Đời viết văn của tôi

Phần III

VỀ TÂN THẠNH – HỌC ĐÔNG Y

 

 

Tôi ở Tân Thạnh khoảng một năm rưỡi từ mùa đông 1945 đến mùa xuân 1947[1]. Sau hai tháng đầu ở không, thấy tình hình trong nước mỗi ngày một găng thêm, tôi buồn bả và sốt ruột, nhưng vững bụng vì được tin vợ con ở Long Điền yên ổn. Để qua thì giờ tôi ngưng học tiếng Anh vì sách để ở Sài Gòn, mà xin bác tôi dạy Đông y cho.

 

Tôi học bộ Y học toản yếu gồm 6 quyển của Lưu Thánh Tuyền. Tôi đọc rồi bác tôi cắt nghĩa. Thỉnh thoảng có bệnh nhân xa gần lại nhờ bác tôi trị (bác tôi không nhận tiền của ai cả) nên tôi có dịp tập coi mạch.

 

Sau chín mười tháng tôi nhận ra được một số bệnh, biết chút y lý, phân biệt được hàn nhiệt, hư thực trong những trường hợp dễ, sử dụng được một số toa thuốc căn bản, cổ điển: loại bổ, loại tán (làm cho tan tà khí đi, phát hãn), loại hàn (thuốc mát), loại nhiệt (thuốc nóng), loại công (công phá, như thuốc xổ); biết được tính cách non trăm vị thuốc thường dùng: biết gia giảm những vị nào cho hợp với bệnh nhân, lại biết nấu thục địa, sao tẩm một số thuốc.

 

Đọc các sách thuốc khác như bộ Hải Thượng Lãn Ông, tôi hiểu được, nhưng chưa thể làm y sĩ được vì thiếu kinh nghiệm. Sự hiểu biết của tôi chỉ dùng cho người trong nhà về những bệnh thông thường.

 

Tôi thấy y lý của Đông phương phân biệt hàn và nhiệt, hư thực thật tinh tế và rất có lợi. Tôi lấy thí dụ bệnh ho do phải cảm hay thời tiết thay đổi. Nếu phân biệt được hàn nhiệt thì chỉ một hai thang là hết, trong khi nhiều bác sĩ thử hết thuốc nước này, thuốc hoàn khác mà bệnh không dứt. Mới mươi năm trước đây, đọc một số báo Pháp hay Mỹ thấy một bác sĩ chỉ dùng cách này mà trị được một bệnh ho dai dẳng: bảo bệnh nhân vẩy nước trong phòng cho không khí ẩm thấp, mát mẻ; và ngày sau bệnh nhân hết ho. Trường hợp đó Đông y cho là do nhiệt mà ho, uống thuốc mát phổi thì hết. Bệnh đi tiêu chảy, Đông y cũng phân biệt hàn nhiệt và nhiều khi trị rất mau. Bệnh lỵ Đông y phân biệt hàn nhiệt, Tây y phân biệt dysenterie amibienne và dysenterie bacillaire[2]; hai cách phân biệt đó có gì khác nhau không?

 

Đông y có kinh nghiệm lâu đời (trên mấy nghìn năm) và rộng rãi (trên miền Đông Á rộng bằng cả châu Âu không kể Nga) tất có nhiều điều đáng cho Tây y tìm hiểu. Ngày nay ai cũng biết công dụng của hà sa (nhau), đồng tiện (nước tiểu trẻ em), cam thảo (để trị loét bao tử) mà Trung Hoa đã tìm ra được hàng ngàn năm trước; phương Tây đang nghiên cứu khoa châm cứu của Trung Hoa và bây giờ đã có nhiều bác sĩ nhận rằng thận có nhiều tác dụng khác nhau ngoài tác dụng lọc máu, tiết ra nước tiểu, rằng Đông y có lý khi bảo trẻ em và người già cần bổ thận. Nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu rõ quan niệm khí (khí huyết), quan niệm thận thuỷ, thận hoả… của Trung Hoa. Nghiên cứu theo khoa học để tìm hiểu Đông y là việc lý thú và rất có ích cho nhân loại.

 

Tuy nhiên chúng ta phải nhận rằng Đông y chỉ giúp cho Tây y được thôi chứ không thể nào tiến mau như Tây y được, mà cũng không thể phổ biến rộng rãi được. Tây y dùng thuốc hoá học, chế tạo rất nhiều và rất rẻ; Đông y gần như chuyên dùng thảo mộc mà thảo mộc trồng đã lâu, lại phải tuỳ đất, tuỳ thời tiết, phải bào chế; phương pháp dạy, nghiên cứu của Đông y cần phải canh tân. (ch. XVI).

 

Sẵn trong nhà có sách, tôi lại tò mò tìm hiểu các môn Tử vi, Tử bình (gần đây thêm môn Hà lạc) để coi số: môn bói và cả môn địa lý nữa. Những môn đó không giúp gì cho công việc viết lách cho tôi cả, nhưng tôi cũng muốn biết qua để mở mang kiến thức, hiểu văn minh Trung Hoa hơn. Tôi tự học lấy, chỗ nào không hiểu mới hỏi bác tôi.

 

Về môn địa lý, cổ nhân nói phải có “lòng thần, mắt thánh, cẳng tiều phu” (đi bộ giỏi) thì mới lành nghề; tôi không có lòng thần, cũng thiếu mắt thánh, lại sẵn có thành kiến rằng những miền khai phá từ lâu đời rồi như miền đồng bằng nước mình, mặt đất đã thay đổi hẳn vì những công việc đào kinh, cất đường, xây nhà cửa, canh tác…, nếu có long mạch thì cũng không sao nhận ra được, vì vậy mà tôi chỉ đọc bộ Địa lý hám giá cho biết lý thuyết thôi. Đọc sách bói (Dã hạc, bốc phệ chính tôn) tôi thấy thích hơn. Khi đã chấp nhận một số nguyên tắc căn bản mà ta phải tin như những định lý không thể chứng minh được[3] mà nguyên tắc quan trọng nhất là sự sinh khắc của ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) thì ta phải nhận rằng môn bói hợp lô-gích. Nhưng thực hành thì tôi thấy đôi khi gặp một quẻ ứng nghiệm lạ lùng như quẻ tôi xin về bệnh của mẹ tôi: quẻ cho biết sẽ khó qua, nhưng tới ngày đó tháng đó mới mất[4]; và nhiều khi quẻ sai be bét. Một bạn tôi có mấy chục năm kinh nghiệm về môn đó cũng nhận rằng quẻ nghiệm hay không còn tuỳ nhân duyên hay tâm trạng của người xin quẻ, của người gieo tiền, tuỳ lúc, tuỳ giờ hoặc cái gì đó nữa. Về sau tôi bỏ môn đó, nhưng vẫn nhận nó là kỳ dị, huyền bí, chứ không phải là chuyện nói láo.

 

Về ba môn Tử vi, Tử bình, Hà lạc cũng vậy, có khi đúng, và có khi sai hẳn; mà đúng nhiều lắm chỉ được sáu phần mười. Tôi lại nhận thấy cùng một người, ba môn đó đoán có thể khác xa nhau, trái ngược nhau nữa, có giống nhau thì cũng chỉ được 5-6 phần 10. Như vậy, không thể tin riêng môn nào được cả. Tôi cho Tử vi có nhiều điều vô lý, mâu thuẫn hơn hết. Tứ bình hợp lý hơn hết; Tử vi thích hợp với đàn bà, họ muốn biết nhiều chi tiết, mà càng đi vào chi tiết thì càng dễ sai; Tử bình hợp với trí thức, có phần đúng hơn Tử vi (ở Trung Hoa người ta gần như chỉ dùng Tử bình, không dùng Tử vi); còn Hà lạc chỉ cho biết sơ sơ về số mạng, hạn nào tốt, hạn nào xấu, chứ không cho biết gia đình, vợ con ra sao, mà chú trọng nhất đến cách cư xử, tiến thoái nên ra sao cho hợp với ý nghĩa, tuỳ thời của Kinh Dịch, do đó nó thích hợp với người sống theo đạo hơn. (Tóm tắt ch. XVI).

 

°

 

QUA LONG XUYÊN DẠY HỌC VÀ TỰ HỌC

 

Mùa xuân năm 1974 tôi qua Long Xuyên chỉ mang theo hai bộ bà ba và hai trăm đồng, một là để coi tình hình, hai là để cân thuốc Bắc về làm một hai tể thuốc. Tôi lại tá túc nhà cô Nguyễn Thị Liệp, 26 đường Gia Long. Tôi quen cô từ 1935 hồi mới vô Nam. Cô là một người bà con của bác gái tôi ở Tân Thạnh, ở trường Gia Long ra, làm giáo viên trưởng Nữ Long Xuyên. Thấy người tính tình bình dị, tự nhiên, sau hai lần gặp mặt, tôi ngỏ ý cầu thân, cô từ chối vì muốn ở vậy nuôi mẹ già; từ đó chúng tôi thỉnh thoảng thư từ với nhau; và khi lập gia đình rồi tôi cho nhà tôi hay, tìm cơ hội cho hai người tiếp xúc với nhau một hai lần. Hồi ấy cô ở với bà thân và một người chị dâu goá chồng có hai con.

 

Tôi tính ở Long Xuyên độ nửa tháng, không dè khi sắp về thì cả miền quê hương thầy Tư Hoà Hảo (tên Huỳnh Phú Sổ, người sáng lập tôn phái Hoà Hảo, có đông tín đồ ở miền Tây, và hoạt động chính trị, 1945-46 hợp tác với Việt Minh) từ phía Chợ Mới xuống tới phía dưới Mỹ Luông, hai bên bờ Tiền Giang, tín đồ Hoà Hảo rất xôn xao, rục rịch nổi dậy, vì có tin thầy Tư bị Việt Minh thủ tiêu trong một cuộc họp ban đêm ở địa phận làng Tân Phú, cách nhà bác tôi độ hai cây số. Hình như thầy quá tin họ, chỉ dắt theo vài vệ sĩ nên bị hại (…). Anh Việt Châu theo thầy, cũng bị Việt Minh giết ở Cần Thơ cuối 1945. Vậy là tôi không thể trở về Tân Thạnh được, phải tạm ở lại Long Xuyên ít lâu nữa.

 

Sau đêm 19.12.1946, Việt Minh tấn công thình lình Pháp ở Hà Nội rồi rút ra ngoài, hai bên không thể hoà giải với nhau được nữa, chiến tranh sẽ kéo dài. Nhà tôi với cháu đã rời Long Điền lên Sài Gòn, nhà ở đường Monceau đã bị lính thuỷ Pháp chiếm, đồ đạt mất hết mà tư trang cũng đã bị giặc Miên ở Long Điền đào lên lấy nhẵn; mới đầu phải ở nhờ nhà một người bạn ở đường Sabourain[5], may quần áo trẻ em để độ thân, sau dạy học giúp cho một người bạn khác chủ một trường tư nhỏ, trường Aurore. Tôi không thể lên Sài Gòn được vì tiền tiết kiệm hết nhẵn mà Sài Gòn lại đương có phong trào đả đảo người Bắc.  

 

Ở Long Xuyên tôi gặp ba người bạn cũ: anh Hách ở Siemreap về cũng tản cư ở Long Xuyên, ông Nguyễn Ngọc Thơ, lúc này làm chủ quận Châu Thành Long Xuyên, và một thầy hoạ đồ trước giúp việc cho tôi ở sở Thuỷ lợi. Tôi chưa đủ kinh nghiệm để làm đông y, cũng không muốn trở về nghề công chánh, ba lần từ chối lời mời ra giúp việc của một kỹ sư tôi quen từ trước; chỉ nhận dạy thêm Pháp văn và Toán cho dăm trẻ của vài người bạn ở Long Xuyên, mỗi tháng kiếm được 5-6 trăm đồng, đủ ăn. Tôi dạy kỹ, vừa sức của chúng, hết hè 1947, có hai đứa thi đậu vào trường trung học Cần Thơ[6], tôi nổi tiếng và từ đó số học sinh mỗi ngày mỗi đông, mỗi ngày chỉ dạy hai ba giờ, kiếm được vài ngàn đồng một tháng. (tóm tắt ch. XVIII).

 

Có dư tiền tôi gởi mua sách ở Pháp: vài cuốn dạy tiếng Anh, bộ đĩa Linguaphone, sau thêm bộ đĩa nhựa Assimil nữa đều dạy nói tiếng Anh; một số sách Anh, Pháp về Culture humaine, và khá nhiều sách về văn học, giáo dục, tâm lý, khoa học, xã hội học… Sau mấy năm thiếu sách, gặp sách nào tôi cũng muốn mua. Tôi lựa những cuốn sách giới thiệu trong 2 cuốn: Quels livres faut-il avoir lus? của A. Souché, La Bibliothèque de l’Honnêtre homme của một nhóm học giả ở Bỉ…

 

Mới đầu đọc lung tung, sau thấy vấn đề nào thích thì tôi mua thêm. Lần lần tôi hướng về giáo dục, về ngữ học, văn học Trung Hoa, tiểu sử danh nhân, loại tự luyện đức, trí (culture humaine, tiếng Anh gọi là seft improvement), môn tổ chức.

 

Nhân đọc một cuốn sách Pháp, tôi được biết năm 1926 người ta lập ở Paris một Uỷ hội Quốc tế để nghiên cứu sự tổ chức công việc theo khoa học. Mỗi nước lập một Uỷ hội Quốc gia nữa. Ở Pháp gọi là Comité de l’Organisation française. Hội mở một trường dạy môn tổ chức công việc, lấy tên là École d’Organisation scientifique du travail, có lớp hàm thụ cho những người ở xa Paris.

 

Học phí khá cao. Tôi rủ anh Hách hùn tiền ghi tên học. Tôi yêu cầu trường gởi một lần hết các bài giảng và bài tập cho tôi. Mục đích của chúng tôi là học cho biết chứ không cần được bằng cấp của trường vì muốn được bằng thì phải làm một luận án (mémoire) và qua Paris tự biện hộ cho chủ trương của mình trước mặt các giám khảo của trường. Như vậy bằng cấp được chính phủ Pháp công nhận, rất có giá trị.

 

Tôi học môn đó rất kỹ, mỗi bài dài chừng 10-15 trang lớn (21x31) chữ in, tôi đọc vài lần rồi tóm tắt đại ý trong một vở riêng. Mỗi bài thuộc về một đề tài, do một giáo sư giảng. Có giáo sư giảng về 2-3 đề tài. Họ đề là những nhân viên quan trọng trong hành chính hay xí nghiệp, có nhiều kinh nghiệm. Mỗi ngày tôi bỏ ra một buổi để học, ba tháng thì hết khoá. Mới đầu tôi làm được vài bài tập gởi qua cho họ chấm; sau thôi vì có bài muốn làm thì phải có tài liệu mà ở Long Xuyên tôi không thể kiếm được. Tôi lại gởi mua những sách mà trường giới thiệu để nghiên cứu thêm.

 

Mùa thu 1947, bà cụ Ngô Thị Lựu, thân sinh cô Liệp quy tiên, tôi đã nhắc tới đức nhân từ của cụ trong bài Tựa cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, cô vẫn tiếp tục cho tôi ở đậu, dạy học trong nhà. Tháng 11 năm 1950, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã làm tỉnh trưởng Long Xuyên và đã mở trường trung học Thoại Ngọc Hầu ở thị xã, hai lần khẩn khoản mời tôi dạy thay giáo sư Kính phải về bộ tư pháp; vì giữa niên học không dễ gì kiếm được người thay nên tôi vì tình bạn cả hai ông ấy, nhận lời giúp với điều kiện là cuối niên khoá muốn thôi thì phải cho thôi.

 

Tôi dạy Pháp văn, Văn học, Đức dục, sau thêm cả Hán văn nữa ở nhiều lớp từ năm thứ tư xuống tới năm thứ nhì[7]. Tôi soạn bài kỹ, giảng cho rõ ràng, bắt buộc học sinh làm nhiều bài tập, nghiêm nhưng công bằng, thẳng thắn, nên ai cũng nễ, tuy có một số người không ưa. Tôi dạy được gần ba khoá, tới hết niên học 1952-53 mới thôi. Trong ba năm đó tôi làm việc rất nhiều, vừa tự học, vừa dạy học, vừa viết sách, hễ miệng thôi giảng thì cầm cuốn sách lên, đặt cuốn sách xuống thì cầm cây bút lên (nhưng tôi cũng hưởng được nhiều lúc vui vì lòng tin cậy của cha mẹ học sinh, làm kính mến của học sinh).

 

Dạy mỗi tuần 16 hay 18 giờ thôi, không bận mấy. Học tốn thì giờ hơn. Tôi học môn tổ chức, học Anh ngữ, lại học thêm về văn học Trung Hoa nhờ có mấy bộ văn học sử mua được (chỗ nào không hiểu thì nhờ bác tôi giảng, vì từ 1948 gia đình bác tôi cũng tản cư ra qua Long Xuyên, ngôi nhà ở Tân Thạnh, chính phủ kháng chiến bắt phải dỡ, vào ở xa trong đồng, chịu không nổi). Ngoài ra còn học các lớp hàm thụ ở Pháp: Cours d’édition et de libraire, Cours de technique littéraire; Institut Pelman (về culture humaine). Những bài hàm thụ đó đều giúp tôi tài liệu để sau này viết sách, như Nghề viết văn, Hương sắc trong vườn văn, nhiều cuốn trong loại Học làm người.

 

Trong chương XIII (bộ Hồi Kí) tôi đã nói muốn học một ngoại ngữ thì phải dịch. Tôi muốn nói thêm: học môn nào thì nên viết về môn đó. Điều này tôi đã trình bày trong cuốn Tự học, một nhu cầu của thời đại. Chương XII cuốn sách đó tôi viết:

 

“Có người nói: khi chưa biết về một vấn đề nào thì người ta viết sách về vấn đề ấy”. Nếu lời ấy là mỉa mai thì là mỉa mai một cách vô lý. Khi đọc bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim hoặc bộ Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn, không ai tự hỏi hai học giả ấy trước khi viết sách đã biết rõ về đạo Khổng hoặc triều Lý chưa? Điều chúng ta đòi hỏi ở tác giả là tài liệu phải đích xác, lý luận phải vững vàng, văn phải sáng sủa và tươi nhã; còn tác giả phải học thêm nhiều trong khi soạn sách thì ta không cần biết tới.

 

Vì có học giả nào không vừa học vừa viết? Trần Trọng Kim đâu phải là nhà cựu học, Hoàng Xuân Hãn đâu có bằng thạc sĩ về sử học. Và trước khi soạn hai bộ ấy, họ Trần và họ Hoàng có lẽ cũng không biết gì về Khổng Tử hoặc Lý Thường Kiệt hơn bạn và tôi, vậy mà tác phẩm của họ vẫn có giá trị.

 

Tôi muốn đổi câu dẫn trên như sau cho nó chứa một lời khuyên chí lý và nghiêm trang:

 

“Khi muốn học về một vấn đề nào thì cứ viết sách về vấn đề ấy”.

 

Chúng ta ai cũng có tính làm biếng, học cái gì cũng chỉ mới biết qua loa mà đã mãn nguyện, không chịu suy nghĩ kỹ, tìm tòi thêm. Nhưng khi viết sách ta cần kiểm soát từng tài liệu, cân nhắc từng ý tưởng, rồi bình luận, sau cùng sắp đặt lại những điều ta đã tìm kiếm, hiểu biết để phô diễn cho rõ ràng. Trong khi làm những công việc ấy, ta nhận thấy có nhiều chỗ tư tưởng còn mập mờ, ta phải tra cứu để hiểu thêm, đọc thêm nhiều sách nữa, do đó sự học của ta cao thêm một bậc. Càng được nhiều sách thì càng gặp những ý tưởng mâu thuẫn nhau và ta lại phải xem xét đâu là phải, đâu là trái và ta lại đào bới cho sâu thêm; nhờ vậy ta hiểu thấu triệt được vấn đề, nhớ lâu hơn, có khi phát huy được những điều mới lạ[8].

 

Cho nên muốn học một cách kỹ lưỡng không gì bằng viết về điều mình học. VIẾT SÁCH LÀ TỰ RA BÀI CHO MÌNH LÀM. Học mà không làm bài thì chỉ là mới đọc qua chứ không phải học.

 

Song tôi xin dặn bạn: khi viết nên nhớ mục đích của ta là tìm hiểu chứ không phải cầu danh. Đừng cầu danh thì danh sẽ tới. Cầu nó, nó sẽ trốn và sự học của ta cũng sẽ hoá ra nông nổi”.

 

Một anh bạn thân, học giả Lê Ngọc Trụ, mất năm 1979, nhà ngôn ngữ học có công nhất với chính tả Việt ngữ, tác giả cuốn Việt ngữ chánh tả tự vị, ngay khi cuốn Tự học của tôi vừa mới phát hành được mấy tháng, một hôm gặp tôi ở thư viện đường Gia Long, bảo tôi: “Lời anh nói rất đúng: chính tôi viết về chính tả Việt ngữ là để tự học đấy”. Tôi nắm chặt tay anh cười: “Anh em mình giống nhau quá. Tôi viết cuốn Tổ chức công việc cũng để tự học”.

 

°

 

VIẾT SÁCH

 

LOẠI TỔ CHỨC CÔNG VIỆC – CHÍNH THỨC BƯỚC VÀO LÀNG VĂN

 

Học xong mỗi bài của trường Tổ chức công việc theo khoa học ở Paris gởi cho, tôi tóm tắt đại ý trong một tập vở rồi tôi lại đọc thêm những sách gởi mua từ Pháp về môn đó để bổ túc những bài học ấy, cũng ghi chép những ý chính. Được vài tập 100 trang vở học trò.

 

Tôi sắp đặt lại những điều ghi chép ấy, chia thành chương, lập một bố cục, viết một cuốn về môn tổ chức, chủ ý để tổng hợp mà hiểu rõ môn học và khi coi lại, đỡ mất thì giờ tìm trong một chồng tài liệu, bài giảng của trường và trong non một chục cuốn khác nữa.

 

Tôi viết kỹ lưỡng, sáng sủa, mạch lạc. Viết xong tôi thấy tập đó có ích vì ít người biết về môn tổ chức. Đọc nó, đủ biết được những nguyên tắc quan trọng cùng cách thực hành; nó luyện cho ta được tinh thần khoa học, giúp ta làm việc mau hơn, có hiệu quả hơn mà đỡ tốn thì giờ, đỡ mệt sức. Mà nó lại dễ đọc, dễ hiểu hơn sách Pháp. Nghĩ vậy tôi đem cho ông Paulus Hiếu, chủ Kho bạc Long Xuyên, cha hai học sinh của tôi. Ông thích nó, đề nghị với tôi để ông xuất bản giúp; ông bỏ tiền ra tìm nhà in ở Sài Gòn, in xong ông sẽ gởi cho một số tiệm sách ở Sài Gòn và Hà Nội, ông sẽ thu tiền, tóm lại là mọi công việc ông đảm đương hết. Ông thật là một người tốt, yêu văn hóa, nhờ ông mà tôi chính thức bước vào làng văn, công đó tôi không quên.

 

Cuốn đó in chỉ hai ngàn bản, phí tổn khá nặng vì phải làm nhiều bản kẽm (cliché), ra mắt độc giả cuối năm 1949, hai năm sau bán hết, nhưng không lời bao nhiêu. Đó là cuốn đầu tiên tôi ra mắt độc giả. May mắn nó được hoan nghênh liền. Một nhà giáo ở Long Xuyên bảo tôi: “Tôi mong có một cuốn như vậy từ lâu”.

 

Nhà văn Thiên Giang ở Sài Gòn chưa hề quen biết tôi, đọc xong viết thư cho tôi khen là viết sáng sủa và bảo tôi sẽ thành công ở nghề cầm bút. Ông giám đốc nhà xuất bản P. Văn Tươi ở Sabourain (Sài Gòn) do có cuốn đó mà để ý đến tôi. Tôi mừng rằng không là “mẻ” cái vốn của ông P. Hiếu.

 

Sau đó tôi “khai thác” thêm môn tổ chức, áp dụng vào công việc hằng ngày như việc học và việc vặt trong nhà.

 

Tháng 11.1950, tôi nhận dạy cho trường Thoại Ngọc Hầu. Nguyên tắc của tôi là chỉ cho học sinh cách học rồi hướng dẫn họ để họ có thể tự học. Điều đó rất quan trọng vì hết thảy các học sinh không biết cách ghi chép lời giảng của thầy, không biết cách học bài, làm bài, không biết tìm ra trọng điểm của bài, không biết cách học ôn, tìm tài liệu, không có một thời dụng biểu ở nhà. Họ không hiểu rằng các học một bài ám độc (récitation) khác cách học một bài toán; một bài sử ký, địa lý khác một bài sinh ngữ… Họ không có cả một sổ tay ghi chép những điều cần nhớ để thường coi lại.

 

Dạy được vài tháng, tôi nghĩ công việc cần nhất là phải chỉ cho học sinh cách học đã, và ngày 29 tết năm Tân Mão (tháng février 1951)[9] tôi khởi sự chép những lời khuyên học sinh, mới đầu chỉ định viết 50 trang để toà hành chánh quay ronéo chừng 100 bản phát cho học sinh của tôi. Nhưng khi đã hạ bút thì ý này gợi ý kia và số trang rốt cuộc tăng lên gấp ba.

 

Tập đó tôi viết dễ dàng và vui, chỉ trong ba tháng là xong. Tôi áp dụng môn tổ chức vào việc học để cho đỡ phí sức, đỡ tốn thì giờ mà mau có kết quả; tôi dẫn nhiều kinh nghiệm bản thân từ hồi tôi học ở trường Yên Phụ và trường Bưởi. Tôi sớm có tinh thần phương pháp, ngay từ hồi học lớp Sơ đẳng (cours élémentaire)[10] đã có lối học riêng của tôi: ở trong lớp vừa chép bài vừa học thầm, vừa đi từ trường về nhà vừa nghĩ cách làm một bài toán, tìm ý cho một bài luận, rồi về tới nhà là làm, học ngay bài trong ngày, nhờ vậy tôi tốn rất ít thì giờ. Lên trung học tôi có một sổ tay tóm tắt những ý quan trọng trong mỗi bài sử, địa, vật lý, hoá, toán…, tức những điều tôi cho rằng lúc nào cũng phải nhớ; như vậy khi học ôn để thi trong lớp hoặc thi ra trường, tôi chỉ cần coi lại những sổ tay đó, ít khi phải coi lại trong sách. Những kinh nghiệm đó và nhiều kinh nghiệm khác nữa tôi đều chỉ lại cho học sinh.

 

Viết xong thấy tập đó có thể in thành sách được, tôi đặt cho nó nhan đề Kim chỉ nam của học sinh. Lúc này tôi đã có được một số tiền tiết kiệm, khỏi phải nhờ ông Hiếu nữa. Tôi mướn nhà in duy nhất ở Long Xuyên in cho 1.000 bản, không nhớ phí tổn bao nhiêu (khoảng 8.000 đồng? Vàng lúc đó 3.400 đồng 1 lượng). Nhà in chỉ có máy đạp chân (pédale) in rất chậm, mà mỗi “cahier” chỉ được bốn (hay tám?) trang nhỏ, cho nên công in và khâu đã cao mà sách lại rất xấu. Họ chỉ in các mẫu giấy tờ cho công sở và quảng cáo cho nhà buôn, chưa bao giờ in sách, thiếu nhiều phương tiện.

 

Tôi bán được một số ít cho vài tiệm sách ở Long Xuyên còn thì gởi lên Sài Gòn cho nhà P. Văn Tươi. Ông Tươi chê sách in xấu quá nhưng khen có giá trị, bán trong mấy tháng đã hết và xin tôi cho phép tái bản.  Cuốn đó bán chạy hơn cuốn Voulez-vous que vos enfants soient de bons élèvres? của giáo sư Lavarenne mà ông Thiên Giang lược dịch, nhan đề là Muốn thành học sinh giỏi cũng do nhà P. Văn Tươi xuất bản, ra trước cuốn của tôi khoảng một năm, và không bao giờ tái bản.  

 

Kim chỉ nam của học sinh rất được hoan nghênh. Nhiều phụ huynh học sinh sau gặp tôi, cảm ơn tôi vì con họ nhờ cuốn đó mà học tấn tới. Một giáo sư bảo học trò: “Nếu theo đúng cuốn đó thì học rất giỏi, nhưng ít người theo đúng được lắm”. Cần gì phải theo đúng. Cứ hiểu nguyên tắc, hiểu phương pháp rồi chịu khó áp dụng tuỳ khả năng, hoàn cảnh của mỗi người, cũng đủ có lợi nhiều rồi.

 

Tôi mừng nhất là nó đã thay đổi hẳn cuộc đời của một thanh niên hiếu học nhưng nhà nghèo, không cách tiến thân, sau thành một bác sĩ, một nhà văn, trước 1975 đã ra được một hai tập thơ, hai cuốn dạy cách đề phòng các bệnh của thiếu nhi và của học sinh. Trong tạp chí Bách Khoa số 20.4.75, thanh niên đó, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết:

 

“Kim chỉ nam đã mở cho tôi chân trời mới. Đọc xong, tôi thấy mình gần gũi với ông (Nguyễn Hiến Lê) kỳ lạ. Có những điều tôi đã thoáng nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì không được hướng dẫn nên không đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ thống hoá, đặt ra những nguyên tắc giúp cho việc học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được nhiều kết quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày những phương pháp thực hành, không có những lý thuyết viễn vông nhàm chán.”

 

Thanh niên đó từ mười năm nay đã thành một bạn thân của tôi.

 

Kim chỉ nam của học sinh được tái bản bốn năm lần, lần nào cũng in 3.000 bản. 

 

Sau Kim chỉ nam, cũng trong loại tổ chức, tôi viết cuốn Tổ chức gia đình (1953), chỉ cách tổ chức công việc trong nhà, dự tính, sắp đặt, chỉ huy, cư xử với người giúp việc… Nhưng cuốn của tôi khác những sách trong loại đó của Âu Mỹ ở điểm tôi khuyên độc giả sống giản dị như cổ nhân, đừng để “cái hình hài làm tội cái tâm”; mà “đời sống vật chất thì nên dưới mức trung, còn đời sống tinh thần nên trên mức ấy”. Cuốn đó được tái bản hai ba lần.

 

Lại mười năm sau (1964), tôi mới viết một cuốn nữa về Tổ chức công việc làm ăn. Cũng vẫn áp dụng những nguyên tác tổ chức theo khoa học, nhưng cuốn này chỉ in được một hai lần, mỗi làn in 2.000 bản. Thời đó giới kinh doanh không cần biết môn tổ chức. Họ chỉ cần chạy chọt, xin được cái “lít xăng” (licence: giấy phép) xuất nhập cảng, vay ngân hàng một số vốn để “khai thác” là đủ làm giàu. Có kẻ chỉ cần bán lại “licence” cũng đủ sống phong lưu. Trong công việc đấu thầu, hễ “quen lớn”, có phe cánh là lãnh được những lô “bở”. Không biết tới cuối thế kỷ này người mình đã có được tinh thần “làm ăn” như phương Tây chưa. Cuốn đó của tôi ra sớm quá.

 

Ngay cuốn Tổ chức công việc theo khoa học mặc dầu in trước sau ba lần, mỗi lần 2.000 bàn, cũng vẫn “được ra sớm quá”. Hiện nay (1980) từ Nam ra Bắc vẫn còn nhiều cơ quan không biết cách quản lý, tổ chức; làm việc luộm thuộm như tổng lý, hương chức thời tiền chiến. Mà ở phương Tây thì khoa tổ chức của Taylor, Fayol đã bị coi là lạc hậu từ hai chục năm nay rồi. Ngày nay họ tìm cách thích ứng công việc với người chứ không thích ứng người với công việc; tập cho thợ có sáng kiến, tự lãnh trách nhiệm, giúp thợ tự giải quyết lấy vấn đề. Rồi đây các máy điện tử (ordinateur[11]) sẽ làm thay đổi hẳn cách quản lý nữa; sự quyết định sẽ không tập trung vào ban giám đốc mà phân tán cho các phòng, xưởng, nghĩa là cho cấp dưới.

 

Chỉ một khoá hàm thụ mà giúp tôi viết bốn cuốn như trên, môn tổ chức quan trọng thật. Để giúp học sinh có phương pháp, sau tôi còn dịch và viết mấy cuốn nữa, có thể coi như thuộc về loại tổ chức, như:

 

Muốn giỏi toán Hình học phẳng (dịch J. Chauvel), 1954.

 

Muốn giỏi toán Hình học không gian (dịch J. Chauvel), 1956.

 

Muốn giỏi toán Đại số (tôi viết), 1957.

 

Bí quyết thi đậu, 1955.

 

Mấy cuốn đó đều viết theo tinh thần cuốn Kim chỉ nam, tinh thần giúp đỡ thanh niên, nhắc họ nhớ rằng cần nhất là có phương pháp, có chủ đích, làm việc đều đều. Trong đời có nhiều người rất thông minh mà thiếu những đức đó nên không làm được gì cả; trái lại có những người thông minh chỉ trên trung bình một chút mà lập được sự nghiệp nhờ những đức đó.

 

Một số độc giả quá yêu tôi bảo giá tôi đừng viết những cuốn đó mà chuyên khảo cứu thì có lợi hơn. Phải, có thể có lợi cho tôi về kiến thức, nhưng chắc là ít lợi cho thanh niên. Không thấy ai viết sách chỉ phương pháp làm việc cho học sinh thì tôi phải viết. Và học sinh thấy có ích, nên cuốn nào cũng được tái bản nhiều lần. Còn công việc khảo cứu, tôi vẫn song song làm với công việc huấn luyện thanh niên, đâu có xao nhãng.

 

°

 

LOẠI VIỆT NGỮ

 

Vì dạy Việt ngữ cho lớp đệ tứ niên, tôi phải đọc kỹ cuốn Văn phạm Việt Nam của Trần Trọng Kim và vài cuốn như Nhận xét về văn phạm Việt Nam của Bùi Đức Tịnh… Đọc xong tôi thấy những sách văn phạm (nay gọi là ngữ pháp) đó, nhất là cuốn của Trần Trọng Kim phỏng theo ngữ pháp của Pháp quá, không hợp với đặc tính tiếng Việt. Tôi lại thấy tất cả các giáo sư và học sinh đều miễn cưỡng dạy và học môn đó, chứ không tin tưởng, không thấy ích lợi chút nào cả. Và tôi viết cuốn Để hiểu văn phạm, đưa ra vài ý kiến, mặc dầu tôi chưa hề nghiên cứu về ngữ pháp.

 

Đại khái tôi cho rằng Việt ngữ không có phần biến di tự dạng (morphologie, cũng gọi là từ pháp; cùng một từ dùng làm danh từ, động từ thì viết cũng vậy: cái cuốc, cuốc đất), cho nên nhiều từ (mot) không có từ loại nhất định, ta không nên chú trọng quá đến việc phân biệt từ loại, mà nên chú trọng đến việc phân biệt từ vụ (fonction des mots), đến vị trí của mỗi từ trong câu. Chính từ vụ, vị trí và ý nghĩa cho ta biết loại của mỗi từ.

 

Tôi lại đề nghị không nên dùng gạch nối, vì Việt ngữ có tính cách đơn âm (ngày nay gọi là ngôn ngữ cách thể - langue isolante), rất khó để gạch nối cách nào cho hoàn toàn hữu lý được lắm, mà chỉ làm rối trí thêm cho học sinh. Viết liền những từ ghép (mots composés) lại cũng không nên.

 

Tập này dày khoảng hơn trăm trang, tôi viết trong hai tháng. Nhà P. Văn Tươi không nhận xuất bản vì khó bán. Tôi đề nghị bỏ vốn ra in 1.000 hay 1.500 bản để họ độc quyền phát hành (nhà P. Văn Tươi đứng tên), bán được bao nhiêu, trừ hoa hồng rồi còn về phần tôi. Bán hai ba năm chưa hết nhưng tôi không lỗ vốn in. Lợi vật chất không có gì, nhưng lợi về tinh thần thì đáng kể. Chính nhờ cuốn sách mỏng đó mà mấy năm sau ông Trương Văn Chình (bút hiệu Trình Quốc Quang tác giả hai cuốn Hội nghị Đà Lạt, Hội nghị Fontainbleau) ở Hà Nội di cư vô, lại đường Monceau kiếm tôi, đề nghị viết chung với nhau về ngữ pháp Việt Nam vì chủ trương của tôi có nhiều điểm hợp với ông. Rồi hơn hai chục năm sau, miền Nam được giải phóng, một số học giả trong viện Khoa học Xã hội (ban Ngôn ngữ) ở Bắc vô cũng lại thăm tôi, bảo họ để ý đến tôi từ khi đọc cuốn đó. Nó được chú ý như vậy vì là cuốn đầu tiên vạch một hướng mới cho công việc nghiên cứu ngữ pháp Việt, thoát ly ảnh hưởng của các sách ngữ pháp Pháp dùng trong các trường học.

 

Cũng vì dạy Việt văn, nên tôi có ý viết một cuốn chỉ cho học sinh trung học và những người lớn tự học cách viết văn và sửa văn, nhan đề là Luyện văn.

 

Để viết cuốn này, tôi đọc khá nhiều tác phẩm văn chương Việt, Pháp, và một số sách Pháp về môn nghệ thuật viết như cuốn  L’Art d’écrire của Antoine Albalat, La Formation du style của tu viện trưởng Moreux[12], Le Style au microscope (3 cuốn) của Criticus…

 

Không kể thì giờ đọc sách và thu thập tài liệu để dẫn chứng, chỉ nội công việc viết kỹ ba trăm trang cũng mất sáu tháng làm việc từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối, trừ những lúc dạy học, chấm bài, giờ ăn, giờ nghỉ trưa. Nhưng tôi không thấy mệt vì viết rất có hứng.

 

Viết xong cuối năm 1952, nhà P. Văn Tươi in ngay, sau tái bản được hai ba lần. Sách in ra đúng lúc Việt ngữ đương được trọng dụng, ai cũng thấy cần viết và nói tiếng Việt cho đúng, cho hay, còn tiếng Pháp chỉ là một ngoại ngữ ở các trường trung học, cho nên được độc giả hoan nghênh, cho là “gia đình nào cũng phải có”; có vị còn khuyến khích tôi, buộc tôi viết thêm nữa: “ông Lê, ông phải soạn ngay một cuốn Luyện văn thứ nhì và phải xuất bản gắp, nội trong ba tháng, không được trễ, để hè này tôi có sách đọc mà quên cái nắng nung người đi nhé. Vấn đề còn rộng, ông chưa xét hết và ông không được từ chối”.

 

Tôi không từ chối, nhưng còn bận nhiều việc khác, nên năm 1956 tôi mới viết được cuốn II, 1957 mới ra nốt cuốn III. Hai cuốn sau này cao hơn cuốn I nên chỉ in được một lần thôi. Sau tôi lại viết thêm bộ Hương sắc trong vườn văn nữa. Tôi sẽ trở lại vấn đề này.

 

Ngày nay nghĩ lại, ba năm dạy học ở Long Xuyên, mới đầu chỉ vì tình bạn, mà không ngờ đã gợi cho tôi viết ba cuốn cho học sinh (Kim chỉ nam, Để hiểu văn phạm, Luyện văn) và sau này cả chục cuốn nữa về toán, phê bình văn học, ngữ pháp… Trong đời có những cái duyên may thú vị như vậy như có một sự an bài nào đó.

 

°

 

DỊCH DALE CARNEGIE VÀ VIẾT LOẠI SÁCH HỌC LÀM NGƯỜI

 

Để học tiếng Anh, tôi tập dịch sách Anh ra tiếng Việt cũng như trước kia để học bạch thoại tôi dịch Hồ Thích.

 

Thật may mắn, ông Paulus Hiếu giới thiệu cho tôi hai cuốn How to win friends and influence peopleHow to stop worrying đều của Dale Carnegie và kiếm cho tôi được cả nguyên bản tiếng Mỹ với bản Pháp dịch.

 

Hai cuốn đó cực kỳ hấp dẫn, tôi say mê đọc, biết được một lối viết mới, một lối dạy học mới, toàn bằng kể chuyển. Mỗi chương dài từ 10 đến 20 trang chỉ đưa ra một chân lý, một lời khuyên; và để cho người đọc tin chân lý, lời khuyên đó, Carnegie kể cả chục câu chuyện có thực, do ông nghe thấy hoặc đọc được trong sách báo, nhiều khi là kinh nghiệm bản thân của ông, kể bằng một giọng rất có duyên, cho nên đọc thích hơn tiểu thuyết mà lại dễ nhớ. Tiếng Anh của tôi hồi đó còn non lắm, học trước sau chỉ được sáu tháng tích cực nên nhiều chỗ phải dựa vào bản Pháp dịch, và dịch xong How to win friends tôi đưa ông Hiếu coi lại, sửa chữa. Do đó mà chúng tôi ký tên chung. Tôi đặt cho nhan đề Đắc nhân tâm.

 

Chủ trương của tôi dịch loại sách Học làm người như cuốn đó thì nên dịch thoát, có thể cắt bớt, tóm tắt, sửa đổi một chút cho thích hợp với người mình, miễn không phản nguyên tác; nhờ vậy mà bản dịch của chúng tôi rất lưu loát, không có dấu vết dịch, độc giả rất thích[13].

 

Cuốn Đắc nhân tâm bán rất chạy, từ 1951 đến 1975, in đi in lại 15-16 lần, tổng cộng bán được trên 50.000 bản. Có người mua trước sau ba bốn bản hoặc vì mất hoặc để tặng bạn. Năm vạn bản ở nước mình là nhiều thật, nhưng không thấm vào đâu với Âu Mỹ. Ở Pháp, nhà Hachette lần đầu in 200.000 bản dịch, nhan đề là Comment se faire des amis; còn ở Mỹ không biết mấy triệu bản. Hiện nay (7-1980) ở chợ sách cũ đường Cá Hấp[14] Sài Gòn có người chịu mua một bản với giá 40 đồng ngân hàng (20.000đ cũ). Năm 1975 giá chỉ có 2 đồng ngân hàng.

 

Quy tắc đắc nhân tâm gồm trong câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”[15] mà tất cả các triết gia thời thượng cổ từ Thích Ca, Khổng Tử, Ki Tô… đều đã dạy nhân loại, nhưng trình bày như Dale Carnegie thì hơi có tính cách vị lợi, và tôi nghĩ trong đời đôi khi chúng ta cũng cần phải tỏ thái độ một cách cương quyết chứ không thể lúc nào cũng giữ nụ cười trên môi được. Cho nên tôi thích cuốn How to stop worrying mà tôi dịch là Quẳng gánh lo đi hơn.

 

Đúng như Đoàn Như Khuê nói:

 

-------------… Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,

-------------Coi lại cùng trong biển khổ thôi.

 

Dù sang hèn, giàu nghèo, ai cũng có ưu tư, phiền muộn; chỉ hạng đạt quan, triết nhân, quân tử mới “thản đãng đãng” (thản nhiên, vui vẻ) được như Khổng Tử nói. Nhưng làm sao có thể thản nhiên, vui vẻ thì Khổng Tử không chỉ cho ta biết. Dale Carnegie bỏ ra bảy năm nghiên cứu hết các triết gia cổ kim đông tây, đọc hàng trăm tiểu sử, phỏng vấn hàng trăm đồng bào của ông để viết cuốn Quẳng gánh lo đi.

 

Tôi bắt đầu đau bao tử từ khi phi cơ Pháp bắn liên thanh xuống miền Tân Thạnh (1946), năm sau qua Long Xuyên, để quên tình cảnh nước và nhà tôi phải trốn vào trong sách vở, nhưng viết và đọc suốt ngày thì bệnh bao tử lại nặng thêm mà bác sĩ không biết, cứ cho là gan yếu, uống thuốc Tây, thuốc Bắc, thuốc Nam đều không hết.

 

Rồi khi đọc cuốn Quẳng gánh lo đi, tôi thấy hết ưu tư, nhẹ hẳn người đi. Suốt thời gian dịch và trong năm sáu tháng sau nữa, tôi có cảm giác “đãng đãng” đó. Vì vậy mà tôi rất mang ơn tác giả, viết một bài Tựa tôi lấy làm đắc ý để giới thiệu với độc giả, và cuối bài, đề:

 

“Long Xuyên, một ngày đẹp trong 365 ngày đẹp năm 1951”

 

Nhiều độc giả đồng ý với tôi là cuốn đó hay hơn Đắc nhân tâm, và ngay từ chương đầu đã trút được một phần nỗi lo rồi, cho nên chép nhan đề chương đó “Đắc nhất nhật quá nhất nhật” để trước mặt, trên bàn viết. Mới đây, một độc giả, bác sĩ, bảo từ hồi đi học, đọc xong chương đó, thì đổi chữ ký, không ký tên thật nữa mà ký là “Today” (Hôm nay). Tôi còn giữ một bản của chữ ký đó của ông ta.

 

Quẳng gánh lo đi trước sau chỉ bán được độ 30.000 bản, nhưng tôi chắc nó đã đem lại niềm vui ít nhất là của trăm ngàn người. Nó ra rất đúng lúc chiến tranh gây biết bao nỗi lo lắng cho biết bao gia đình!

 

Cũng trong năm 1951 tôi dịch thêm cuốn nữa: Give yourself a chance (The Seven steps to success) của Gordon Byron. Nhan đề tiếng Việt: Bảy bước đến thành công. Cuốn này nhà P. Văn Tươi cũng cho vào loại Học làm người, ích lợi cho thanh niên, gọn, sáng, dễ theo, nhưng không có gì đặc biệt. Có lẽ vì nhan đề hấp dẫn nên cũng được tái bản nhiều lần tuy thua xa hai cuốn trên.

 

Ngoài ra tôi viết xong nhưng chưa sửa mấy cuốn này:

 

+ Nghệ thuật nói trước công chúng: tài liệu đa số lấy trong cuốn Public speaking của Dale Carnegie mà tôi cho là tác phẩm thực tiễn nhất trong loại. Phần phụ lục có vài bài diễn văn rất hấp dẫn. Sách bán rất chạy, tới nay vẫn còn người tìm mua.

 

+ Thế hệ ngày mai: tôi tổng hợp các phương pháp tân giáo dục của phương Tây để tìm ra một đường lối mới trong việc dạy trẻ. Bài tựa rất cảm động. Tác phẩm được hoan nghênh, tái bản nhiều lần. Thiên Giang đọc xong trở nên thân với tôi. Nhờ cuốn Kim chỉ nam của học sinh và cuốn đó mà giới hiệu trưởng, giáo sư tư thục để ý đến tôi.

 

+ Hiệu năng, bí quyết của thành công: trong loại Doanh nghiệp của nhà P. Văn Tươi.

 

+ Bí mật dầu lửa: dịch cuốn Le Secret de l’or noir của Robert Gaillard kể vụ tìm ra mỏ dầu lửa đầu tiên ở Mỹ. Truyện có tính cách mạo hiểm cho trẻ em đọc. Trên 15 năm sau, cuốn đó mới xuất bản[16].

 

°

 

VĂN HỌC TRUNG QUỐC

 

Công trình mệt cho tôi nhất nhưng thú nhất là viết bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc gồm ba cuốn: I. Từ thượng cổ đến đời Tuỳ, II. Đời Đường, III. Từ Ngũ đại đến hiện nay.

 

Viết bộ đó chủ ý của tôi cũng là để tự học. Trong bài Tựa mà tôi lấy làm đắc ý, tôi nói hồi ở trường Bưởi tôi đã tò mò muốn biết về văn học Trung Quốc. Nền cổ học Trung Quốc như có sức gì huyền bí thu hút tôi, một thanh niên theo Tây học. Mỗi lần nghe những tên như Văn tâm điêu long, Chiêu Minh văn tuyển, Tiền Xích Bích phú, Quy khứ lai từ… Dù chẳng hiểu nghĩa, tôi cũng thấy trong lòng vang lên một điệu trầm ngâm như nhớ nhung cái gì. Phải chăng đó là tiếng vang những giọng ngâm nga của tổ tiên tôi còn văng vẳng trong lòng tôi?

 

Muốn tìm hiểu văn học Trung Quốc mà sách báo Việt chỉ làm tôi thất vọng. Cuốn Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính sơ lược quá; còn đọc những bài dịch cổ văn, thơ Đường đăng lác đác trên tạp chí Nam Phong và một số báo khác thì không khác gì coi mấy bông sói, bông hồng, bông ngâu mà mấy chị bán hoa ở phố Hàng Đường (Hà Nội) gói trong chiếc lá chuối, chứa trong cái thúng để bán cho các bà nội trợ mua về cúng rằm, làm sao biết được vườn làng Ngọc Hồi, làng Yên Phụ ra sao. Tôi chỉ còn cách học chữ Hán để đọc sách người Trung Hoa viết. Khi đã có một số vốn độ 3.000-4.000 chữ, đủ để mò trong các tự điển Trung Quốc, tôi kiếm mua mấy bộ Cổ văn, Đường thi, Văn học sử… như tôi đã nói, rồi mò mẫm lần. Thật khó nhọc vô cùng. Đọc một bài trong Cổ văn quan chỉ độ 20 hàng tôi thường mất cả buổi mà chỉ hiểu lờ mờ (…). Còn những cuốn Văn học sử thì tuyệt nhiên không có chú thích, nhiều chỗ tôi phải viết thư hỏi bác tôi, nhưng không dám hỏi nhiều, vì mất công bác. Đành đọc nhiều sách, nhiều lần rồi vỡ nghĩa dần dần.

 

Học tới đâu tôi tóm tắt, ghi tới đấy, so sánh các sách, sắp đặt rồi chép trong những tập vở 100 trang. Sau cùng dịch một số bài văn thơ, viết thành chương. Nội công việc dịch này mất 9-10 tháng. Các bài cổ văn thì tôi dịch lấy, thơ tôi dịch được một số, bác tôi dịch cho một số lớn. Bài thơ nào không đề tên người dịch là của tôi, đề “Vô danh dịch” là của bác tôi. Hai bác cháu đều chú trọng nhất đến đức “tín”, nghĩa là dịch sao cho đúng, cho sát, không dám sửa lời, thêm ý. Chúng tôi biết nhiều bài người trước dịch rồi mà hay, nhưng vì ở Long Xuyên thiếu sách, không kiếm được nên không dẫn vào.

 

Tôi viết như vậy cốt để học chứ không nghĩ đến việc in. Viết xong thấy có thể giúp cho các bạn hiếu học có một khái niệm về văn học Trung Quốc, nên mới sửa lại cho xuất bản. Sự nhận định của tôi chắc không sai nhiều, tôi đã tham khảo kỹ bằng những tài liệu tôi có; bố cục có mạch lạc, sáng sủa nhưng tôi nhận rằng chắc có những chỗ dịch sai, phiên âm sai[17], nhưng cũng cứ cho ra mắt độc giả. Sở dĩ “tôi cả gan như vậy là vì tin lòng quảng đại của các vị cựu học không nỡ trách kẻ hậu tiến học thức nông cạn mà sẵn lòng hạ cố chỉ bảo cho những chỗ sai lầm, hầu giúp bọn tân học chúng tôi hiểu thêm cái cổ học của các cụ, tức là cái nền tảng văn hóa dân tộc chúng ta” (trích trong bài Tựa).  

 

Văn học Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn đến văn học Việt Nam mà các cụ quá khiêm tốn không chịu viết thì bọn xẩm như tôi đành phải mò kim vậy.

 

Viết xong tôi chép lại, mất ba tháng nữa (vì có nhiều chữ Hán và bài nào cũng có phần phiên âm). Ngày 20 tháng mạnh đông năm Quý Tỵ (26-XI-1953), mọi công việc hoàn thành tôi thấy khoan khoái, thảo bài Tựa, cuối bài ghi cảnh trăng khuya trong vườn hoa ở phòng viết trông ra:

 

“Trăng mới ló dạng. Cảnh vật đang tối tăm, bí mật, bổng hoá ra êm đềm nên thơ. Nhành liễu là đà lấp lánh bên dòng nước. Giò huệ rung rinh toả hương dưới bóng dừa. Đêm nay tôi muốn thả hồn tìm thi nhân cùng danh sĩ Trung Hoa thời trước.

 

Hỡi hương hồn chư vị ấy! Tôi mang ơn chư vị rất nhiều, gần bằng mang ơn văn nhân nước tôi; vì từ hồi mới sinh, tôi đã được nghe lời ngâm Chinh phụ, Thuý Kiều xen lẫn với lời bình văn thơ của chư vị và ngay trong văn học nước tôi cũng thường thấy ẩn hiện nỗi lòng chư vị. Tâm hồn tôi ngày nay một phần cũng do chư vị đào luyện nên.

 

Viết cuốn này tôi muốn có cơ hội gần chư vị thêm một chút. Tác phẩm của chư vị quá nhiều, tôi không đọc hết, nên ngoài cái lỗi giới thiệu vụng về tất còn mang thêm cái tội vô tình xuyên tạc. Xin chư vị lượng thứ”.

 

Mới có 27 năm mà cảnh tôi tả trong đoạn đó nay đã thay đổi hẳn: dòng kinh đã lấp, gốc liễu đã không còn, nhưng thêm được ba cây hoàng lan, chiều tối toả hương thơm ngào ngạt cả một xóm.

 

Để mùng tôi hoàn thành tác phẩm, bác tôi cho tôi hai bài thơ tứ tuyệt và hai câu đối, tôi đã chép trong bộ Hồi Kí, dưới đây chỉ trích lại một bài thơ và một câu đối:

 

Thơ:

 

-----Nễ tự biên chi ngã duyệt chi

-----Nhất gia lạc sự tại tương tri.

-----Hà tu cánh hướng đông tây vấn,

-----Kế vãng khai lai cánh thuộc thuỳ?

 

-----(Cháu cứ viết đi, bác duyệt cho,

-----Cái vui trong gia đình ở chỗ bác cháu hiểu nhau.

-----Cần chi phải hỏi người bên đông bên tây,

-----Việc kế vãng khai lai còn tuỳ thuộc vào ai nữa)

 

Câu đối:

 

-----Cổ sắc cổ hương văn tự cổ

-----Tân tâm tân bút thế phương tân.

 

-----(Sắc cổ, hương cổ, văn thời cổ

-----Lòng mới, bút mới, đời vừa mới)

 

Bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, ông P. Văn Tươi nhận là có giá trị nhưng không chịu xuất bản vì in rất tốn (phải sắp chữ Hán) mà khó bán. Năm 1955 tôi lại phải bỏ vốn ra in, 1956 mới xong[18]. Chỉ in 1.500 bản, tốn 75.000đ (mỗi cuốn 25.000đ). Giá vàng hồi đó vào khoảng 4.000đ - 5.000đ một lượng. Bán một năm được khoảng 500-600 bộ, đủ vốn; số còn lại bán bảy tám năm sau mới hết. Vậy, làm cái nghề viết văn cũng cần có vốn kha khá thì mới giữ được chí hướng, làm được những việc mình thích mà chẳng phải tuỳ thuộc ai. Nếu không có tiền xuất bản lấy thì 10-15 năm sau chưa chắc đã có nhà chịu in cho, mà lòng ham viết tất phải nguội dần.

 

In xong tôi mang về Long Xuyên để trình bác tôi. Tôi buồn rằng cha mẹ tôi và bác Hai tôi không còn. Tôi đã không phụ công các cụ. Trang đầu sách tôi đề:

 

-----Kính dâng

-----Hương hồn thân mẫu tôi

-----Người đã cho tôi học thêm chữ Hán

-----ở giữa thời tàn tạ của Nho học.

 

Bộ đó năm 1964 nhà Khai Trí tái bản; tôi chỉ sửa được một phần lỗi trên bản flan (bản để đổ chì) thôi, vì sắp chữ lại thì tốn công lắm. Lần này in 2.000 bản, năm 1975 bán vẫn chưa hết, mặc dầu được viện Đại học Huế khuyên sinh viên đọc.

 

°

 

THÔI DẠY HỌC, TẠM TỪ BIỆT LONG XUYÊN

 

Vậy trong 5 năm (1949-1953) làm việc tích cực, nhất là ba năm cuối, tôi đã xuất bản được chín cuốn:

 

- Tổ chức công việc theo khoa học

- Kim chỉ nam của học sinh

- Tổ chức gia đình

- Luyện văn I

- Để hiểu văn phạm

- Đắc nhân tâm (dịch)

- Quẳng gánh lo đi (dịch)

- Bảy bước đến thành công

- Huấn luyện tình cảm (dịch từ 1941)

 

Lại có sẵn:

 

- Đại cương văn học sử Trung Quốc

- Nghệ thuật nói trước công chúng

- Thế hệ ngày mai

- Hiệu năng

- Bí mật dầu lửa (dịch)

 

Tính ra vừa học, vừa dạy học vừa viết, mỗi năm trung bình tôi xong được 3 cuốn. Tác quyền được khoảng 100.000đ, cộng với số lương giáo sư, số tiền dạy tư tại nhà, tiêu pha rồi (tôi sống rất giản dị, ăn uống đạm bạc, hút toàn thuốc rê; chỉ tốn tiền học hàm thụ và mua sách), đưa cho nhà tôi một số tiền để sang một căn nhà nhỏ ở trong hẻm khu Hãng Sáo (Tân Định) mà mẹ con khỏi phải ở chung với bạn và các em nữa, cuối năm 1953 còn dư non 200.000đ, mà hồi mới qua Long Xuyên (1947) trong túi chỉ có 200đ.

 

Đáng kể nhất là tôi có chút danh trên văn đàn, được độc giả tin cậy. Tôi đã thành cây viết chính của nhà P. Văn Tươi.

 

Được vậy một phần là nhờ nhà tôi đã can đảm một mình làm việc nuôi con, dạy học; một phần là nhờ thân mẫu cô Nguyễn Thị Liệp và cô cho ở đậu trong nhà để dạy học, học và viết. Thấm thoát mà tôi ở nhà cô non bảy năm. Trong đời dễ gì gặp được người bạn như vậy, nếu không phải duyên trời.

 

Ngày nay ôn lại tôi thấy số phận tôi một phần do tôi quyết định, nhưng phần lớn thì do may rủi, do những cái ngẫu nhiên xảy ra, không sao ngờ được, nhất là do thời cuộc.

 

Như trên tôi đã nói, ông cha tôi không ai viết sách, mẹ tôi và các bác tôi cũng không có ý định cho tôi thành nhà văn, chính tôi tới năm 1951, hồi bốn chục tuổi, tuy đã chính thức bước vào làng văn mà vẫn chưa có ý sống bằng nghề cầm bút. Còn số tử vi của tôi, nhiều người đã coi, không ai đoán được là số của một nhà văn. Bác Ba tôi chỉ đoán được ngay từ khi tôi mới sinh là tốt, giàu và sang; và tôi thấy một người số tử vi giống tôi đến tám phần mười mà làm thầu khoán, giàu lớn.

 

Một ông bạn già bảo số tôi nổi danh vì được cách “tứ linh hội phi liêm, thanh danh viễn chấn”, nhưng trong nghề nào cũng có người nổi danh, mà cứ theo các chính tinh ở mạng và chiếu mạng của tôi, thì tôi làm một kỹ thuật gia hoặc một nhà kinh doanh như ông thầu khoán nói trên mới hợp, vì mạng tôi có Vũ khúc, Sát, Phá, Liêm, Tham; thân tôi ở cung Thiên di có Thiên phủ, Lộc tồn. Mạng, thân đều không có Khôi, Việt (văn tinh), còn Xương khúc, Hoá khoa (cũng văn tinh) thì đều ở cung thê, bàng chiếu về cung thân.

 

Chỉ bạn nào biết tôi là nhà văn rồi, coi tử vi cho mới bảo rằng chính Xương khúc, Hoá khoa chiếu cung thân đó mà ngoài 40 tuổi, tôi đổi nghề thành nhà văn. Như vậy là giảng một cách cưỡng ép, chứ không phải là đoán số. Cho nên tôi không tin hẳn môn số; nhiều lắm nó chỉ đúng được sáu phần mười thôi; sự di truyền của tổ tiên, giáo dục trong gia đình hoàn cảnh và thời cuộc mới có ảnh hưởng lớn tới đời sống con người. Số chỉ cho ta biết đại khái tư cách, tư chất ra sao, vào hạng nào trong xã hội, có khuynh hướng nào trong nghề nghiệp…; còn thì tự ta phải xây dựng lấy cuộc đời của ta. Quan niệm về số đó, tôi đã diễn trong bài Tựa cuốn Bảy bước đến thành công năm 1951.

 

Về di truyền thì ông nội, ông ngoại tôi đều có tiếng là hay chữ, bà nội tôi lại ở trong một thế tộc mười đời khoa hoạn. Tới thế hệ cha tôi thì có hai bác Cả và Ba của tôi học cao. Tới thế hệ của tôi thì hai anh Tân Phương, Việt Châu và tôi đều có khiếu về văn. Về giáo dục thì trong gia đình tôi, đời nào cũng trọng sự học, cũng cha (có khi cả mẹ nữa như bà nội tôi rồi nhà tôi) dạy cho con, mẹ tôi tuy không dạy tôi nhưng lại cho tôi học chữ Nho với bác Hai tôi. Do hai nguyên nhân đó, tôi thích đọc sách, thích văn học, mặc dầu học nghề công chánh, đúng như số đoán.

Rồi hoàn cảnh và thời cuộc đưa đẩy tôi vào nghề cầm bút:

 

- Ở Long Xuyên tôi gặp ông P. Hiếu một người cũng thích văn; ông giúp tôi xuất bản tác phẩm đầu tiên, lại cùng dịch với tôi hai cuốn của Dale Carnegie.

 

- Tôi viết những cuốn đầu đó đúng lúc nhà xuất bản P. Văn Tươi cho ra loại sách Học làm người. Thực ra ông Tươi không phải là người mở đường. Trong thế chiến, tôi nhớ đâu vào khoảng 1943, nhà Hàn Thuyên ở Hà Nội cho ra vài cuốn về thực nghiệm. Trước hay sau đó, một người soạn một cuốn về tinh thần khoa học được giải thưởng Alexandre de Rhodes; nhóm Tự Lực cũng xuất bản cuốn Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo và dịch ít đoạn trong cuốn Le chemin du bonheur của bác sĩ Victor Pauchet, được thanh niên chú ý.

 

Lúc đó người ta đã thấy phải cải tạo tinh thần của thanh niên để thích ứng với thời mới; thời từ nông nghiệp chuyển qua kỹ nghệ, và lớp thanh niên được cải tạo đó sẽ là lớp người mở đầu cho giai đoạn phát triển sắp tới. Ý đó “phảng phất trong không khí” từ đầu thế chiến. Ông Tươi cho tôi hay hồi đó ông viết một cuốn rồi xuất bản nhưng bán không chạy; có lẽ vì lẻ loi.

 

Năm 1949-50 ông tụ tập được một số cây viết cùng chủ trương, như Thiên Giang, Nguyễn Duy Cần, mở nhà xuất bản, mới đầu chuyên ra loại Học làm người, và rất mau chỉ trong một năm, nhà xuất bản ông nổi tiếng, được sự tin cậy của nhiều độc giả. Ông đáng được coi là một nhà xuất bản lớn trong nước hồi đó. Tác phẩm nào của tôi lúc đó gởi ông cũng được ông tiếp nhận liền.

 

- Một điều may nữa là cũng vào lúc đó năm 1951-52, Việt ngữ được dùng làm chuyển ngữ ở tiểu học rồi trung học, từ nhà giáo đến học sinh đều cần sách Việt; mà số học sinh tăng gấp ba gấp bốn năm 1948, số độc giả cũng tăng theo tuy chậm hơn, nên sách của tôi rất dễ bán.

 

- Nhưng cuộc cách mạng tháng 8-1945 mới làm thay đổi hẳn cuộc đời tôi. Khi quân đội Pháp đổ bộ lên Sài Gòn, muốn tái chiếm nước mình, tôi đã quyết tâm bỏ nghề công chánh, không trở lại làm việc nữa nếu Pháp vẫn làm chủ nước mình. Một phần vì vậy mà tôi học nghề Đông y, học chưa rành thì phải qua Long Xuyên rồi dạy học chờ thời, vừa dạy học vừa học thêm vừa viết sách. Không có cuộc cách mạng đó, tôi vẫn làm sở Công chánh thì viết chỉ làm tiêu khiển, không thành một nghề được.

 

Vậy hoàn cảnh đưa tôi vào nghề cầm bút, ở trên tôi mới kể 5-6 việc lớn, còn khá nhiều sự việc nhỏ nữa nhưng quan trọng nhất vẫn là tôi đã chuẩn bị sẵn sàng (mở mang kiến thức, tìm một bút pháp riêng…) để nắm liền lấy cơ hội, có khi để chuyển bất lợi thành lợi nữa. Biết bao người cũng ở vào hoàn cảnh đó mà không tiến cùng đường với tôi. Cho nên tôi tin rằng tương lai mỗi người do chính mình tạo nên.

 

°

 

Đầu năm 1953 tôi thấy nghề viết sách giúp tôi sống được, tôi chuẩn bị để chuyển nghề. Vừa đúng lúc này việc dạy học không còn hứng thú nữa vì đa số nam sinh chán nản không muốn học. Tình hình hồi đó khá nguy cho Pháp; từ 1952 họ đã ra lệnh bắt tất cả thanh nhiên Việt từ 18 tuổi phải nhập ngũ, người nào học hết năm thứ tư cao đẳng tiểu học, thi đậu hay rớt cũng phải vào học một khoá quân sự ở Thủ Đức trong sáu hoặc chín tháng rồi ra làm chuẩn uý[19]. Như vậy gắng học để làm gì? Đằng nào thì cũng thành bia đỡ đạn cả. Phụ huynh học sinh lo lắng, không muốn thúc con học, chỉ tìm cách chạy chọt để con được miễn dịch thôi.

 

Tôi khuyên học sinh đừng chán nản. Không ai biết chắc được tương lai ra sao. Có thể sắp có sự thay đổi. Dù không thay đổi ngay thì có bằng Cao đẳng tiểu học[20] vẫn hơn; nhập ngũ có thể được chuyển qua một ngành chuyên môn, không phải ra mặt trận, rồi khi giải ngũ có bằng cấp đó, muốn tiếp tục học nữa cũng dễ. Tuy khuyên chứ tôi cũng biết rất ít trò chịu nghe.

 

Lớp học vẫn còn kỷ luật nhưng không khí rất buồn, tinh thần học sinh xuống thấp, đa số đãng trí không nghe lời giảng, làm bài qua loa cho xong. Dạy học mà không có hứng, không thấy kết quả thì thà làm nghề khác còn hơn, để lương tâm khỏi bứt rứt.

 

Giữa niên học tôi làm đơn gửi lên ông Thơ xin thôi dạy từ cuối niên khoá đó, không ký lại giao kèo nữa. Ông giữ lời đã hứa với tôi, không bác đơn nhưng cứ ngâm đó.

 

Đơn gửi rồi, tôi chuẩn bị ngay.

 

Tôi tính kỹ: đã có một số vốn khoảng 200.000đ, bỏ ra một số để sửa sang nhà ở Sài Gòn, một số nữa để làm vốn xuất bản, vẫn còn 70-80 ngàn đồng đủ sống một năm mà khỏi phải làm gì. Ấy là chưa kể số tác quyền nhà P. Văn Tươi sẽ trả.

 

Tôi lại có sẵn non chục tác phẩm kể cả bản thảo viết trước 1945: Đế Thiên Đế Thích (du ký), Nam Du tạp ức (dịch của Hồ Thích), và bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc viết sắp xong.

 

Tôi lại có gần đủ tài liệu để viết mấy cuốn nữa như Tự học để thành công, Nghề viết văn, Bí quyết thi đậu, Đông Kinh nghĩa thục

 

Như vậy là có đủ việc làm, đủ tác phẩm để xuất bản trong vài ba năm, hễ qua được hai năm đầu rồi thì cứ theo đà đó mà tiếp tục ít nhất cũng được năm, mười năm.

 

Tôi dự định tự xuất bản lấy; công việc không tốn thì giờ bao nhiêu: chỉ được đưa cho nhà in, họ lo việc kiểm duyệt và in cho mình, mình chỉ sửa bản vỗ (morase) lần cuối cùng; in xong họ chở lại nhà rồi mình đem giao cho bốn năm nhà phát hành ở Sài Gòn như Nam Cường, nhà Yiễm Yiễm, nhà Á Châu… với vài nhà sách lớn như Khai Trí, thu ngay được một số tiền gần bằng nửa vốn in; các nhà đó khi bán gần hết sẽ lấy thêm. Như vậy mỗi tháng mất độ bốn năm ngày, còn nhiều thì giờ để viết. Mà số lợi trung bình gấp ba – có khi gấp bốn gấp năm nếu sách bán chạy – số tác quyền trong trường hợp bán bản quyền cho người khác.

 

Tôi tính mỗi năm viết ba cuốn, mỗi cuốn dày độ 200 trang, bán được từ 2.000 đến 3.000 bản thôi mà xuất bản lấy cũng bằng có chín mười cuốn bán cho nhà xuất bản. Không dạy học nữa mà cũng không mua tác phẩm của ai, chỉ viết rồi đưa in, bán ở nhà như vậy tôi có thể viết mỗi năm được số đó và sống ung dung với cây viết. Tính kỹ rồi tôi vững bụng, tin chắc sẽ thành công.

 

Mùa hè năm đó, ông Thơ thấy tôi không trở lại dạy trường Thoại Ngọc Hầu đành phải cho tôi thôi, nhưng ông vẫn cố níu tôi ở lại “cho vui, bạn bè ở đây có bao người”. Ông bảo:

 

- Nhà văn làm nghề xuất bản thì nhất định thất bại. Anh không nhớ Balzac phải bán nhà in, nợ như chúa chổm rồi viết đêm viết ngày đến khi chết vẫn trả chưa hết nợ đó sao?

 

Tôi đáp:

 

- Tôi làm sao dám ví với Balzac. Ông ta là một nghệ sĩ, tôi chẳng có chút máu nghệ sĩ nào trong người cả. Ông ta là một thiên tài và tự cho rằng một thiên tài thì đáng sống cuộc đời lộng lẫy của bọn công hầu, tóm lại là ông ham cái chữ de, Honoré de Balzac, nên mới mắc nợ, phải viết như mọi để trả nợ. Tôi không cần nhiều anh ơi, miễn kiếm được một số tiền bằng lương giáo sư hay kỹ sư là mãn nguyện rồi; mà tôi đã tính kỹ, có thể kiếm được số đó nếu chịu làm việc gấp hai một giáo sư, kỹ sư. Tuy mệt nhưng được tự do, chẳng phải tuỳ thuộc ai, đi đúng giờ về đúng giờ.

 

Sáng ngày tựu trường năm đó, ngồi bàn viết trông ra ngoài đường, thấy học sinh dắt nhau ríu rít đi ngang tôi cũng buồn buồn, nhớ bạn, nhớ trẻ, nhớ cảnh trường. Mới dạy ba năm mà tôi đã quyến luyến với nghề rồi!

 

Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng bài 20 bảo: Người quân tử có ba điều vui. Trong ba điều ấy không có điều làm vua thiên hạ, mà có điều: được bọn anh tài trong thiên hạ để dạy dỗ.

 

Tôi nghiệm thấy ở nước ta, người nào là con cháu nhà Nho chân chính, con cháu giai cấp sĩ phu cũng có vài nét chung dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học, có khiếu dạy học nữa. Tôi được dăm ba ông bạn trong giới ấy mà ông Đông Hồ là một. Ông với tôi thân nhau, quí nhau một phần vì vậy.

 

Dạy học mà được một số trò thông minh, hiếu học, lại có thì giờ viết sách nữa thì thật là lý tưởng. Hai năm đầu tôi được hưởng cái vui đó mà bây giờ tôi còn giữ được nhiều kỷ niệm đẹp. Đầu năm 1974, trong một buổi tiệc tất niên âm lịch của Hội cựu học sinh Thoại Ngọc Hầu, tổ chức tại sân trường, tôi được gặp lại vài bạn giáo sư cũ và nhiều học trò cũ của tôi, bác sĩ, dược sĩ, hiệu trưởng…; được thấy tình niềm nở thân mật kính mến của họ đối với tôi, tôi càng thấy lời Mạnh Tử là đúng. Giá tôi không viết sách thì chưa chắc năm 1953 tôi đã bỏ trường Thoại Ngọc Hầu vì mặc dầu không khí năm đó kém trước nhưng học trò vẫn còn tình nghĩa với thầy. Làm nghề viết văn tôi may mắn được một số độc giả thanh niên coi tôi như thầy, gọi tôi bằng thầy tuy không học với tôi một giờ nào. Điều đó an ủi tôi rất nhiều. Và chung quy tôi vẫn là một nhà giáo tới ngày nay.

 

Trong mấy tháng cuối ở Long Xuyên, tôi ráng chép cho xong bộ Đại cương triết học Trung Quốc rồi thu xếp để lên Sài Gòn. Tôi chỉ đem theo bản thảo và một rương sách cần dùng, còn thì để lại cả. Tôi không đi chào ai ngoài bác Ba tôi. Bác tôi có vẻ buồn, nhưng tôi thưa rằng chỉ ít tháng tôi sẽ về thăm. Gặp ai tôi cũng nói lên Sài Gòn tính việc làm ăn, chứ không vĩnh biệt Long Xuyên (…).

 

Khoảng cuối tháng 11-1953 tôi rời Long Xuyên. Tình hình chiến sự ở Bắc lúc đó bất lợi cho Pháp, ai cũng biết sắp có sự thay đổi (ch. XVIII).

Chú thích:

[1] Từ ngày 20.10.1945 đến khoảng đầu tháng 4 năm 1947 (cụ qua Long Xuyên trước ngày 16.4.1947 độ nửa tháng). (Goldfish).

[2] Có thể hiểu là bệnh kiết kỵ do amip và bệnh kiết lỵ do vi khuẩn. (Goldfish).

[3] Chẳng hạn tại sao bính, đinh lại là hào và trong quẻ này là hào cha mẹ, quẻ khác là hào con, hào tài…

[4] Việc xin quẻ đó xảy ra khoảng 5 năm trước khi cụ NHL tản cư về Tân Thạnh, vì thân mẫu cụ đau nặng rồi mất từ năm 1940. (Goldfish).

[5] Sau đổi thành đường Tạ Thu Thâu; nay là đường Lưu Văn Lang (Goldfish).

[6] Tức Collège de Can Tho, sau đổi tên thành trường Trung học Phan Thanh Giản. (Goldfish).

[7] Tức từ lớp 9 xuống lớp 7 ngày nay. (Goldfish).

[8] Đoạn này tôi đã sửa lại theo cuốn Tự học, một nhu cầu của thời đại, Nxb Xuân Thu, trang 192 (bản scan do Twonguyen cung cấp). Trong Hồi Kí cũng in gần giống như vậy, chỉ thiếu chữ “những”. (Goldfish).

[9] Tức ngày 5.2.1951 (Goldfish)

[10] Theo hệ thống giáo dục phổ thông Pháp Việt, bậc Tiểu học gồm 6 lớp: lớp Đồng ấu, lớp Dự bị, lớp Sơ đẳng, lớp Nhì năm thứ nhất, lớp Nhì năm thứ nhì, lớp Nhất. (Theo Trần Bích Lan, Giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc, http://profiles.yahoo.com/blog). (Goldfish).

[11] Tiếng Anh là computer: máy điện toán, máy vi tính. (Goldfish)

[12] Trong Hồi Kí cũng in là: “L’Art d’écrire của Antoine Albalat, La Formation du style của tu viện trưởng Moreux…”. Chắc cụ NHL đã nhớ lầm vì trong bài Nguyễn Hiến Lê viết về nghề văn, tác giả Nguyễn Ngọc Điệp, có lẽ căn cứ vào một tác phẩm nào đó của cụ NHL, cho biết: “Theo Nguyễn Hiến Lê, đó là các cuốn L’Art d’écrire, La formation du style của Antoine Albalat, Science et style của tu viện trưởng Moreux…” (trích trong Nguyễn Hiến Lê: con người và tác phẩm, Nhiều tác giả, Nxb Trẻ, năm 2003, trang 129). Tên đầy đủ của ba cuốn cụ NHL tham khảo đó là: L'art d'écrire enseigné en vingt leçons, La formation du style par l'assimilation des auteurs của Antoine Albalat (1856-1935) (theo http://fr.wikipedia.org/wiki/Antoine_Albalat); Science et style, conseils à un jeune écrivain của Théophile Moreux, được gọi là tu viện trưởng Moreux (1867- 1954) (theo http://fr.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A9ophile_Moreux).  (Goldfish).

[13] Đã xuất bản năm 1995, tại Nxb Văn hoá – Thông tin. Và ngoài ra cuốn này cũng được xuất bản ở nhiều Nxb khác. (BT).

[14] Xưa là con hẻm, gọi là hẻm Cá Hấp, sau mở rộng và được đặt tên là đường Bùi Quang Chiêu. Nay là đường Đặng Thị Nhu. (Goldfish)

[15] Lời của Khổng Tử; có người dịch là: Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. (Goldfish)

[16] Tức năm 1968, Tuổi Hoa xuất bản. (Goldfish).

[17] Chắc là cụ NHL đã thấy các chỗ phiên âm sai, ví dụ như nhan đề một bài ký của Quy Hữu Quang là 滄浪亭記, trong ĐCVHSTQ cụ phiên âm là Sương Lương đình ký (theo bản của Nxb Trẻ, năm 1997, trang 589) nên trong Hồi Kí cụ phiên âm lại hai chữ đầu thành Thương Lương (nhưng theo bác Vvn thì hai chữ đó nên đọc là Thương Lang). (Goldfish).

[18] Trong danh mục sách trong cuốn Mười câu chuyện văn chương thì bộ ĐCVHTQ do nhà Nguyễn Hiến Lê xuất bản năm 1955. Do đó ta có thể suy ra rằng năm 1955 đã in xong cuốn đầu hoặc cuốn đầu và cuốn thứ hai, năm 1956 thì in xong cuốn thứ ba hoặc cuốn thứ hai và cuốn thứ ba. (Goldfish).

[19] Có tài liệu cho rằng trong 5 khoá đầu từ 1951-1954, sinh viên tốt nghiệp quân trường Thủ Đức được mang cấp bực thiếu uý; từ khoá thứ 6 trở đi thì sinh viên tốt nghiệp chỉ mang cấp bực chuẩn ý. (Goldfish).

[20] Có lẽ vào thời đó, bằng Cao đẳng Tiểu học đã đổi tên thành bằng Trung học đệ nhất cấp, và lớp Đệ tứ niên đã đổi tên thành lớp Đệ Tứ (nay là lớp 9). (Goldfish).