Đóa hoa tàn

Chương 2

Chú biện Nguyễn Hải Yến ở một cái nhà lá nhỏ hai căn xông[1], cột dầu, vách ván, dựa đầu cầu Mê Phốp, nhà tuy chón hón[2], song trong ngoài dọn dẹp đều vén khéo sạch sẽ. Trước cửa có đắp một cái sàn[3] cũng nhỏ, mà có trồng ớt, cà, rau sống đủ thứ, lại đường vô nhà có trồng cây tây hai hàng, cây đơm lá đủ màu nên coi rất đẹp mắt.

Trời chạng vạng tối. Tú tài Hải Đường bưng một cây đèn tạ đăng đem để trên bàn rồi lấy một cuốn sách lại ngồi gần đèn mà coi.

Vợ chồng biện Yến nằm tại bộ ván ngang đó mà chơi, liếc mắt ngó con tướng mạo ôn hòa, mặt mày sáng sủa, trán rộng, môi dày, mắt lớn, mày rậm, lại nhớ con đã thi đậu Tú tài đủ hai khoa rồi, đậu với lời khen của hội khảo thi cho là "thiệt giỏi", thì chồng hân hoan đắc chí, vợ khoan khoái vui lòng, tuy nằm trong cái nhà nhỏ sơ sài, song bụng chứa chan hạnh phúc.

Cách một hồi một tên tùng giả bước vô nói cô Ba con ông Bình, sai mời chú biện lại cho cô nói chuyện.

Biện Yến biểu tùng giả về trước rồi mình sẽ theo sau, lại biểu Hải Đường dẹp sách mà đi lại nhà ông Bình chơi một chút.

Vợ biện Yến hỏi chồng rằng:

- Nghe nói ông Bình đã đi Sài Gòn mà, phải hôn?

- Ông, bà với cậu hai đi Sài Gòn hồi sớm mơi, đi mua xe hơi.

- Nếu cậu hai đi nữa, thì còn có mợ Hai với cô Ba ở nhà, hai người sợ nên kêu mình lại ngủ coi nhà dùm chớ gì.

- Bạn bè đầy nhà, thiếu gì người ta. Lại điếm nào dám kéo đến nhà ông mà sợ.

- Biết chừng đâu.

Cha con biện Yến bước vô nhà ông Bình thì thấy đèn măng-song[4] đốt hai cái phía truớc sáng lòa, mợ hai Thái Hòa đương nằm trên một bộ ván với con mà quạt cho con ngủ, còn cô ba Túy Nga thì ngồi dựa bên cây đèn mà thêu khăn. Hai chị em chào rồi mời hai cha con biện Yến ngồi, kêu đứa ở biểu nấu nước chế trà uống chơi.

Cô Túy Nga ngó biện Yến vừa cười vừa nói rằng:

- Hồi sớm mơi, trước khi ra đi, thầy tôi có dặn mượn chú ngủ coi nhà giùm một đêm, mà ngày nay tôi quên nói với chú. Nhà có người ở đông, song họ ngủ nhà sau, còn phía trước không có ai nên hai chị em tôi sợ. Vậy xin chú ngủ giùm một đêm, chắc mai thầy má tôi mới về.

- Ông bà đi mua xe hơi mà mai về sao kịp. Lên tới Sài Gòn phải đi lại mấy hãng mà lựa xe rồi chạy thử. Như chịu mua thì trả giá cả cho xong rồi phải vẽ số, phải làm giấy phép. Tôi sợ ba ngày cũng chưa rồi.

- Mấy ngày cũng vậy, chú cũng phải coi nhà giùm cho tới chừng nào thầy tôi về, chớ biết làm sao.

- Cô với mợ Hai biểu, thì tôi phải vưng, coi nhà bao lâu cũng được. Ông bà với cậu Hai đi khỏi tự nhiên ở nhà tôi phải lo chớ, bởi vậy hồi chiều tôi có dặn thầy Hương quản ban đêm phải cho dân đi tuần khúc nầy cho thường.

- Không biết mua một cái xe hơi mới giá chừng bao nhiêu?

- Cái đó không có chừng. Họ nói giá mắc rẻ tùy theo hiệu xe, có thứ hai ngàn mấy, có thứ ba ngàn mấy, có thứ bốn năm ngàn, có thứ tới chín mười ngàn.

- Thầy tôi nói lắm nên má tôi mới chịu đi đó, chớ thiệt ý má tôi không muốn sắm xe hơi chút nào hết. Không biết thầy tôi lên trển rồi mua xe thứ nào.

- Hôm qua ông có nói chuyện với tôi, ý ông muốn mua xe chừng bốn ngàn, hoặc bốn ngàn rưởi.

Mợ hai Thái Hòa nói: „Ý thầy tôi thì muốn sắm xe cho thiệt tốt, còn ý ở nhà tôi thì không chịu xe nhiều tiền, tính lên trển đốc thầy tôi mua xe chừng vài ngàn thôi".

Biện Yến cười và nói: „Ý cậu Hai ít chịu se sua, bởi vậy cậu là con nhà giàu mà ai cũng kính mến cậu hết thảy".

Cô Túy Nga nói rằng:

- Anh Hai tôi giống ý má tôi, má tôi cực chẳng đã phải đi đó, chớ vái hãng đừng còn chiếc xe nào hết, cho thầy tôi mua đừng được. Hổm nay má tôi than thở hoài, nói thầy tôi lên chức, phải đền ơn đáp nghĩa, đãi đằng thiên hạ, tốn hao nhiều quá, rồi còn mua xe hơi nữa, chịu sao nổi.

- Ông thăng chức sang trọng biết chừng nào, phải sắm xe hơi đi coi mới được chớ. Còn đãi tiệc tốn hao nhiều thiệt, nhưng mà ông làm đúng quá, thiên hạ ai cũng ngợi khen hết thảy, bởi vậy tốn hao cũng không mất đi đâu. Mợ Hai với cô Ba nghĩ coi, thuở nay có ai ăn lễ mừng mà làm long trọng được như vậy hay không. Đãi gần bốn trăm khách, đãi đồ Tây hết thảy, mướn nhà hàng Tây trên Sài Gòn xuống nấu, mỗi người khách nhà hàng tính giá muời ba đồng bạc. Hương chức đều ăn cơm Tây hết thảy cũng như các quan, thiệt đúng quá. Hổm nay tôi gặp Hương chức làng nào họ cũng phục lắm. Đã vậy mà còn đốt pháo bông cho nhơn dân coi chơi trót một giờ đồng hồ, còn hát bộ, hát Tiều ba đêm, thiên hạ mê lắm.

- Làm thì đúng thiệt, ngặt tốn tiền nhiều lắm chớ.

- Không biết hổm nay ông bà có tính thử coi nội cuộc tốn chừng bao nhiêu?

- Má tôi tính tiền nầy tiền nọ xê xích một muôn lận, chớ phải ít ỏi gì.

- Tốn một muôn mà đáng lắm chớ. Tốn tiền mà được danh tiếng, chẳng hơn có nhiều người họ chơi tầm bậy mà cũng tốn một hai muôn đó sao.

- Thầy tôi thì ưa danh tiếng, làm việc gì cũng muốn được người ta khen. Còn má tôi thì không chịu se sua, nên hổm nay cằn nhằn hoài.

- Tôi tưởng nếu không có tiền thì thôi, chớ có tiền cũng nên làm cho có danh tiếng chơi chớ.

- Má tôi nói lúc mình có quyền thế hơn, có tiền bạc nhiều, mình làm việc gì họ cũng khen hết thảy, dầu làm bậy họ cũng cho là phải. Đến chừng mình suy sụp, yếu thế hết tiền rồi, họ đã không khen nữa, mà sợ e họ lại khinh khi mình chớ.

Biện Yến ngồi suy nghĩ mà nói rằng: „Bà nghĩ xa như vậy cũng phải. Thiệt thế tình thường có như vậy".

Mợ Hai Thái Hòa thấy con ngủ mê, bèn bồng đem vô buồng.

Cô Túy Nga đứng dậy rót nước trà mà mời biện Yến với Hải Đường uống.

Trên đầu xóm có tiếng chó sủa om sòm. Ngoài lộ dân đi tuần nhịp sanh lắc cắc.

Cô Túy Nga ngồi thêu, nước da trong bóng, gò má ửng hồng, miệng như hoa bán khai, mày như nguyệt mới rạng, hình vóc đề đạm, cặp mắt hiền từ, tay lần rút chỉ thêu, bàn tay đã dịu mà ngón lại dài, cườm tay tròn vo, phao tay ửng đỏ. Cô mặc một cái áo bà ba màu bông hường giợt, ánh đèn măng-song giọi vào áo, rồi áo giọi lại mặt cô, làm cho sắc cô càng thêm tươi, duyên cô càng thêm đẹp.

Tú tài Hải Đường từ nhỏ chí lớn ở gần cô Túy Nga, thường hay gặp cô, song có đêm nay mới có dịp ngồi ngó kỹ như vầy. Chàng ngó một hồi rồi nghe trong lòng khó chịu, nên day mặt ngó chỗ khác, tính không ngó cô nữa. Trí chàng quyết như vậy mà lòng lại không muốn như vậy, nên ngó quanh ngó quất rồi cặp mắt như bị đá nam châm hút, thế nào cũng phải ngó lại cô Túy Nga; mà hễ ngó cô thì lại gặp cô cũng ngó chàng, làm chàng sượng sùng ngần ngại hết sức. Chàng muốn đi về đặng tránh cái cảnh vừa vui vẻ vừa khó chịu ấy, song chàng không biết phải nói tiếng chi mà đi về, lại cũng không nỡ bỏ cái cảnh mới thấy lần đầu, mà thấy một cách khỏe khoắn tiêu diêu quá.

Hải Đường đương ngần ngại, thình lình cô Túy Nga cất tiếng hỏi rằng: „Anh Tú học trên Sài Gòn có lẽ anh biết cậu Từ Đăng Cao là con của ông bá hộ Thiện ở trên Vĩnh Long chớ?"

Hải Đường bợ ngợ nên ú ớ đáp rằng:

- Từ Đăng Cao... Con của ông bá hộ Thiện... Tôi biết.

- Nghe nói cậu đó cũng thi Tú tài kỳ nầy mà.

- Cậu học dưới tôi một lớp. Cậu ở nhà ngoài mà đi học, chớ không có ở trong truờng. Phải, nghe nói kỳ thi nầy có cậu thi, mà cậu mới thi phần thứ nhứt.

- Rớt hay đậu?

- Tôi nghe dường như cậu rớt thì phải.

Biện Yến chen vô hỏi cô rằng:

- Cậu Đăng Cao tôi biết rồi. Hôm ông đãi tiệc, vợ chồng ông bá hộ Thiện xuống dự tiệc có dắt theo một cậu chừng hai mươi tuổi, chắc là cậu đó chớ gì, phải hôn cô Ba?

- Phải, cậu đó đa.

- Sao cô biết cậu đó mà hỏi thăm?

- Hôm xuống ăn tiệc đó bà bá hộ có kêu vô nhà trong mà chào má tôi.

- Cha chả, ý bà bá hộ muốn làm sui với bà ở nhà đây rồi chớ gì.

Cô Túy Nga châu mày, chăm chỉ ngồi thêu, cô không trả lời.

Biện Yến thấy vậy bèn nói tiếp rằng: „Ông bà ở nhà đây làm sui với ông bá hộ trên Châu thành thì xứng lắm. Ổng thiệt là sang trọng quyền thế. Quan lớn Chánh yêu ông hết sức, đi đâu cũng dắt ổng theo, ổng nói giống gì quan Chánh cũng nghe hết thảy, bởi vậy ổng muốn ai sống thì sống, muốn ai chết thì chết. Đã vậy mà họ nói ổng giàu lắm, có mua ruộng miệt Bạc Liêu nhiều, mà lại còn cho vay cũng nhiều nữa. Nói lén đây mà nghe quan Chủ quận của mình đây thua quan Chủ quận Châu thành xa lắm, bởi vậy nếu ông ở nhà làm sui với ông ở Châu thành thì đúng rồi có kém bao nhiêu đâu".

Cô Túy Nga ngó Hải Đường, miệng chúm chím cười, rồi ngó biện Yến mà nói rằng:

- Chú tưởng quyền tước lớn, tiền bạc nhiều, vậy là đúng, không có cái gì hơn được hay sao? Quyền tước lớn mà không biết cứu vớt ai, tiền bạc nhiều mà không chịu giúp đỡ ai, thì quyền với tiền đó có ích gì đâu? Ở đời sang hay hèn, nghèo hay là giàu, không có chi là chắc chắn hết. Vậy chớ chú không nghe nói ông Hội đồng Kế với ông Cả Huynh đó sao? Họ nói ông Hội đồng Kế hồi trước ổng giàu sang trong xứ mình không ai dám bì, mà bây giờ ổng suy sụp đến nỗi không có nhà mà ở, đi theo bọn bài bạc bữa đói bữa no. Còn họ nói ông Cả Huynh hồi nhỏ ổng ở đợ giữ trâu, mà bây giờ ổng giàu có, ai cũng phải vay bạc của ổng hết thảy, ổng đi tới đâu ổng cũng ăn trên ngồi trước, coi sang trọng quá. Ấy vậy mình chẳng nên thấy giàu sang mà ham, còn thấy nghèo hèn mà phụ. Theo ý tôi, cưới vợ lấy chồng phải vì tình vì nghĩa, chớ không nên vì quyền thế, vì bạc tiền. Nếu cưới gả mà không chủ tâm về tình nghĩa, lại chủ tâm về bạc tiền thì cái đạo vợ chồng thấp thối quá. Tôi nói như vậy đó, anh Tú nghĩ coi có phải không, anh Tú?

Hải Đường ngó dạng cô ngồi, nghe tiếng cô nói, hiểu ý cô luận, thì mê mẩn, nửa tỉnh nửa say; thình lình nghe cô hỏi, thì chàng giựt mình lúng túng, nên đáp rằng:

- Thuở nay tôi mắc lo học, không để ý tới việc vợ chồng, nên tôi không hiểu. Mà cô Ba luận như vậy thì phải lắm chớ.

Biện Yến giành nói nữa rằng:

- Cô Ba còn nhỏ, mà cô luận việc đời nghe hơi như người lớn tuổi vậy. Đời nầy mà nói tình nghĩa làm chi nữa cô Ba. Hễ có bạc cho nhiều, thì thiên hạ kính phục, không cần tình nghĩa gì hết.

- Thiệt, đời khốn nạn lắm, ai cũng lo tranh danh đoạt lợi. Mà có lẽ cũng còn một số người biết trọng tình nghĩa chớ.

- Số ấy ít lắm. Mà dầu có ai nói chuyện nhơn nghĩa tôi sợ e họ mượn danh nhơn nghĩa đặng cầu danh cầu lợi chớ trong bụng họ cũng không có nhân nghĩa thiệt đâu.

- Nói như chú vậy thì đời nầy hoá ra dã man rồi! Thế thì nên đi tu cho rồi, chớ ở chung lộn với thế gian như vậy làm chi.

- Không, thiên hạ văn minh tấn bộ lắm chớ, văn minh theo vật chất, tấn bộ về lợi danh.

Cô Túy Nga ngồi trầm ngâm một hồi rồi cô thở dài mà than rằng:

- Đời thiệt là khổ, mà nhứt là đời của một con gái!

Biện Yến ngó cô mà bảo rằng:

- Sao cô lại than như vậy? Phận cô thì sung sướng đệ nhứt rồi. Ông bà là bực giàu có sang trọng. Một vài năm nữa đây cô lấy chồng chắc cũng ở trong hạng thượng lưu. Đời của cô rực rỡ đã thấy mòi rồi, có sao đâu mà cô buồn.

- Đường đời của tôi, ở xa mà ngó thì thấy bông hoa chớn chở; mà tôi sợ chừng bước chơn vào đó rồi chông gai dẫy đầy, đó chú...

- Cô còn nhỏ tuổi, cô không nên chán đời như vậy, cô Ba. Phải hăng hái mà đi tới, đặng nếu rủi gặp chông gai, cô mới có đủ nghị lực mà bước khỏi chớ.

- Tại chú mở việc vợ chồng mà nói, nên tôi phải trả lời với chú, chớ tôi có chán đời đâu.

- Cô than thở như vậy mà cô nói cô không chán đời, hay là cô chê con của ông bá hộ Thiện trên Châu Thành?

Cô Túy Nga lặng thinh, mà sắc mặt cô buồn hiu. Cách một lát cô mới đáp rằng:

- Làm thân con gái Việt Nam mình bị cái chế độ gia pháp bó buộc, nhứt là về duyên phận trăm năm thì mình không được tự do chút nào hết. Gả nơi nào tự cha mẹ định, mình có phép chê khen ai đâu.

- Xin lỗi cô, không biết vợ chồng ông Thiện đã có cậy mai mối nói mà xin làm sui với ông hay chưa?

- Việc đó tôi không hiểu. Song tôi lóng nghe thì in như ổng đã có nói chuyện với thầy tôi. Còn hôm đãi tiệc, bà Thiện có dắt cậu Đăng Cao xuống đó là có ý muốn cho thầy má tôi thấy cậu và cho cậu coi mắt tôi luôn thể.

- Nếu vậy, thì chắc ông bà chịu làm sui rồi nên mới cho coi đó chớ.

- Tôi không hiểu, song tôi nghe thầy tôi nói làm sui chỗ đó xứng đáng lắm.

- Ông nói như vậy thì phải lắm. Không biết ý bà với cậu Hai thế nào?

- Anh Hai tôi ảnh chim bỉm[5] hoài, ảnh có nói cho đâu mà biết. Còn má tôi thì không muốn.

- Còn theo ý cô thế nào?

- Tôi đã có nói, tôi đâu có quyền chọn lựa. Nếu tôi đuợc tự do thì nói gì...

- Duyên nợ là việc trăm năm của cô, nếu cô có điều chi không vừa ý thì cô phải thưa lại với ông đặng cho ông bà liệu định chớ.

Cô Túy Nga châu mày rồi liếc mắt ngó Hải Đường mà đáp rằng: „Khó nói lắm!"

Cô ngồi thêu một hồi nữa rồi mới hỏi Hải Đường rằng:

- Tôi hỏi anh Tú phải nói cho thiệt đa nghe hôn. Cậu Đăng Cao thi rớt đó là tại số mạng hay là tại cậu học dở?

- Tôi không hiểu.

- Còn tánh nết cậu ta thế nào?

- Tôi cũng không được biết.

- Anh không muốn nói cái tệ của người khác, chớ có lý nào anh không hiểu.

- Tại học khác lớp, nên thiệt tôi không hiểu chớ.

- Anh muốn giấu giếm, đặng anh hại tôi phải hôn?

- Có lẽ nào tôi lại đê tiện quá như vậy.

Cô Túy Nga nghiêm sắc mặt, rồi ngó ngay Hải Đường mà nói rằng: „Anh giấu tôi, nếu cái đời tôi sau nầy mà gặp việc chẳng may, thì anh mang tội lớn lắm, nói cho anh biết".

Mấy lời ấy làm cho Hải Đường càng thêm rối trí bận lòng, không thể ngồi lâu nữa được, nên đứng dậy thưa với cha rằng: „Thôi, ba ở đây ngủ coi nhà giùm cho ông, để con về kẻo má chờ". Chàng liền từ giã cô Túy Nga mà bước ra cửa. Cô ngó theo, sắc mặt coi buồn hiu.

Thuở nay Hải Đường một là mắc lo học, hai là biết xét phận thấp hèn, nên chẳng bao giờ để ý đến cô Túy Nga. Nay ngồi ngó cô một lát, nghe cô nói những lời đạo nghĩa, hiểu ý cô không ỷ giàu sang mà khinh khi kẻ nghèo hèn, thì trong lòng chàng sanh mối cảm tình chứa chan, ra khỏi cửa rồi chàng thơ thẩn bâng khuâng như ngây dại. Về đến nhà, chàng vẫn còn buồn xo.

Thiếm biện Yến hay chồng mắc ở coi nhà giùm cho ông Bình thì thím đi ngủ, không chờ nữa.

Hải Đuờng lấy một cuốn sách ngồi dựa đèn mà coi, mặt ngó vô cuốn sách mà mắt lại thấy hình dạng của cô Túy Nga hoài, tai văng vẳng nghe những tiếng cô nói, trí cứ nhớ những câu chuyện hồi nãy.

Cậu Đăng Cao là con nhà giàu. Từ khi mới lọt lòng thì cậu đã nằm trong cái địa vị cao sang, cậu muốn việc chi cũng được, cậu đòi thứ chi cũng có hết thảy. Đến chừng lớn khôn, cậu dòm thấy chung quanh cậu chẳng có một người nào không thương yêu, không bợ đỡ cậu, lần lần cậu quen cái thói coi thiên hạ đều thấp hèn hơn cậu, tưởng thiên hạ là tay sai của cậu. Bởi vậy cậu đến nhà trường đối với chúng bạn thì cậu lấn lướt kiêu hãnh, làm cho chẳng có một trò nào mà ưa cậu. Mà theo cậu, thì sự đi học là cái chước để cho cậu có thế xài phá bạc tiền của cha mẹ, chớ không phải là cái chước để cho cậu mở trí sửa lòng, bởi vậy đi học mà cậu không cần cố chi hết, chỉ lo sắm áo quần cho tốt để chúa nhựt thả đi chơi, hoặc ngồi nhà hàng, hoặc coi hát bóng.

Cậu thi rớt ấy là lẽ tự nhiên, tại học không cần nên thi không đậu, chớ không phải tại số mạng nào hết. Có lẽ cậu xét phận của cậu, nên cậu tính cưới vợ chớ không thèm học nữa. Cậu tính như vậy cũng hay, bởi vì nếu cậu học nữa thì bất quá tốn tiền thêm cho cha mẹ, chớ không chắc cậu thi đậu được. Tánh nết với tài học của cậu Ðăng Cao như vậy đó, mình có nên nói rõ ra cho cô Túy Nga biết hay không? Có lẽ nào mình lại đem việc xấu của người mà nói cho thiên hạ biết. Huống chi ông Bình đã muốn gả con cho Đăng Cao, nếu mình khai chỗ tệ của cậu, té ra mình gièm siểm, làm như vậy thì mình còn xấu hơn người mà mình nói xấu đó nữa

Mà việc nầy là việc trăm năm của một cô thiếu nữ, theo con mắt mình xem thì là một cô đứng đắn về tánh tình, lại xinh đẹp về nhan sắc nữa. Mình có nên sợ mang tiếng "Dương nhơn chi ác[6]" mà để cho cô thiếu nữ, mình vừa yêu vừa trọng đây, phải mang một người chồng bất lương, bất tài trọn đời hay không?

Hai vấn đề ấy thật là khó giải quyết.

Đã vậy mà tại sao cô Túy Nga lại nói rằng nếu mình giấu cô, hễ sau nầy có việc chi chẳng may thì mình phải mang tội? Tại sao trước mặt mình cô lại than thở về sự cha mẹ tính gả cô cho Đăng Cao? Tại sao cô than việc lấy chồng cô không đuợc tự do mà chọn lựa? Tại sao cô lại nói: „Chẳng nên thấy giàu sang mà ham, còn thấy nghèo hèn mà phụ?" Cô có tình riêng với mình chút nào hay sao, mà nay cha mẹ định gả lấy chồng, cô thất vọng nên than thở với mình như vậy?

Đó là một vấn đề nữa, mà vấn đề nầy còn khó giải hơn vấn đề trước bội phần.

Canh khuya, đêm vắng, Hải Đường ngồi ngó sửng ngọn đèn, nghe tiếng dế gáy rân ngoài thềm, với tiếng thằn lằn chắc luỡi[7] trong vách, thì chàng bâng khuâng lơ lửng, lén hỏi thầm trong trí rằng mình có duyên nợ gì với cô Tuý Nga hay không? Chàng hỏi như vậy rồi chàng giựt mình, ngó quanh trong nhà thấy cái nhà lá túm húm xịch xạc, đồ đạc sơ sài, còn chàng nhớ cái nhà của cô Túy Nga kinh dinh[8] hực hỡ, thì chàng teo gan héo ruột, ủ mặt châu mày, chàng lắc đầu mà đáp rằng: không thể có duyên nợ được, bởi vì cha mình là bộ hạ của ông Bình, mà ông lại đương tính làm sui với một ông bá hộ, thì còn gì mà ước mơ.

Mang ái tình vào lòng thì đã khó chịu lắm rồi, mà cái ái tình ấy lại không có hy vọng thỏa mãn được, thì càng đau đớn nhiều hơn nữa. Hải Đường vừa mới ra khỏi nhà trường thì đã sa vào cái đường khổ não rồi!

Từ nầy chàng lững đững lờ đờ, buồn mà không tỏ với ai được, muốn viết thơ mà tỏ tánh nết Đăng Cao cho Túy Nga biết, rồi dụ dự cũng không dám viết.

Cách chừng một tháng, một buổi chiều, biện Yến đương ngồi ăn cơm với vợ con, chú nói rằng ông Bình đã nhứt định gả cô Túy Nga cho con ông bá hộ Thiện, ngày cưới đã định rồi, bà Bình đã đi Sài Gòn mua hột xoàn và đặt may áo quần sữa soạn đưa con về nhà chồng.

Hải Đường hay tin ấy thì đau đớn như kim châm ruột. Khối tình đã rã, hy vọng đã tan, đường đời chẳng còn mục đích gì nữa. Chàng suy nghĩ trong mấy ngày, rồi quyết dục tắt lửa lòng, định lấy sự học vấn mà làm chủ hướng, không thèm kể việc gia thất. Chàng bèn thưa với cha mẹ rằng mấy ông thầy dạy chàng học đều thương chàng, thuờng hay khuyên chàng nên xin học bổng đặng qua bên Pháp mà học thêm ít năm nữa, lại hứa nếu chàng xin học bổng thì mấy ổng sẽ lập thế nói giùm cho, bởi vậy chàng muốn nghe lời thầy mà xin qua Pháp học thêm năm bảy năm nữa, lấy bằng cấp cao đẳng về mới vinh quang, làm việc ăn lương mới lớn.

Biện Yến không rõ tâm sự của con, lại thấy con có chí muốn học cao hơn nữa, thì lấy làm hiệp ý mình, bởi vậy chú đã không ngăn cản, mà lại còn xúi thêm con.

Hải Đường là một học trò giỏi nhứt trong lớp, bởi vậy từ đốc học tới giáo sư ai cũng đều yêu mến. Chàng lên Sài Gòn làm đơn xin học bổng, cậy mấy ông giúp lời. Đám cuới cô Túy Nga vừa rồi thì chàng cũng được giấy của quan trên cấp cho chàng học bổng mỗi năm sáu ngàn quan, đặng chàng qua pháp mà học.

Hải Đường từ giã cha mẹ mà đi, tuy uất tình, song đắc chí.

***

[1] xông= chái. Hai căn xông= hai căn một chái

[2] cân xứng, vừa nhau

[3] sân trồng rau cải

[4] (manchon), đèn dầu đốt theo nguyên tắc đèn khí, tim đèn là một cái lưới bằng carbon.

[5] không nói, không có ý kiến

[6] phô bày sự ác độc của con người

[7] tiếng kêu của con thằn lằn

[8] ngăn nắp và đầy đủ