Dịch Lộ Lê Hoa

Chương 42: Xuân cố hương còn dài

Mà nhìn Đàm Tú Trữ cùng tổ chẩn bệnh với mình, Lộ Dao càng thường hay ngơ ngẩn. Ngày hôm đó nàng buột miệng
hàm hồ nói với Ân Lê Đình mình cảm thấy Đàm Tú Trữ quen mắt, chỉ vì nữ
hài tử này khiến nàng nhớ đến mình nhiều năm về trước. Lúc bảy ngày của
Đàm Lộc Trữ, nàng nhìn Đàm Tú Trữ khóc cơ hồ ngất đi lại cắn răng nói
nếu mình rời khỏi Tuyền Châu, làm thế nào đối mặt với huynh trưởng qua
đời. Không nghe lời khuyên của người khác, không để ý người ta nói gì,
bản tính quật cường, kiêu ngạo bền bỉ từ trong khung, không thuận theo
nghịch cảnh, thậm chí ý tốt cũng thế. Cũng giống nhau, trong lòng cũng
giấu diếm điều không thể nói cùng ai. Chỉ có điều, cách hai người che
giấu tất cả không giống nhau. Đàm Tú Trữ tính tình hiền lành nhã nhặn,
còn tính Lộ Dao thế nào, bản thân nàng cũng không biết, hiểu rõ nhất e
chỉ có Cố Nhược Trường. Mỗi lần nhớ lại, chuyện cũ nhiều năm từng việc
từng việc hiện ra, nhất thời thần sắc Lộ Dao mê mang vô hạn.

Còn
như Lộ Dao nói sẽ tìm cho Ân Lê Đình một cô nương còn tốt hơn Kỷ Hiểu
Phù, Ân Lê Đình không biết trong lòng có cảm giác gì nữa, mấy lần muốn
nói với Lộ Dao điều gì đó, lời ra tới miệng lại không biết nói làm sao,
càng nghĩ càng cảm thấy từ đầu tới chân đều nóng bừng, đành nuốt trở về. Hơn nữa, vài ngày nay chàng thấy Lộ Dao hồn vía lên mây, nỗi lo cho
nàng đã vượt quá vướng víu trong lòng. Chàng không biết vì sao tinh thần Lộ Dao bất thường, mới đầu cứ nghĩ là thời gian này mệt quá, nhưng về
sau bệnh nhân ít dần, rảnh rỗi ra Lộ Dao lại càng dễ dàng thất thần. Vô
thức, Ân Lê Đình cảm thấy rất bất an trước việc Lộ Dao thất thần vô
duyên vô cớ thế này. Mỗi lần chàng khẽ gọi nàng, muốn kéo nàng ra khỏi
mạch suy nghĩ, thường nàng không nghe thấy, nếu có nghe cũng chỉ nhìn
chàng cười cười, hoàn toàn không chú ý mấy món kim châm, siêu thuốc này
nọ trong tay mình suýt nữa thì rớt xuống đất may có Ân Lê Đình nhanh tay đỡ được. May mà tình hình dịch bệnh Tuyền Châu đã giảm rất nhiều, Từ
Thiên đã bắt tay trù tính kế hoạch quay về. Ân Lê Đình cảm thấy nhẹ
nhõm, nghĩ thầm óc lẽ Lộ Dao rời khỏi Tuyền Châu sẽ khá lên.

Mười lăm tháng năm, cả ngày Lộ Dao không đến y quán, trầm mặc lạ thường, chỉ kéo Ân Lê Đình đi một vòng lên tường thành, ngồi xuống nhìn cảnh sắc
ngày xuân có phần mơ hồ xa xa.

Chuyện xưa như tỉnh giấc mơ, ngày
xuân còn kéo dài nơi quê nhà? Bỗng dưng nhớ sắc trời xanh biếc, nỗi
tương tư biết đến cùng ai? [39]

Lộ Dao từng không có sở trường về khoản thơ từ ca phú, nhưng Nhược Trường lại thích. Từ nhỏ, nàng và Thu
Nhiên cùng lớn lên với Nhược Trường, mưa dầm thấm đất, tốt xấu gì cũng
học được ba phần. Lúc đó Lộ Dao luôn lấy mấy thứ Nhược Trường đưa cho
nàng ra chọc, nói viết cái thư cũng bày đặt học người xưa ngâm gió gợi
trăng. Nhưng về sau, chuyện cũ người xưa chẳng còn, những giấy viết thư
giấy nhắn tỉ mỉ thu gom lại bị nàng giở coi hết lần này đến lần khác,
thì thầm đọc, đắn đo từng câu từng chữ. Ký ức khắc sâu trong một góc
không người biết, mỗi năm, cùng với sắc cỏ xanh biếc lúc cuối xuân đầu
hạ, nó bỗng dưng ùa về, đầy ắp mềm mại, từ từ sinh sôi, chớp mắt liền
chiếm cứ toàn bộ suy nghĩ của nàng. Mỗi năm, vào thời điểm này, những
suy nghĩ ấy lại hao mòn hết toàn bộ tâm sức, kiên trì của nàng, khiến cả người nàng dường như đang đứng trong một lối đi cổ xưa của thành hoang
không thấy tận cùng, vẫn là trời xanh quang đãng đó nhưng lại không nhìn thấy vương tôn mình có thể tiễn đưa.

Ân Lê Đình đứng cạnh Lộ
Dao, yên lặng nhìn nàng, cảm giác hơi thở nhẹ nhàng trong sáng quen
thuộc thường ngày của nàng bỗng dưng càng trở nên khó hiểu, trống vắng
mà bi thương, ngay cả tâm trạng chàng dường như cũng bị cảm giác này lây nhiễm. Trước giờ, Ân Lê Đình gặp qua Lộ Dao đủ thời điểm, lúc cao hứng
thì dương dương đắc ý, lúc tức giận phùng mang trợn má giậm chân, lúc
nghiêm túc thì chững chạc đàng hoàng tranh luận. Tính chàng rụt rè e

thẹn, không rành tình yêu nam nữ, động lòng với nàng, vô số lần chàng
len lén nhìn trộm từng nụ cười, từng cái nhăn mày của nàng. Nhưng bất
luận là dáng vẻ gì đều chưa từng có vẻ mặt thế này. Song hôm nay, mặc dù chàng không nhìn ra Lộ Dao có điểm gì không giống ngày thường nhưng
chàng thật sự, thật sự cảm giác được tâm tình khổ sở chiếm cứ tâm trí
này. Chàng muốn mở miệng gọi nàng, hỏi vì sao nàng lại như thế nhưng
không thể nào nghĩ ra được cách hỏi, vì thế đành đứng cạnh nàng, yên
lặng cùng nàng.

Hai người cứ đứng như thế, tâm tư mỗi người trăm
chuyển ngàn hồi, mãi đến khi mặt trời đã ngả về tây, trăng trồi lên khỏi phương đông, lối đi trên tường thành xuất hiện mấy người, bước chân
loạn xạ nặng nề, hiển nhiên không biết võ công. Ân Lê Đình quay đầu,
nhìn thấy Từ Thiên dẫn theo mấy gã sai vặt, khiêng một cái án hương, lư
hương cắm nhang đang cháy cùng mấy mâm điểm tâm hoa quả, thậm chí có cả
rượu lên đầu thành.

Mấy sai vặt nhanh tay nhanh chân bố trí hương án
đàng hoàng, Từ Thiên hành lễ với Lộ Dao và Ân Lê Đình, không nói một
lời, nhẹ nhàng dẫn nhóm sai vặt đi xuống. Ân Lê Đình nhìn hương án, phát hiện bài trí như thế rõ ràng là cúng tế mà. “Lộ Dao, đây là…?”

Lộ Dao quay đầu nhìn chàng khẽ nói “Hôm nay là ngày giỗ Cố Nhược Trường.
Vốn ta nên về Thu Linh trang cùng Thu Nhiên nhưng chuyện Tuyền Châu chưa kết thúc, năm nay làm ở chỗ này vậy.”

Ân Lê Đình nghe xong chợt
hiểu. Trung Thu năm ngoái trên núi Võ Đang, chàng từng nghe Lộ Dao nhắc
tới. Phó Thu Nhiên, nàng và một tiểu hài tử tên Cố Nhược Trường, ba
người cùng nhau lớn lên. Khi ấy không hề chú ý, bây giờ ngẫm kỹ, quả
nhiên chỉ thấy nàng thường xuyên liên lạc với Phó Thu Nhiên, chưa từng
nhắc tới người còn lại. Bây giờ nghe ra, thì ra Cố Nhược Trường đã không còn trên đời này nữa. Xem ra mấy ngày nay tinh thần Lộ Dao lơ đãng ắt
là vì ngày giỗ của Cố Nhược Trường tới gần, tưởng nhớ cố nhân sầu thương vô hạn mà ra.

Ân Lê Đình thấy nàng đưa hai tay cầm ba nén nhang, châm lửa, thong thả bái về phía hoàng hôn ba bái, cắm nhang vào lư
hương. Cầm bầu rượu, rót ba chung, chậm rãi rải xuống đất.

Sau đó lại rót hai chung, đưa cho Ân Lê Đình một chung, khẽ khàng “Nhược
Trường không thích uống rượu, Ân lục ca uống cùng ta một chung đi.”

Nụ cười mới rồi của Lộ Dao khiến lòng Ân Lê Đình run lên, đau đớn rầu rĩ
vô hạn. Bây giờ thấy vẻ mặt Lộ Dao, không tự chủ được gật đầu, cùng Lộ
Dao ngồi trên tường thành, chậm rãi uống rượu trong chung. Rượu là rượu
Lan Lăng tuyệt hảo, sắc rượu vàng kim, vào miệng thoảng hương thật lâu.

Lộ Dao không nói một tiếng, uống hết ly này đến ly khác, chớp mắt đã hết nửa bầu rượu.

Ân Lê Đình thấy mặt Lộ Dao đỏ gay, ánh mắt mông lung dưới ánh trăng hơi ảm đạm, chàng nhẹ nhàng đè tay nàng “Lộ Dao, đừng uống nữa.”

Lộ Dao đã ngà say, mặt đỏ bừng bừng, híp mắt nhìn chàng nửa ngày, bướng bỉnh
cầm lấy bầu rượu, lại rót một ly nói “Ta cứ muốn uống đấy thì sao?”

Ân Lê Đình biết tính khí Lộ Dao có phần nóng nảy, cũng rất bướng bỉnh,
nhưng đây là lần đầu tiên nhìn thấy một mặt trẻ con của nàng. Nghĩ nàng
đến đây cúng tế người xưa, e là nhớ tới chuyện đau lòng, vì thế cũng
không khuyên nữa.

Một bầu rượu cứ thế mà tì tì uống hết, mãi đến
cuối cùng một giọt cũng không còn. Lúc này sắc mặt Lộ Dao đỏ rực, dưới
ánh trăng sáng trong càng thêm xinh đẹp, nàng hít sâu một hơi, đầu óc
tỉnh táo lại một chút nhưng càng thêm ngẩn ngơ. Nhìn ba nén nhang lập
lòe trên hương án, tâm tình càng thêm nặng nề phiền muộn. Mọi năm, thời
điểm này nàng đều kề vai Phó Thu Nhiên, chỉ cần hai người ở cùng nhau
thì một giọt nước mắt cũng sẽ không rớt xuống. Ân Lê Đình nhìn viền mắt
đỏ hoe của Lộ Dao, lại kềm nén không để nước mắt chảy ra, không nhịn
được vỗ nhè nhẹ vai nàng, nói “Lộ Dao, nếu muội khổ sở thì khóc ra đi.
Nhịn như vậy sẽ ảnh hưởng thân thể.”

Lộ Dao lắc mạnh đầu “Ta đã
hứa với Nhược Trường, tuyệt đối không khóc trong ngày này, nếu không
dưới suối vàng huynh ấy không yên tâm được.”

Ân Lê Đình giật
mình. Chàng không ngờ Lộ Dao lại thề như thế. Dưới chốn suối vàng không
thể an tâm, chàng nhíu mày, lời thề độc như thế, vì sao Cố Nhược Trường
lại làm vậy?

Lộ Dao lắc đầu, ráng nặn ra một nụ cười, dường như
nhìn thấu được suy nghĩ của Ân Lê Đình “Nhược Trường cũng vì tốt cho ta
và Thu Nhiên mà thôi.” Khẽ than thở, nhẹ giọng “Ân lục ca, lâu lắm không có người trò chuyện với Nhược Trường cùng ta rồi, hôm nay ta kể cho
huynh nghe chuyện xưa nhé.”

Ân Lê Đình đáp khẽ “Ừ.”

Lộ Dao nhìn ba nén nhang nghi ngút đăm đăm, cất giọng xa xăm kể chuyện Cố
Nhược Trường cùng một số việc xảy ra lâu lắm rồi. Âm thanh hòa lẫn ánh
trăng trong trẻo, lại có vẻ bình lặng, như có như không, dường như đang
thuật chuyện người khác.

Cha mẹ Lộ Dao và Phó Thu Nhiên đều chết
trong trận thiên tai đó, Cố Nhược Trường từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, chỉ
còn mỗi bà nội tuổi cao. Sau tai nạn, ba đứa nhỏ cứ thế nương tựa lẫn
nhau. Nhưng Cố Nhược Trường lớn hơn Lộ Dao và Phó Thu Nhiên hai tuổi,
lại thêm từ nhỏ không có cha mẹ, tính tình càng kiên cường độc lập hơn,
tuổi còn nhỏ mà làm việc hết sức cẩn trọng ổn thỏa. Vậy là từ đó trở đi, hai đứa trẻ Lộ Dao và Phó Thu Nhiên đều dựa dẫm vào sự chăm sóc dạy dỗ
của Cố Nhược Trường, từ sinh hoạt tới học hành, gần như từng li từng tí
một. Lộ Dao và Phó Thu Nhiên đều quyết chí học y, vì thế Cố Nhược Trường không do dự thi vào học viện y khoa, chỉ vì có thể ở gần chăm sóc cả
hai. Thành tích cả ba đều không sai, để không tách rời, sau khi tốt
nghiệp đều xin đến công tác cùng một bệnh viện. Năm đó Lộ Dao đăng ký
làm bác sĩ cứu hộ, sau khi Phó Thu Nhiên biết mắng cho Lộ Dao một trận,
trách nàng tự tiện quyết định mà không nói với hai người. Cố Nhược
Trường không nói gì, tối ấy liền gọi điện thoại ghi danh. Nhìn Phó Thu
Nhiên vừa điền tên vừa oán giận Cố Nhược Trường chiều Lộ Dao tùy hứng
quá mức. Lần này, tuy rằng ba người cách nhau không xa nhưng lại không
thể ở chung một chỗ. Lộ Dao và Cố Nhược Trường làm bác sĩ điều trị tại
bệnh viện dã chiến của hội chữ thập đỏ ở một khu bạo loạn, Phó Thu Nhiên lại phụ trách chữa trị phòng chống dịch bệnh ở khu miền núi cách đó hơn một trăm cây số. Lần đầu tiên ba người tách ra, mơ hồ thúc đẩy vận mệnh của mấy con người.

“Lúc ấy mỗi ngày ta và Nhược Trường đều cứu
chữa binh lính, tướng quân, bá tánh bình dân nơi vùng bạo loạn khói lửa
mịt mùng đó. Ta nhớ có một binh sĩ, cả cánh tay trái bị thương, do trước đó không xử lý ổn thỏa, vài chỗ bị hoại tử, viêm loét rất nặng, nguy
hiểm đến tính mạng. Lúc đó thuốc men hết sức thiếu thốn, biện pháp giữ
mạng duy nhất là cắt chi, cắt hết cả cánh tay từ trên xuống. Nhưng khi
ấy dụng cụ của chúng ta cũng thiếu nặng. Đó là lần đầu tiên ta mổ trong
tình huống như thế. Binh sĩ đó bị năm đồng đội đè xuống nhưng ta không
cách nào hạ dao xuống được, tay cứ run lẩy bẩy. Vì thế Nhược Trường lên, ta nhìn huynh ấy cầu khẩn, muốn để huynh ấy làm thay ta, huynh ấy lại
không làm mà dùng một tay nắm chặt lấy tay ta, giúp ta hạ nhát dao đó
xuống. Khi đó tay huynh ấy vững vàng như thế, thủ pháp sắc bén nhanh
nhẹn như thế. Nhát dao đó, sau này mỗi khi ta chần chừ không dám hạ dao, nhớ lại bàn tay vững chãi, ấm áp của huynh ấy khi đó sẽ từ từ bình tĩnh lại. Lần đó, trong tình hình không có thuốc mê, ta hoàn thành ca mổ cắt chi nhanh chóng, gọn gàng hơn bất kỳ ca mổ nào trước đó. Từ đó về sau,
ta hiểu được một đạo lý, phàm là càng sợ hãi mà trốn tránh thì càng hãm
sâu, chẳng bằng cắn răng đối mặt.”

Rốt cuộc Ân Lê Đình cũng hiểu
được, bản lĩnh bình chân như vại của Lộ Dao mỗi lần đề cập tới y thuật,
ví dụ như lần cứu Mai Hàn Hề giữa màn đao quang kiếm ảnh không phải trời sinh mà là rèn luyện dưới bàn tay dẫn dắt từng chút một của Cố Nhược
Trường mà ra. Nhất thời, không kềm nổi tâm tình, Ân Lê Đình lấy hết can
đảm nhẹ nhàng nắm khẽ bàn tay Lộ Dao, cảm giác nó lạnh buốt nhưng lại
rất vững vàng, như lúc cầm dao mổ, kim châm. “Có lẽ, Cố huynh hy vọng
muội có thể bình tĩnh đối mặt với việc huynh ấy ra đi mới trăn trối với
muội và Phó trang chủ như thế. Ắt hẳn huynh ấy, huynh ấy…” Lòng Ân Lê
Đình đau nhói “Ắt hẳn huynh ấy rất để ý muội, thế nên không muốn muội
khổ sở thế này.”

Lộ Dao lại lắc đầu nhẹ đến mức không nhìn thấy
được “Lúc nhỏ chúng ta nương tựa lẫn nhau như hình với bóng. Hôm nào
không nói ngủ ngon với Nhược Trường, chắc chắn ta và Thu Nhiên không ngủ được. Sau này lớn lên, chúng ta cảm thấy Nhược Trường như nước và không khí, không thể dứt bỏ. Đến khi ra chiến trường làm đại phu nửa năm, vô
số lần ta hoài nghi ý nghĩa niềm tin từ nhỏ ta vẫn giữ gìn. Trước đó ta
chữa cho binh sĩ bị cắt tay kia, trong tình huống thiếu thốn dược liệu,
cuối cùng vẫn sống sót, gần như là kỳ tích. Nhưng vẫn không bị điều về,
vết thương vừa lành cậu ta lại quay lại chiến trường. Vẻn vẹn ba tháng
sau, mấy binh sĩ bị trọng thương được đưa tới, trong đó có một người bị
nổ biến dạng mặt mũi hoàn toàn. Nhưng ta nhận ra được vết thương nơi
cánh tay trái của hắn, là người ta nỗ lực cứu sống ba tháng trước. Người đó bị thương nặng quá, đưa vào không được mấy khắc liền tắt thở. Thế
đó, ta phí bao tâm sức cắn răng giành lại tính mệnh, chỉ ngắn ngủn nửa
tháng lại chết trên chiến trường. Lúc đó ta cực kỳ chán nản, hoài nghi
cái nghề đại phu này có phải là trò cười hay không, đằng nào người cũng
phải chết, sớm hay muộn có gì khác nhau? Cứu chữa bệnh nhân có tác dụng
gì? Chẳng qua là để người đó sống thêm ba tháng mà thôi. Mỗi lần nghĩ
đến chuyện đó, ta lại bắt đầu sợ làm đại phu, thậm chí lúc khám bệnh
không thể tập trung tinh thần. Nhưng ngay lúc đó, Nhược Trường nói với
ta những lời ngày đó ta đã nói với huynh. Vì thế mà ta nói, chẳng những
Nhược Trường là chỗ dựa từ nhỏ của ta, còn dạy ta cách đối xử với mọi
việc, mọi vật, làm cách nào giữ được một chút niềm tin của mình trong
thời buổi loạn lạc phức tạp này. Lời lẽ ít ỏi nhưng lúc đó ta cảm thấy,
có thể bên Nhược Trường, mọi sự mọi thứ trên đời đều không quan trọng
bằng huynh ấy.”

Ân Lê Đình nghe Lộ Dao thủ thỉ, nhất thời trong
lòng rối loạn cùng cực, nói không rõ là nể hay phục, là ghen hay ghét.
Sắc mặt thoáng tái xanh của Lộ Dao khiến chàng cơ hồ khổ sở thay nàng.
Từng có một người như thế, lúc chàng hãy còn là một đứa bé đã quan tâm
yêu thương chăm sóc Lộ Dao bé bỏng, thời niên thiếu thanh xuân hai người bầu bạn, lúc Lộ Dao hoang mang vô lực ân cần dẫn dắt. Chàng từng lấy
làm kinh ngạc vì Lộ Dao có thể bình tĩnh tập trung chữa bệnh trong hoàn
cảnh quân Nguyên bao vây, lại không ngờ rằng năm xưa nàng cũng từng sợ
hãi cũng từng run tay, là người đó cầm tay dìu nàng vượt qua. Chàng đã
từng bội phục Lộ Dao đối mặt với người bệnh không thể cứu chữa cố chấp
và thản nhiên thế nào, không ngờ nàng cũng từng mâu thuẫn, từng rối rắm, là từng câu từng chữ của người đó mở lối cho nàng. Cái gọi là như cha
như anh như thầy như bạn, cũng chỉ đến thế mà thôi. Người như thế, trước khi ra đi còn muốn Lộ Dao hứa không khóc vào ngày giỗ của mình, xem ra
nhất định huynh ấy yêu Lộ Dao sâu đậm, hi vọng sau khi mình đi, nàng sẽ
không chìm đắm trong bi thương mà có thể sống được vui vẻ hạnh phúc.
Chàng nhìn vẻ mặt cô quạnh nghiêng nghiêng của Lộ Dao, dáng người trong
chiếc áo choàng trắng rộng thùng thình lộ rõ nét gầy yếu, cơ hồ vươn
cánh tay ra một cách tự nhiên, nhẹ nhàng quàng lấy bờ vai Lộ Dao, không
biết vì muốn an ủi nàng hay là sợ nàng bỗng dưng biến mất.


Lộ Dao cảm thấy bờ vai ấm áp, giống như mỗi năm trước đây, ngày này nàng cùng
Thu Nhiên cúng tế, Thu Nhiên lặng lẽ thấu hiểu, chống đỡ cho nàng. Lại
giống như rất nhiều năm trước, mỗi lần mình rầu rĩ không vui hoặc hoang
mang thất lạc, Nhược Trường mỉm cười dẫn lối và an ủi. Theo bản năng, Lộ Dao muốn bắt lấy chút ấm áp đó.

Cả Ân Lê Đình cũng không ngờ, có ngày chàng sẽ ôm một nữ hài tử thế này. Thực tế, bất luận là chủ động
hay bị động, đây đã là lần thứ ba rồi. Lần đầu tiên ở trong sơn động, Lộ Dao ngủ ngon lành, chàng lại đỏ mặt căng thẳng cả một đêm. Lần thứ hai ở cổng phủ châu Tuyền Châu, kích động mừng rỡ kinh ngạc khi thấy Lộ Dao
bình an vô sự, chàng ôm chầm lấy nàng, chỉ muốn xác nhận nàng vô sự. Lần thứ ba này, tâm tư nàng rối loạn, ôm nàng chỉ mong nàng bớt khổ sở một
chút, cũng hi vọng bản thân khá hơn một chút. Vì thế, khi Lộ Dao vùi mặt vào bờ vai chàng, thì thào gọi “Nhược Trường, Nhược Trường”, gương mặt
vốn đỏ hồng nóng ran của chàng lại chậm rãi dịu xuống. Nhẹ nhàng dùng
tay vỗ nhè nhẹ vai Lộ Dao, phát hiện Lộ Dao trước mắt chàng không vui vẻ như chàng từng nghĩ, cũng không kiên cường như nàng biểu hiện trước đó.

Trăng lên giữa bầu trời, Lộ Dao không chịu nổi hơi rượu, lại thêm mấy ngày
nay tâm tình nặng nề, vùi mặt lên vai Ân Lê Đình, mơ mơ màng màng, giọng nói càng lúc càng nhỏ, từ từ ngủ thiếp đi.

Ân Lê Đình cảm giác hơi thở Lộ Dao từ từ ổn định, chậm rãi trở lại, nhẹ nhàng gọi “Lộ Dao? Lộ Dao?”

Thấy nàng không phản ứng, biết nàng đã ngủ rồi. Có lẽ vì nàng đã ngủ, Ân Lê
Đình gần như rất tự nhiên dang hai tay bế ngang nàng lên, không có nửa
phần vấp váp. Song dường như động tác này kinh động tới Lộ Dao, nàng hơi ậm ừ một tiếng “Nhược Trường…” bất an dụi dụi má mình trên vai Ân Lê
Đình.

Bỗng dưng lòng Ân Lê Đình mềm đi, mặc kệ má lại nóng ran, nhỏ nhẹ thì thầm “Ừ, muội ngủ cho ngon.”

Không biết vì cảm giác ấm áp trong vòng tay hay là nét mặt Lộ Dao dần giãn
ra, cảm giác chua xót trong lòng mới rồi từ từ biến mất.

Quả nhiên Lộ Dao không động đậy nữa, lại nặng nề thiếp đi.

Ân Lê Đình nhìn hương án hãy còn bày lư hương trái cây, nhang sớm đã tắt
ngúm, lúc này ánh trăng cực kỳ sáng sủa, chiếu ánh sáng dìu dịu trên án
hương. Rèm mi rủ xuống, ánh mắt trong trẻo thấy đáy, thì thầm tự nhủ “Cố huynh, từ nay ta sẽ dốc hết sức mình, để Lộ Dao được như mong ước của
huynh.”

Tác giả có lời muốn nói:

Đối với tiểu cô nương
thần kinh hơi thô này mà nói, yêu một người không dễ, còn là loại tình
cảm lẫn lộn giữa tình thân và hâm mộ. Cái gọi là mặt đỏ tim đập, phỏng
chừng năm đó hết tám phần là chưa trải qua. Thế nên, mọi người cũng nên
lượng thứ việc nàng hoàn toàn không hiểu chút tình cảm nam nữ bất thường mà Ân Lê Đình thể hiện.

Cố Nhược Trường, miễn cưỡng xem là nam
phụ. Có điều người đã không còn rồi, mọi người đừng ngắt nhéo anh ta như Tô Tiếu… vả lại Tô Tiếu còn không được tính là nam phụ nữa kia…

Về Ân Lê Đình, có người nói bi kịch của Kỷ Hiểu Phù khiến chàng trưởng
thành, lời này ở một mức độ nào đó tôi không đồng ý, chỉ vì quá trình đó quá đau khổ quá bi thảm, hơn nữa phát triển có hơi bệnh hoạn. Có điều
nếu một người luôn luôn mưa thuận gió hòa, e rằng rất khó trưởng thành.
Giả sử bây giờ Lộ Dao cũng yêu chàng, hai người cao hứng ngọt ngào hạnh
phúc, tôi đoán cả đời này chàng cũng không trưởng thành được. Cái gì là
trưởng thành, cá nhân tôi cảm thấy đó là quá trình tìm thấy bản thân
trong nghịch cảnh. Lộ Dao cũng vậy mà Ân Lê Đình cũng thế. Huống chi cái này cũng không tính là nghịch cảnh gì.

Nếu nói lúc vừa tới
Tuyền Châu, Ân Lê Đình nhất thời luống cuống, tôi cảm thấy trước mắt Ân
Lê Đình bắt đầu từ từ đắn đo, hơn nữa hiểu được một điều gì đó.

Chuyện liên quan đến kiếp trước của Lộ Dao, sau này sẽ từ từ nhắc đến, Không cần gấp, cái này cần tình cảm.

[39] Ta dịch từ bốn câu gốc 旧事方惊梦,故园可春深?坐怀晴翠色,相忆谓谁人? (Cựu sự phương kinh
mộng, cố viên khả xuân thâm? Tọa hoài tình thúy sắc, tương ức vị thùy
nhân) dịch dở mọi người thông cảm