.

 

Ngoài ra tôi mượn sách, nhất là báo định kỳ của Pháp như Esprit, Express, Paris Mach, Life, Historia, Science et Vie… của vài bạn văn, nhất là của toà soạn Bách Khoa.

 

Sách Trung Hoa thì tôi hỏi thẳng một tiệm sách ở Hương Cảng hoặc nhờ ông Tạ Trọng Hiệp kiếm giùm.

 

Lựa sách ngoại quốc theo cách dò trong thư mục, chỉ thấy tên sách, tên tác giả, chứ không biết nội dung ra sao thì có một số dùng không được; cho nên tôi phải nhờ nhà Rayonnement du Livre français giới thiệu cho.

 

Riêng sách về cổ học Trung Hoa, tôi yêu cầu tiệm sách Hương Cảng tìm cho những bản tốt nhất, chú giải kỹ nhất của một học giả có tiếng, do một nhà xuất bản có tiếng in ra. Dùng những bản đó dù giá tiền đắt gấp hai, gấp ba cũng có lợi hơn là dùng những bản tầm thường, không tin được, chỉ làm mất thì giờ của mình.

 

Khi đã có một chủ đích, định tìm hiểu hoặc viết về vấn đề nào, tôi bắt đầu gom hết các tài liệu mà tôi đã kiếm được về vấn đề đó, liên tiếp trong nhiều năm. Như về Kinh dịch, tôi gom từ 960 đến 1975 được khoảng 15 – 16 cuốn của Trung Hoa, Việt, Pháp, Anh, đọc qua 1 lượt, xem giá trị ra sao, giúp tôi được gì; đánh dấu những chương quan trọng rồi để riêng vào một chỗ; năm 1978 – 1979 khi định viết, tôi mới đọc kỹ lại một lượt, so sánh các thuyết, các bản dịch… để định cái hướng nghiên cứu, cách làm việc.

 

Một cuốn mỏng, gồm toàn những “chuyện sống” (histoires vécues, tức những chuyện thực đã xảy ra) ghi một tình cảm đẹp, một ý cao thượng mà tôi đã để ra non hai chục năm để gom góp lần lần trong các sách, báo Pháp. Việc đó không tốn thì giờ gì cả; thấy truyện nào đáng lựa, tôi đánh dấu, rồi sắp vào một chỗ riêng, khi đã được vài ba chục truyện, thành một cuốn dầy vài trăm trang, tôi đem ra dịch một hai tháng là xong.

 

Trước 1963 tôi không bao giờ có ý viết về kinh tế, và còn cho môn kinh tế học dạy trong các trường luật là không sát thực tế, chỉ gây thêm hoang mang cho tôi thôi; nhất là những thuyết về tiền tệ, giá cả, về thặng dư giá trị không làm cho tôi tin được. Chẳng hạn người ta bảo rằng thặng dư giá trị của một sản phẩm do sức lao động của thợ thuyền cả, phải chia hết cho thợ thuyền, tư bản không có công gì trong đó, mà ngay những người quản lý xí nghiệp cũng không có công vì họ không sản xuất; nếu không chia hết cho thợ thuyền thì là bóc lột họ.

 

Nhưng cùng một xí nghiệp mà người này quản lý thì lỗ, người khác quản lý lại lời thì giải thích ra sao? Ai tạo nên thặng dư giá trị? Lại như trường hợp sáu nhân viên điều khiển một nhà máy lọc dầu tối tân, vốn cả trăm triệu đô la, thặng dư giá trị rất lớn, thì số thặng dư đó phải chia hết cho sáu nhân viên đó ư? Chỉ họ mới có công ư? Hay còn là công của các nhà khoa học đã tìm ra cách lọc dầu, các kỹ sư đã chế tạo ra máy lọc dầu, tổ chức công việc trong xưởng, của người bỏ vốn ra mua máy móc, của nhân viên quảng cáo, thương mãi, tìm thị trường v.v…

 

Rồi một hôm (năm 1962-63) ngẫu nhiên tôi đọc một cuốn rất mỏng (trong loại Que sais-je?) của J. Fourastié, cuốn La civilisation de 1975, tôi bắt đầu để ý tới ông và tìm thêm những tác phẩm khác của ông để đọc, càng đọc càng ham, tới những cuốn Le Grande espoir du 20è siècle, Machinisme et bien être, Pourqoi nous travaillons, thì những thành kiến trước kia về môn kinh tế tiêu tan hết. Từ đó gặp cuốn nào của Fourastié tôi cũng mua rồi lại tìm đọc thêm mươi cuốn của mấy nhà khác về kinh tế, xã hội học, nhất là về vấn đề kém phát triển trên thế giới, do đó tôi nảy ra ý viết cuốn Một niềm tin, Thế giới trong tương lai, Việt Nam trong hiện tại. Cuốn đó do ngẫu nhiên mà viết, chứ hoàn toàn không có trong chương trình hoạt động của tôi.

 

Sự ngẫu nhiên đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp một nhà văn, tôi sẽ trở lại điểm đó trong một chương sau.

 

Có lần một độc giả trẻ tuổi hỏi tôi nghĩ sao về lời Erskine Caldwell trả lời một nhà báo như sau: “Có những người đọc, có những người viết, có những người vừa đọc vừa viết. Tôi chỉ viết cho những người khác đọc thôi, chứ không đọc sách của ai cả”.

 

Tôi đáp: “Tiểu thuyết gia Mỹ đó là một anh chàng ngông. Ông ta có một bút pháp khá độc đáo, nhưng tôi biết những người có tài hơn ông ta nhiều, viết nhiều gấp mấy ông mà đọc sách rất nhiều, như Tolstoi, Proust, Anatole France.

 

Viết văn thì phải theo dõi văn trào và thời sự trong nước, trên thế giới cho nên dù bận việc tôi cũng ráng đọc một số nhật báo, tạp chí và những tác phẩm Việt quan trọng xuất bản trong năm, để kịp thời góp ý kiến với đồng bào về những việc xảy ra và để cuối năm tổng kết tình hình xuất bản. Những báo, tạp chí, sách đó một số do tôi mua, một số do bạn văn tặng, một số mượn của toà soạn Bách Khoa.

 

Vì vậy mà thi sĩ Quách Tấn bảo nội việc tôi đọc sách cũng đã khó có người bì kịp, chứ đừng nói đến chuyện đọc rồi còn viết. Nhưng tôi tự so sánh với một số nhà văn Pháp thì số sách tôi đọc kém họ xa. Họ có những tủ sách 5 ngàn, 10 ngàn cuốn; tủ sách của tôi chưa được ba ngàn cuốn. Ngay ở Sài Gòn, cũng có vài học giả tủ sách lớn hơn của tôi nhiều.

 

Đọc sách bao giờ tôi cũng có một cây bút chì và một cục gôm bên cạnh. Trong nhà có hai chỗ tôi thường nằm để đọc sách, tại hai chỗ đó, bao giờ tôi cũng có sẵn hai vật đó. Hễ thấy có đoạn nào đáng đọc lại, có ý gì đáng ghi thì tôi làm dấu bằng bút chì ngay ở ngoài lề; rồi ghi số trang, tóm tắt đại ý ở trang đầu bỏ trắng của sách.

 

°

LẬP BỐ CỤC

 

Sau khi đọc và ghi chú tất cả tài liệu kiếm được về một vấn đề, tôi bỏ ra một thời gian để suy nghĩ, thời gian này có thể là một tuần hay nửa tháng rồi mới lập một bố cục sơ sài cho tác phẩm. Tôi chia làm mấy phần, mấy chương, tạm đặt nhan đề cho mỗi phần, mỗi chương. Tôi nói tạm vì sau khi viết xong cả tác phẩm, tôi mới đặt lại nhan đề cho sát với nội dung.

 

Rồi tôi bắt đầu từ chương I. Tôi ghi lại vắn tắt trên những tờ giấy rời ý và tài liệu tôi tính đặt vào chương đó. Thường phải vài trang giấy lớn mới ghi được đủ. Ghi đủ rồi tôi đánh dấu ý nào tài liệu nào cho vào đoạn đầu, đoạn hai, đoạn ba v.v… Đó là công việc chia thành đoạn. Trong mỗi đoạn tôi sắp lại ý nào để trước, ý nào để sau; tôi rất coi trọng công việc này vì tôi muốn các ý nối tiếp nhau một cách tự nhiên. Công việc lập bố cục cho từng chương đó, luôn luôn tôi phải làm hai hay ba lần. Hồi mới viết, từ khoảng 1955 trở về trước, tôi lập bố cục tỉ mỉ cho từng chương, lập xong chỉ việc theo bố cục mà viết, rất ít khi phải sửa đổi, thêm bớt. Về sau tôi thấy không cần phải chặt chẽ quá như vậy: chỉ có một bố cục đại khái thôi; rồi trong khi viết, có thể ý nọ gợi ý kia, nảy ra ý mới, hoặc thấy nên đảo một vài ý trong bố cục, nhất là có thể bỏ một ý nào đó đi, thêm vào một ý khác; tóm lại là có thể xáo trộn bố cục ít nhiều, như vậy có lợi là ý đột ngột hơn, văn tươi tắn hơn, viết thú hơn, chứ không có hại gì cả; và tôi giữ lối viết đó cho tới ngày nay. 

 

°

 

VIẾT

 

Khi đã bắt đầu viết, tôi không thể nhởn nha được, ít nhất phải viết cho hết chương, chứ không bỏ dở để làm một công việc khác. Nếu có công việc khác gấp thì tôi cũng phải diễn tất cả các ý trong chương, dù là vội vàng, rồi sau sẽ sửa lại.

 

Thường một cuốn độ 200 trang mà dễ viết – loại Học làm người chẳng hạn – thì tôi viết một hơi hai tháng là xong; rồi tôi nghỉ một tuần hay nửa tháng trước khi bắt tay qua cuốn sau. Thời gian nghỉ đó là thời gian tôi tha hồ đọc sách báo vừa để tiêu khiển, vừa để kiếm tài liệu. Luôn luôn tôi có sẵn vài đề tài để viết, nên không lúc nào thiếu công việc.

 

Gặp những cuốn khó viết, loại văn học, triết học Trung Quốc, phải 9-10 tháng, một năm mới xong, tôi chia làm từng chặng, từng đợt hai ba tháng một.

 

Văn Chiến Quốc sách rất cổ, rất khó hiểu mà tôi lại không kiếm ra được một bản chú giải nào vừa ý, nên phải so sánh ba bốn bản, dùng cả bản bạch thoại, lại phải tra hai bộ từ điển Trung Hoa, có khi mất cả một ngày mới dịch được một trang. Trong khi dịch bộ đó tôi đau bao tử liên miên, phải vừa xoa bụng vừa viết, đau quá thì nằm nghỉ một chút rồi ngồi lên viết tiếp. Năm đó nhà tôi qua Pháp, tôi phải dạy thay mấy tháng, nên tôi làm việc quá sức. Bộ đó tôi phải dựa vào ba chặng, cuối mỗi chặng nghỉ nửa tháng.

 

Cuốn Văn học Trung Quốc hiện đại cũng tốn sức rất nhiều. Năm 1953, tôi đã viết bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc để tìm hiểu, tự học, in bộ đó rồi, tôi tự hẹn sẽ tìm hiểu kỹ hơn về văn học hiện đại Trung Quốc để bổ túc, và từ khoảng 1960 tôi nhờ vài người bạn thân kiếm cho một số sách báo ngoại quốc viết về văn học Trung Quốc từ cuối Thanh đến nay, nhưng chỉ có mỗi một ông bạn, ông Tạ Trọng Hiệp ở Paris, kiếm cho được cuốn History of Modern Chinese fiction của C.T Hsia. Rốt cuộc trong 5-6 năm, tôi chỉ thu thập được 6-7 cuốn, một số của cộng sản, một số của Mỹ và Pháp, tuyệt nhiên không có cuốn nào của vùng quốc gia (Đài Loan). Thành thử tài liệu về thơ và kịch hiện đại tôi gần như không có gì, nên không thể giới thiệu hai loại đó cũng tương đối kỹ như giới thiệu tiểu thuyết được. Khuyết điểm đó rất nặng, nhưng tôi cũng miễn cưỡng soạn cho xong. Miễn cưỡng chứ không phải cẩu thả; trái lại là khác, mỗi chương, nhất là trong tập II, tôi tốn nhiều công, viết xong thấy rất mệt, có cảm giác như leo một ngọn núi. Và trước sau tôi cũng phải nghỉ 2-3 lần sau mỗi chặng đường. Độc giả làm sao biết được nỗi khó khăn đó.

 

Viết xong cuốn nào, tôi sửa lại liền, trước khi in. Có thể là 5-6 tháng sau hoặc mười năm sau tôi mới sửa lại một lần nữa.

 

Nhiều nhà văn phải đợi lúc có hứng rồi mới viết được. Họ gợi hứng bằng nhiều cách: uống cà phê, trà đậm, hút thuốc hết điếu này đến điếu khác; có người nghe một bản nhạc hoặc đọc vài trang trong một cuốn mà họ thích, rồi mới bắt đầu viết. André Maurois có hồi đọc Tolstoi, Tourguéniev để gây hứng.

 

Tôi thì dù không có hứng cũng cứ đúng giờ ngồi vào bàn viết, viết bừa vài câu, nửa trang rồi hứng tự nhiên tới. Khi đã mải mê viết rồi thì tôi không để ý tới những tiếng động ở chung quanh; tuy nhiên tôi vẫn thích làm việc ở một chỗ tĩnh mịch và luôn một hơi 2-3 giờ liền mà không bị quấy rầy.

 

BÚT PHÁP CỦA TÔI: TỰ NHIÊN THÀNH THỰC

 

Có một số rất ít nhà văn tự tạo một bút pháp (style) đặc biệt, không giống một ai. Ở Pháp ta có thể kể La Bruyère (thế kỷ XVII), văn cô động, linh động, dùng những câu rất ngắn, gần như châm ngôn; Marcel Proust trái lại, dùng những câu rất dài, xen nhiều mệnh đề phụ để phân tích tỉ mỉ tâm lý con người, mô tả mọi nét đặc biệt của một cảnh vật.

 

Ở nước ta, khoảng năm 1930, Hoàng Tích Chu tạo một lối văn viết báo gồm những câu cụt ngủn, trái với lối nặng nề của Phạm Quỳnh. Gần đây có Hư Chu và Mai Thảo.

 

Hư Chu chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, thường dùng chữ cổ, những câu ngắn có những vế nhỏ đối nhau, và rất chú trọng đến nhạc, đọc lên ta thấy cứ một vế, hoặc một câu bổng thì lại tới một vế, một câu trầm, giọng văn cứ đều đều lên xuống. Ví dụ:

 

“Nguỵ lại nghèo lắm. Cơm không đủ hai bữa, áo chỉ độc một manh. Nhà cửa thì vách đất giường tre; cả gia sản duy chỉ có một bụng chữ thánh hiền là đặng giá. Người vợ Nguỵ không chịu được nỗi cơ hàn, đã phải bỏ chồng mà đi mất. Những là chê chồng chẳng tốt đẹp bằng người, huống chi còn lấy sự hỏng thi của Nguỵ làm điều xấu hổ. Nhưng chàng cũng chẳng buồn. Đêm ngày vẫn khổ công học tập, sinh nhai về nghề vẽ tranh, viết trướng kiếm ăn”. (Nam Hải truyền kỳ - tr. 161).

 

Mai Thảo đặc biệt hơn, bỏ cả ngữ pháp để có một lối viết mà người ta chê là “làm duyên, làm dáng”:

 

“Chỉ một câu hò mái đẩy ai oán đã dư thừa làm hứng cho Phạm Duy nhạc và Lưu Trọng Lư thơ” (Căn nhà vùng nước mặn - tr. 127).

 

Nhạc thơ ở đây dùng làm động từ.

 

“Yêu chùa Hương cách một con suối, ngăn một triền núi, cao một mênh mông, thấp một thăm thẳm”. (Căn nhà vùng nước mặn - tr. 141).

 

Hai tiếng một sau dùng rất cầu kì, không có nghĩa gì cả, chỉ để thành hai vế, mỗi vế 4 tiếng như hai vế trên.

 

Một số nhà văn khác chịu ảnh hưởng rất đậm của một bậc thầy, và theo đúng bút pháp của thầy, như nữ sĩ Mộng Tuyết với thi sĩ Đông Hồ; nữ sĩ Nguyễn Thị Vịnh với tiểu thuyết gia Nhất Linh. Hạng này nhiều hơn hạng trên.

 

Nhiều nhất là hạng thứ ba: có một bút pháp tự nhiên. Tôi thuộc vào hạng này. Tôi nhận thấy trong số các bạn văn của tôi, người nào to lớn bệ vệ thì văn nặng nề; người nào nhanh nhẹn, nóng nảy thì văn nhẹ nhàng, sắc bén; người nào hóm hỉnh thì văn tươi, người nào kiểu cách thì văn bóng bảy mà đa xảo…; tóm lại, cá tính ra sao thì bút pháp như vậy. Tôi gọi như vậy là bút pháp tự nhiên. Cá tính nào cũng có điểm dễ thương, không bao giờ hoàn toàn xấu thì bút pháp cũng có thể có ưu điểm miễn là thành thực.

 

Trong bài Bút pháp và cá tính (Giữ thơm quê mẹ - số 7, năm 1965, sau in vô cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa –Tao Đàn – 1967), tôi đã viết: “Chính cá tính quyết định bút pháp. Mà cá tính thì do bẩm sinh, và tuỳ thể chất một phần lớn, một phần nữa thì chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, của sự tôi luyện. Cho nên tôi có thể nói rằng bút pháp của ta đã định trước từ khi ta chưa tập viết, chưa biết viết: nó là vóc người, là dáng đi, là nhịp điệu của hơi thở, là sự tuần hoàn trong huyết quản, là sự tác động của các hạch nội tiết. Tất nhiên càng sống thì tư tưởng có thể càng tiến, kỹ thuật có thể càng già, nhân sinh quan có thể thay đổi, nhưng giọng văn, lối viết thì không thay đổi mấy, vẫn nhận ra được. Thơ của Đông Hồ, Vũ Hoàng Chương chẳng hạn, ngày nay vẫn giữ được những nét riêng của mỗi nhà thơ từ thời trước; mà những nét riêng trong thơ ấy chính là những nét riêng trong tính tình, thể chất của mỗi nhà…[1].

 

Đứng về phương diện khoa học, không có cá tính nào là xấu, mà đứng về phương diện nghệ thuật cũng không có bút pháp nào là bản nhiên dở. Uỷ mị có cái đẹp của nó, hùng hồn có sức lôi cuốn của nó; đẽo gọt là một nghệ thuật mà tự nhiên cũng là một nghệ thuật (…) tất cả vấn đề là diễn được đúng những cái mà chúng ta muốn diễn và gây được trong lòng độc giả những cảm xúc như chính ta cảm xúc.

 

Hiểu được như vậy rồi thì (…) ta sẽ can đảm nhận cá tính của ta, dùng bút pháp nó đã lựa, định cho ta, (…) đừng ngại sẽ không bằng nhà này nhà khác (…), cần nhất là phải dám là ta, phải thành thực với ta đã. Có thành thực mới cảm được người. Có thành thực mới đáng cầm cây viết (…)”.

 

Thành thực có hai nghĩa.

 

Nghĩa thứ nhất: không cảm xúc thì đừng viết. Những bài văn mà tôi đắc ý và được bạn văn cùng độc giả thích hầu hết là những bài tôi rất thành thật với tôi, nghĩ sao viết vậy, cảm xúc ra sao thì diễn ra như vậy, như những hồi kí, tạp bút: Làm con nên nhớ, Cháu bà nội, tội bà ngoại, Con đường hoà bình, Hoa đào năm trước (Lá Bối in trong loại Bông hồng cài áo), Cụ Phan và lòng dân (Trình bày – 1967), Ý nghĩa cái chết của giáo sư Trần Vinh Anh. (Bách Khoa – số 254, ngày 1.8.67)…

 

Nghĩa thứ nhì là khi viết, phải quên hết danh sĩ cổ kim, quên hết mọi kỹ thuật làm văn, mà chỉ theo cá tính của mình. Phải như anh em họ Viên trong phái Công An đời Minh, “để cho miệng và tay tự nhiên”; hơn nữa phải như Hoàng Sơn Cốc đời Bắc Tống, “để cho chương cú ngẫu nhiên thành như đường do sâu đục trong khúc cây” thì văn mới thực là cảm mạnh và thú vị; đôi khi còn nên, như Jules Renard đã khuyên, cứ phóng bút mà viết, đừng trao dồi, để cho văn được uyển chuyển, mềm mại. Văn của Tô Đông Pha được người đời khen là “hành vân lưu thuỷ”, chính là do ông phóng bút mà viết.

 

Viết như vậy thì là một việc tự nhiên như thở, nhẹ nhàng, dễ dàng; tuỳ cảm xúc mà văn lúc thì bình tĩnh, lúc thì bồng bột, lúc vui, lúc buồn, lúc phẫn nộ, lúc mỉa mai…; lúc nhanh lúc chậm, lúc tiến lúc lui; giọng thay đổi có khi đột ngột, lôi cuốn được độc giả.

 

Viết được đoạn đầu rồi thì cứ cho ngọn bút theo cái đà tư tưởng, cảm xúc của ta mà phần trước lôi kéo phần sau cho tới khi diễn hết những điều ta muốn nói rồi thì ngừng, đừng thêm gì cả.

 

°

 

SỰ BÌNH DỊ

 

Tôi như phần đông, hồi trẻ hơi mắc tật khoa trương khi tập viết những bài tuỳ bút, tiểu luận theo lối cổ văn Trung Quốc; những bài đó hầu hết đã huỷ bỏ không cho in. Dần dần, tuổi càng lớn, tôi càng trọng sự bình dị hơn, khi sửa lại văn, thường xoá nhiều hơn là thêm. Nhất là những hư từ ở cuối câu, những tĩnh từ (adjectif) đặt sau một danh từ, nếu không thật cần thiết thì gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng tôi không theo Renan được; ông bỏ ra một năm để sửa bộ Vie de Jésus cho văn hết bóng bảy mà thật giản phác. Có thể vì cá tính của tôi khác ông mà cũng có thể vì những đề tài tôi viết không có tính cách cổ kính như tác phẩm đó của ông.

 

Tôi trọng sự bình dị mà cũng trọng cá tính của tôi nữa. Đã lâu rồi, có lần viết xong một tác phẩm, tôi đưa cho một anh bạn thân coi lại giùm để góp ý kiến về nội dung và hình thức. Anh bạn đó đối với tôi rất chân thành mà viết văn rất kỹ: uống cà phê đặc và hút thuốc để thức đến một hai giờ khuya đẽo gọt vài câu văn là cái thú thường ngày của anh. Lần đó anh bôi cả một đoạn văn ký sự của tôi rồi chịu khó viết lại giùm: đảo lên đảo xuống, tỉa bớt cho cô lại, thêm cho có nhạc hơn. Tôi khen anh sửa khéo, nhưng khi in, tôi vẫn giữ đoạn văn của tôi vì tôi nghĩ nó tự nhiên hơn, diễn đúng ý của tôi, cảm xúc của tôi, nhất là vì nó có giọng của tôi, mang cá tính của tôi. Nó là tôi.

 

Lâm Ngữ Đường trong cuốn The importance of living[2] có những nhận xét sâu sắc về đức bình dị trong văn. Ông viết:

 

“… Sự bình dị là điều khó đạt được nhất (…) trong văn chương (…). Muốn được bình dị thì trước hết phải tiêu hoá nổi tư tưởng và óc cũng phải già giặn: khi chúng ta về già, tư tưởng của chúng ta sáng sủa hơn; ta bỏ ra một bên những phương diện không quan trọng mà có lẽ sai lầm của vấn đề, không băn khoăn về nó nữa; ý tưởng ta hình thành một cách rõ ràng hơn và những chuỗi tư tưởng dần dần tự hiện lên thành những lời văn gọn gàng, giản dị (…). Ta không thấy phải cố gắng sức nữa mà sự thực hoá ra sáng sủa và do đó hoá ra bình dị. Sự tự nhiên của tư tưởng và bút pháp đó mà các thi sĩ và phê bình gia Trung Hoa rất tôn trọng, được coi là một sự già giặn tiệm tiến. Khi chúng ta nói đến sự già giặn tiệm tiến trong văn xuôi của Tô Đông Pha là chúng ta muốn bảo rằng họ Tô đã dần dần tiến lại sự tự nhiên, tiến gần tới một bút pháp thoát ly được cái thói phù hoa, thói dởm, cái thói khoe tài, thói dàn cảnh của tuổi trẻ”.

 

Theo tôi văn bình dị khó nhất ở điểm phải có ý cao, tình đẹp nếu không thì hoá ra nhạt nhẽo, vô vị. Phải từng trải cho nhiều, đau khổ cho lắm như Tư Mã Thiên, Hàn Dũ, Dostoievski – “cùng nhi hậu công” là nghĩa vậy; phải coi được nhiều kỳ quan của vũ trụ như Lý Bạch, J. London; phải học thật rộng như Tô Thức, Vương Dương Minh, Tagore; phải suy nghĩ cho thật chín như Thích Ca ở dưới gốc Bồ Đề, như Ki Tô ở trong núi, lại phải được trời phú bẩm cho một tâm hồn thanh cao, một trí óc sáng suốt; tóm lại phải vào hạng siêu nhân lại tốn công tu luyện – J. London thiếu công đó – mới đạt được cái nghệ thuật siêu đẳng là bình dị, tự nhiên, biết thế nào là không thừa, không thiếu, không non nớt mà cũng không phóng đại.

 

Khó như vậy nên từ xưa tới nay những nhà văn bình dị mà bất hủ mới rất hiếm: Lý Bạch được độ mươi bài thơ và bài cổ văn, Đỗ Phủ ít hơn. Tô Đông Pha được mươi bài cổ văn, dăm bài thơ, Nguyễn Du được vài chục câu trong Kiều, chục câu trong Văn tế thập loại chúng sinh… còn những nhà khác chỉ được vài bài. Những nhà lưu danh nhất trong lịch sử nhân loại lại chính là những nhà có những tư tưởng cao siêu nhất, tình cảm cao thượng nhất mà những nhà đó không hề làm văn bao giờ[3].

 

Platon không sánh được mấy nhà kể trên, nhưng nhờ được chứng kiến cái chết của thầy học là Socrate – một triết gia tâm hồn rất cao thượng – mà cũng lưu lại được một trang bất hủ tôi đã dẫn trong bộ Hương sắc trong vườn văn, chương XIII.

 

Đọc trang đó ta thấy Platon không sắp đặt gì cả, việc xảy tới đâu chép tới đấy; lập đi lập lại những tiếng , rồi, người, có vẻ lôi thôi nữa, và chúng ta nghĩ bụng: “Ai mà viết chẳng được như vậy”. Phải, chúng ta đều viết được như vậy miễn là được chứng kiến cái chết cao cả và cảm động của Socrate. Cái “đẹp” ở đây là cái đẹp tự nhiên, không cần tô điểm, mà làm cho tâm hồn ta cao thượng lên. Khi một hành vi, một thái độ đã tột bực cao đẹp thì càng tô chuốt càng hỏng, nên Platon không dùng một hình ảnh nào cả. Phải có điều kiện như vậy thì văn bình dị và tự nhiên mới khỏi vô vị.

 

°

KHÔNG QUÊN ĐỘC GIẢ - YÊU ĐỀ TÀI

 

Tôi viết nhiều loại sách cho nhiều hạng độc giả; từ người già tới thanh niên và cả trẻ em nữa; cho nên khi viết tôi phải nghĩ đến hạng độc giả của mỗi loại sách, viết sao cho họ hiểu được, nếu cần thì phải chú thích.

 

Cũng là viết về văn học Trung Quốc, mà bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc thuộc loại phổ thông, cho nên trình bày như một sách giáo khoa khác hẳn bộ Chiến Quốc sáchSử kí thuộc loại biên khảo viết cho những độc giả đã hiểu biết ít nhiều về Trung Hoa.

 

Soạn sách tôi chỉ nhắm mục đích tự học và giúp độc giả tự học. Tôi nghĩ đến cái lợi của độc giả trước hết, chẳng hề tự cho mình có “sứ mạng” gì cả, mà cũng không hề mong được nổi tiếng, chỉ cần được một số độc giả tin mình thôi.

 

Có thích vấn đề nào thì tôi mới viết: Thấy vui trong khi viết, bấy nhiêu đủ cho tôi rồi. Khi viết tiểu sử danh nhân, tôi lựa những nhà có tâm hồn đẹp, có công với nhân loại: tôi gom góp càng nhiều tài liệu về họ càng tốt (tôi bỏ nhiều năm kiếm tài liệu về Helen Keller[4]) tìm hiểu những đau khổ, gắng sức, thành bại của họ rồi rung động, say mê kể lại cuộc đời của họ để làm gương cho đời; tóm lại tôi thực tâm yêu quý những vị mà tôi viết, nhờ vậy loại Gương danh nhân của tôi (gồm khoảng chục cuốn) được độc giả hoan nghênh, khen là hấp dẫn, cảm động hơn những cuốn người khác viết. Phải chính mình thích cái gì mình viết thì độc giả mới thích nó được. Đó là qui tắc của tôi.

 

Tôi biết có những đề tài viết ra, bán sẽ rất chạy, nhưng tôi nhất định không viết, vì tôi không thích (chẳng hạn đời của hạng người như Thành Cát Tư Hản, Hitler); hoặc vì tôi thấy có hại cho độc giả (như tư tưởng của nhóm Hiện sinh ở Âu mà tôi cho là không hợp với dân tộc mình, xã hội mình lúc này).

 

Trái lại có những đề tài tôi biết là rất ít người đọc, nhưng thấy có lợi cho kiến thức của độc giả thì tôi cũng viết như cuốn Một niềm tin, chỉ in 2.000 bản mà bán sáu bảy năm chưa hết. Tôi không cầu danh hay lợi; có một số bạn hiểu mình, có dư một số tiền là đủ rồi.

 

°

CHÍNH TẢ - DÙNG CHỮ

 

Tôi rất chú trọng đến chính tả và sự dùng chữ cho đúng. Chỗ ngồi viết, sau lưng tôi kê một cái tủ mà hai ngăn chứa toàn tự điển, non hai chục bộ, lớn nhỏ: Việt, Pháp, Anh, Hán: tự điển văn liệu, điển tích, đồng âm, đồng nghĩa…, tôi chỉ cần quay lại, với tay là lấy được liền.

 

Cuốn tôi hay dùng hơn cả là cuốn Việt ngữ chánh tả của Lê Ngọc Trụ (Thanh Tân - 1960), nhất là cuốn Việt ngữ chính tả đối chiếu tự vị giản yếu của Phạm Trọng Kiên và Nguyễn Văn Tòng (Thế Giới – 1950). Trước khi có cuốn sau tôi cũng làm một cuốn sổ tay chép những tiếng tôi chưa thuộc chánh tả, sắp theo ba mục: tiếng bắt đầu bằng CH, TR; tiếng bắt đầu bằng D, GI, R; và tiếng bắt đầu bằng S, X.

 

Kiếm được cuốn của Phạm Trọng Kiên và Nguyễn Văn Tòng rồi, tôi bỏ sổ tay của tôi mà dùng cuốn đó. Chỉ dày 100 trang khỗ 11 x 15 phân, giá có 12 đ, mà nó giúp tôi được rất nhiều, cơ hồ không ngày nào tôi không tra nó; chỉ khi nào tra mà không thấy, chẳng hạn tiếng “nước ròng”, “lúa sạ”, “xối nước”, “dẽ đất”… tôi mới phải dùng cuốn của Lê Ngọc Trụ vì cuốn này tra mất công hơn.

 

Cuốn đó thiếu nhiều, lại soạn riêng cho người Bắc nên có lần tôi đề nghị với một nhà xuất bản in một cuốn cũng giản yếu và đối chiếu như vậy nhưng khá đầy đủ, soạn chung cho người Bắc và Nam: người Bắc thường viết sai phụ âm đầu, người Nam hay lầm các vần và hai dấu hỏi, ngã.[5] Những công việc nho nhỏ, tầm thường như vậy mà lại hữu ích vô cùng, tiết kiệm cho người dùng được nhiều thì giờ.

 

Hồi mới xuất bản được vài cuốn, mỗi lần sách phát hành rồi, đọc lại còn thấy sót lỗi của thợ sắp chữ hoặc lỗi của chính tôi, tôi bực mình lắm. Nhưng chỉ vài ba năm sau tôi đâm chai ra, cho rằng nhận lỗi là phải còn ân hận, thắc mắc về lỗi của mình thì chỉ hại cho tâm thần, công việc của mình thôi, và tôi tự an ủi bằng câu này của người Hồi giáo: “Chỉ có Allah – Thượng Đế - mới hoàn toàn”.

 

Tôi nhớ một nhà xuất bản phương Tây quyết tâm in cuốn Thánh Kinh (Bible) không có một lỗi nào. Sắp chữ xong một số trang, họ vỗ một bản dán ở trước cửa, yêu cầu tất cả nhân viên đọc, hễ thấy lỗi thì chỉ cho để sửa lại, rồi mới in. Vậy mà khi in xong, đóng bìa rồi, một người mới tìm ra được một lỗi nặng ở ngay đầu sách: chữ Bible đã sắp chữ lầm ra Bilbe

 

Một người Ả Rập dệt xong một tấm thảm, soát lại từng đường dệt, không thấy một lỗi nào, cho như vậy là xúc phạm Allah (vì chỉ có Allah mới hoàn toàn), liền tháo một mối dệt, sửa lại cho thành một lỗi nhỏ.

 

Hai chuyện đó có thể chỉ là những giai thoại không có thực, nhưng cả hai đều có ý nghĩa, và khuyên ta cứ làm hết sức mình, đừng cầu toàn ở mình và trách bị ở người. Tôi còn nghĩ rằng Thượng Đế cũng không hoàn toàn nữa: cái thế giới mà Thượng Đế tạo ra này có biết bao điều khó hiểu, vô lý, mâu thuẫn, đâu phải là hoàn toàn. Khi học được cái khôn của người Ả Rập rồi, tôi bình thản hơn, hễ thấy lỗi nào trong tác phẩm đã in của tôi thì tôi sửa ngay trên một bản để tôi dùng riêng rồi quên nó đi.

 

Ngày nay, nếu có thì giờ đọc lại trăm tác phẩm của tôi thì thế nào trong mỗi cuốn cũng thấy được ít nhất là vài ba lỗi nặng, không kể những lỗi sai chính tả hay in lầm. Nhưng tôi sẽ không phí công sửa chữa, vì có sửa ba bốn lần nữa thì hết được lỗi nặng mà vẫn còn những chỗ không vừa ý, lại ngứa tay muốn sửa nữa. Để thì giờ làm công việc khác lợi hơn nhiều.

 

DỊCH LOẠI PHỔ THÔNG KIẾN THỨC

 

Số trang tôi dịch cũng ngang với số trang tôi viết, và những sách dịch của tôi có thể chia đại khái làm hai loại: loại Học làm người, loại Văn học, Triết học.

 

Xét chung về loại Học làm người và phổ thông kiến thức, giáo dục v.v… thấy đề tài nào nhiều người ngoại quốc hoặc Việt viết rồi thì tôi kiếm càng nhiều càng tốt những sách người ta đã viết, đọc cho biết, so sánh, châm chước ý mỗi nhà, thêm những nhận xét của tôi, rồi viết lại một cuốn cho thanh niên của mình.

 

Thí dụ cuốn Luyện lý trí. Tôi đọc trên mười cuốn Pháp, Việt về vấn đề đó, nhưng tôi không theo một tác giả nào cả vì không thấy một cuốn nào vừa ý; và tôi đã viết lại, nhấn mạnh vào điểm phải có tinh thần phán đoán, đừng vội tin những điều thiên hạ tin, lại phải nghi ngờ cả lời dạy của cổ nhân nữa. Có thể nói rằng tôi đã thành công: tác phẩm của tôi tuy mượn tài liệu trong nhiều tác phẩm mà không giống một tác phẩm nào. Nó hợp với xã hội mình hơn, có ích cho thanh niên mình hơn; nó thực là của tôi. Ngay khi mới xuất bản, một nhân viên trong một cơ quan, du học ở Mỹ đã mấy năm, đọc nó, thích và lại làm quen với tôi.

 

Có trường hợp tôi không cần phải khảo cứu, cứ rút những kinh nghiệm trong đời sống của tôi để viết, như cuốn Tương lai trong tay ta mà độc giả rất hoan nghênh vì lời khuyên thiết thực, giọng chân thành và cảm động. Nó cũng hoàn toàn là của tôi, trình bày nhân sinh quan của tôi.

 

Có thể kể vào loại này những cuốn Kim chỉ nam của học sinh, Tự học một nhu cầu của thời đại v.v… trong đó tôi đưa những kinh nghiệm riêng của tôi, chứ không như một số tác giả chỉ thu thập những ý kiến của phương Tây rồi viết lại.

 

Một độc giả, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nhận thấy điểm đó, viết trong bài Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi (Bách Khoa số 426 – 20.4.75):

 

“Tôi biết có những tác giả còn “sản xuất” mạnh hơn ông, viết mau và viết mạnh hơn ông, nhưng đọc họ người ta thấy rõ ràng là những tác phẩm máy móc, sản xuất hàng loạt. Ở ông Nguyễn Hiến Lê thì không. Ở ông là con người. Tác phẩm của ông là con người ông. Ông “dạy” cho thanh niên rèn nghị lực thì chính ông là một tấm gương nghị lực; ông viết về tổ chức thì chính nếp sống của ông là một sự tổ chức; ông viết về tự học thì chính ông đã nhờ tự học mà thành công. Nhờ viết từ những kinh nghiệm sống thực đó, người đọc thấy gần gũi với ông và những lời ông chỉ dẫn đều ứng dụng được”.

 

Và cũng nhờ vậy mà loại “Học làm người” của tôi được độc giả tin cậy.

 

Sau cùng, có những tác phẩm đặc biệt, của một danh sĩ như André Maurois (Thư ngỏ tuổi đôi mươi, Thư gởi người đàn bà không quen biết), B. Russel (Chinh phục hạnh phúc), Lâm Ngữ Đường (Sống đẹp), A. Bennett (Sống hai mươi bốn giờ một ngày) hay một tác giả không phải là danh sĩ, nhưng chứa nhiều ý rất mới như Xây dựng hạnh phúc của L.A. Huxley, vợ nhà văn Aldous Huxley; hoặc viết rất hấp dẫn, đào sâu một vấn đề như Đắc nhân tâm, Quảng gánh lo của Dale Carnegie… thì tôi phải dịch, vì tự xét viết không thế nào bằng tác giả được. Dịch loại này, trừ các tác phẩm của danh sĩ, tôi thường dịch thoát, có thể cắt bớt, có thể sửa đổi vài chỗ cho hợp với người mình. Nếu sửa thì cho độc giả biết.

 

°

 

DỊCH TRIẾT HỌC, VĂN HỌC

 

Loại triết học, văn học thì luôn luôn tôi dịch sát (đức tín) và xuôi (đức thuận), sáng sủa, nếu cần thì chú thích.

 

Tôi dịch nhiều nhất là sách triết Trung Hoa, công việc tương đối dễ, không phải tạo danh từ mới để diễn những ý niệm mới như dịch sách triết Tây phương. Cần nhất là hiểu kỹ ý trong sách và muốn vậy phải có những bản chú thích tốt.

 

Dịch sách văn học khó hơn dịch sách triết học vì chẳng những dịch sát ý mà còn phải giữ cả thể văn, có khi cả phép hành văn của tác giả nữa. Tôi rất ngại việc dịch thơ Trung Hoa, nhất là thơ luật, phải dịch ra thơ luật mà tôi không làm thơ bao giờ. Trong bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc, chỉ có một số ít bài do tôi dịch, mà toàn là những bài dễ, còn hầu hết đều do bác ba tôi dịch cho và ký tên là Vô danh. Nhưng thơ cổ phong loại “từ” (một thể thơ) và loại thơ mới của Trung Hoa thì tôi có thể dịch được vì không bị trói buộc vào niêm luật.

 

Trái lại, cổ văn Trung Quốc thì tôi tự dịch lấy hết, diễn được đúng ý và thể (biền ngẫu, phú) của nguyên tác, nhiều độc giả cho là thành công.

 

Dịch tiểu thuyết phương Tây, tôi nghĩ rằng muốn thành công thì phải lựa một tác phẩm hay, mà bút pháp tác giả không trái với bút pháp của tôi, bình dị, tự nhiên như Léon Tolstoi, Somerset Maugham… vì có vậy thì dịch mới thú, độc giả mới thấy thích. Tôi sợ nhất là dịch Marcel Proust: có lần tôi chỉ dịch một trang của ông mất cả một buổi, sửa đi sửa lại mấy lần vẫn không vừa ý. Tôi chắc bất kỳ người Việt nào dịch văn hào đó cũng thấy khó nhọc như tôi.

 

Dịch tiểu thuyết Âu Mỹ khó hơn dịch tiểu thuyết Trung Hoa. Mỗi ngôn ngữ có một lối phô diễn tư tưởng, không thể áp dụng bừa bãi lối của người vào ngôn ngữ của mình được. Giữa Việt ngữ và Hoa ngữ, sự cách biệt không là bao vì cả hai đều thuộc loại ngôn ngữ cách thể (langue isolante – xưa gọi là đơn âm) và hai dân tộc đồng văn với nhau; nhưng giữa Việt ngữ và Pháp ngữ hoặc Anh ngữ có một bức tường, không phải chỉ phủ nhận bức tường đó là làm cho nó biến đi được.

 

Không những vậy, tâm hồn của người Âu cũng khác của mình, lối suy nghĩ, nhìn đời của họ cũng vậy, họ lại có những dụng ngữ, ý niệm mà chúng ta không có (chẳng hạn những tiếng gentlement, honnêtre homme, bourgeois chúng ta không thể dịch cho thật đúng được); ngược lại chúng ta cũng có những dụng ngữ, ý niệm mà họ không có (như tiếng quân tử, sĩ phu, âm dương…).

 

Vì vậy, dịch sách Pháp, Anh chúng ta thường phải dịch thoát, đảo lên đảo xuống, thay đổi tổ chức của câu, có khi ta bắt buộc phải tìm hiểu ý của tác giả rồi quên nguyên tác đi, diễn lại ra sao cho hợp với tinh thần tiếng Việt, để những đồng bào không biết ngoại ngữ hiểu được như ta, hiểu mà không thấy bỡ ngỡ, chướng tai. Dịch các sách khoa học mà như vậy thì không có hại, dịch văn thơ mà phải theo lối đó thì cái hay trong nguyên tác mười phần mất đến sáu bảy, như trường hợp dịch Chateaubriant, Anatole France, hai nhà này là những nghệ sĩ, văn du dương như thơ.

 

Cách xưng hô, nói năng của họ khác mình, Pháp có những tiếng je, vous, il, mình phải khéo chuyển ra tiếng Việt cho hợp với mỗi hạng người. Vợ chồng họ thường gọi nhau chéri (e) cả trước mặt người lạ; chúng ta không thể dịch sát nghĩa ra là anh yêu dấu hoặc em cưng được, chỉ có thể dịch ra là “mình” hoặc “em”, trừ khi hai vợ chồng ở trong phòng riêng tỏ vẻ âu yếm với nhau.

 

Rồi những câu tục ngữ của họ nữa, dịch sát thì cũng được, nhưng như vậy thì không khéo mà phải chú thích, tôi phải ráng tìm một tục ngữ Việt tương đương để chuyển. Chẳng hạn trong bộ Chiến tranh và Hoà bình, L. Tolstoi cho một nhân vật trong truyện bảo một thiếu nữ: “Sao em không ở nhà mà quay xa”, một bản tiếng Pháp chuyển ra thành: “Sao em không yên ổn trồng rau, chúng đánh đau thì chịu”; tôi tìm được câu tục ngữ tương đương mà gọn: “trêu có, cò mổ mắt”. Nhưng mười lần, may lắm là tìm ta được dăm ba lần, như vậy cũng là may rồi.

 

Ông Vi Huyền Đắc không dịch câu: “Nous nous connaissions depuis l’âge des chausesettes” là “Chúng tôi biết nhau từ khi còn đi vớ ngắn” (vì trẻ em Việt rất ít khi đi vớ), cũng không dịch là “chúng tôi biết nhau từ khi còn để chỏm” (vì trẻ em Pháp không để chỏm); mà dịch là “chúng tôi biết nhau từ khi hỉ mũi chưa sạch”. Cũng đã là khéo chuyển lắm. Độc giả đọc chỉ thấy xuôi tai thôi, ít ai nhận được công phu của người dịch.

 

°

 

DỊCH MỘT TIỂU THUYẾT DÀI

 

Tôi rút ra được kinh nghiệm này khi dịch những tiểu thuyết dài 7- 8 trăm trang trở lên của Anh, Pháp, Nga.

 

Muốn cho bản dịch được nhất trí, và đỡ mất thì giờ, nên chép lên một tờ giấy riêng tên những đồ dùng của họ mà mình không có, như cái samovar, cái traîneau… tìm một cách dịch, rồi ghi ngay ở bên cạnh, chẳng hạn: ấm lò, xe trượt tuyết… để sau gặp lại kiếm được ngay, khỏi phải dịch lại.

 

Những tiếng có nhiều nghĩa như tiếng animé, tuỳ chỗ phải dịch là có hồn, có sinh lực, náo nhiệt, khởi sắc, hung hăng, hoạt động, hoạt bát, nhiệt tâm, linh động, hồng hào, hăng hái, kịch liệt… cũng nên ghi tất cả những nghĩa đó trên một tờ giấy riêng để sau dễ lựa nghĩa nào hợp với đoạn văn phải dịch.

 

Nhất là phải lập một bảng ghi tên các nhân vật chính và phụ trong truyện với địa vị xã hội, nghề nghiệp, tuổi tác, tình bạn bè hoặc họ hàng giữa những nhân vật này với nhân vật khác; định cho nó một cách xưng hô với nhau hồi trẻ ra sao, về già ra sao… để khỏi mắc lỗi mâu thuẫn trong cách xưng hô. Vì không lập bảng ngay từ đầu bộ Chiến tranh và Hoà bình mà tôi đã tốn rất nhiều thì giờ, có khi dịch cả ngàn trang rồi phải lật lại những trang trước để tìm xem nhân vật này gọi một nhân vật khác là gì: anh hay cậu, chị hay cô, bác hay chú… Dịch xong mỗi chương cũng nên tóm tắt truyện trong chương để sau tra lại cho dễ.

 

Văn dịch của chúng ta ngày nay so với ba chục năm về trước đã tiến bộ, bớt lai căng, nhưng vẫn còn một số dịch giả cả ở Nam lẫn ở Bắc làm việc cẩu thả, dịch đúng từng chữ, không chịu tìm cách chuyển qua tiếng Việt, thành thử lời đã sượng, ý lại rất tối. Năm 1968, trong tạp chí Bách Khoa số 281[6], tôi đã nêu vấn đề đó, đưa ra nhiều thí dụ. Muốn mau trừ cái tệ đó, tôi nghĩ các nhà xuất bản và nhà báo phải từ chối tất cả các bản dịch có giọng lai căng, không xuôi tai, chỉ có cách đó mới bắt người dịch phải tìm ra những cách phô diễn mới mà thích hợp với Việt ngữ. Công việc này rất có lợi cho Việt ngữ, phải tốn sức trong một thời gian dài, có thể vài ba chục năm.

Chú thích:

[1] Tập du kí Đế Thiên Đế Thích, tôi viết từ 1943; năm 1968. hai mươi lăm năm sau mới xuất bản, nhà văn Võ Phiến đọc rồi, bảo văn tôi trong hai mươi lăm năm đó không có gì thay đổi.

[2] Bản Việt dịch của NHL có nhan đề là Một quan niệm về Sống đẹp, thường được gọi tắt là Sống đẹp. (Goldfish).

[3] Trong Hồi kí, tác giả cho biết những nhà đó là: Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử, Ki Tô. (Goldfish).

[4] Tiểu sử danh nhân này được in trong cuốn Gương kiên nhẫn. (Goldfish)

[5] Ngay giữa hai cuốn Hồi kíĐVVCT cũng đã có sự khác biệt về chính tả, có lẽ là do biên tập hoặc in ấn. Ví dụ trong Hồi kí in: rán (sức), (già) giặn, lần lần, kĩ (sư), (nước) Mĩ, chánh (tả)… thì trong ĐVVCT lại in là: ráng (sức), (già) dặn, dần dần, kỹ (sư), (nước) Mỹ, chính (tả) … (Goldfish). 

[6] Nhan đề bài báo là Dịch văn ngoại quốc. (Goldfish).