Địa Đồ Di Cốt

Chương 4: Cát bụi về cát bụi

Ngày 24 tháng 7, 12 giờ 14 phút

Washington D.C.

Phi vụ đã được giao ưu tiên màu da cam, phân công màu đen và quy chế an ninh màu bạc. Giám đốc Painter Crowe lắc đầu trước cách mã hóa theo màu sắc như vậy. Vị quan chức nào đó chắc phải đến thăm cửa hiệu Sherwin - Williams nhiều lần lắm thì phải.

Tất cả mọi tính toán đều hướng về một đích: Không được thất bại. Khi đã dính đến những vấn đề có tầm an ninh quốc gia sẽ không có vị trí thứ hai, không có huy chương bạc, không có kẻ tụt hậu.

Painter ngồi cạnh bàn làm việc, đọc lại báo cáo của người điều hành tác chiến. Tất cả có vẻ như ổn. Gây dựng lòng tin, nâng cấp mật mã điểm an toàn, hoàn tất các thiết bị kiểm tra, phối hợp lịch trình vệ tinh và hàng nghìn các chi tiết khác đã được hoàn tất. Painter đọc lại bản phân tích chi phí của phi vụ. Ông sẽ có một cuộc họp về ngân sách tuần tới với Tham mưu Liên quân.

Ông dụi mắt. Đó là một phần của cuộc sống của ông: công việc bàn giấy, những lệnh triển khai và sức ép. Hôm nay quả là một ngày vất vả. Đầu tiên là vụ phục kích của Hiệp hội, còn bây giờ là một phi vụ quốc tế phải tiến hành. Tuy nhiên một phần trong ông vẫn luôn say mê thách thức và trách nhiệm mới. Ông đã được giao tổ chức Sigma từ người sáng lập ra nó, Sean MsKnight, giờ đây đã là giám đốc của tổ chức DAPKA. Painter không hề muốn làm người đỡ đầu mình phải thất vọng. Suốt buổi sáng, cả hai đã bàn bạc về vụ tấn công vào Fort Detrick và phi vụ sắp tới, sâu chuỗi toàn bộ công việc giống như ngày trước. Sean ngạc nhiên trước việc Painter lựa chọn người chỉ huy nhóm, nhưng cuối cùng đó vẫn là quyết định của ông ta.

Như vậy, phi vụ được chấp thuận.

Tất cả những gì còn lại là thông báo cho các điệp viên. Giờ chuyến bay được định vào lúc 0 giờ 20 phút. Không còn nhiều thời gian. Một chiếc máy bay tư nhân, được Oil Kensington nạp nhiên liệu và thu xếp miễn phí, quả là một vỏ bọc tuyệt vời. Chính Painter đã sắp xếp chuyện này sau một cú điện nhờ vả phu nhân Kara Kensington. Bà ta rất hài lòng, sẵn sàng giúp đỡ Sigma lần nữa. “Liệu những người Mỹ các ông có thể tự mình làm nổi việc gì không?” Bà chọc ông.

Máy điện thoại nội bộ reo trên bàn.

Ấn nút máy, ông ra lệnh “Nói đi.”

“Thưa giám đốc Crowe. Tôi đã có được tiến sĩ Kokkali và Bryant ở đây rồi.”

“Cho họ vào”.

Một tiếng chuông cửa rồi tiếng khóa cửa bật tách. Monk Kokkali đẩy cửa vào trước rồi giữ cánh cửa cho Kathryn Bryant. Cô ta cao hơn hẳn anh chàng mập cựu biệt kích mũ nồi xanh một cái đầu. Cô di chuyển duyên dáng như một con báo đầy sức mạnh tiềm ẩn. Mái tóc màu hạt dẻ xõa đến vai được túm lại gọn gàng giống như bộ quần áo cô đang mặc: áo màu xanh lính thủy, váy màu trắng, giày da cao cổ. Chỉ có một thứ duy nhất lấp lánh đó là chiếc kẹp gắn mẩu đá quý có hình một con cóc nhỏ. Mạ vàng trên đá quý. Thật tương xứng với cặp mắt xanh của cô.

Painter biết tại sao cô lại đeo chiếc kẹp mạ vàng. Con cóc là một món quà của nhóm lính thủy đánh bộ cô từng tham gia trong một cuộc hành quân trinh sát để thu thập tin tức tình báo hải quân. Cô đã dùng sức mạnh phi thường của mình cứu được hai người. Có điều là một đồng đội của cô không bao giờ quay trở lại. Cô đeo chiếc kẹp để kỷ niệm người xấu số, Painter tin rằng còn có nhiều tình tiết trong câu chuyện đó nữa nhưng hồ sơ của cô không cho biết gì hơn nữa.

“Xin mời ngồi” Painter chào cả hai bằng cái gật đầu.

“Thế chỉ huy Pierce đâu rồi?”

Monk cựa quậy trên ghế “Gray… chỉ huy Pier có việc gia đình đột xuất. Anh ta vừa về đến nơi. Sẽ lên ngay bây giờ”.

Nói đỡ cho nhau. Tốt. Đó là lý do vì sao ông đã dọn Monk Kokkali vào phi vụ này, xếp anh ta đi cùng với Grayson Pierce. Họ bổ sung tài năng cho nhau nhưng quan trọng hơn, tính cách họ hợp nhau.

Trong khi Monk là một kẻ sách vở thì Gray lại là người ưa hành động. Song Gray lại chịu nghe Monk hơn bất kỳ thành viên nào trong Sigma. Anh ta đã thổi chất thép vào con người Gray. Monk có cách nói đùa và pha trò tếu rất thuyết phục, cũng như những lập luận đưa ra rất thấu đáo. Họ làm thành một cặp hoàn hảo.

Và một mặt khác…

Painter để ý Kat Bryan vẫn ngồi thẳng đuột, rất chăm chú. Cô không hề tỏ ra e sợ, thậm chí trông còn có vẻ hung hăng phấn khích. Nhìn cô thấy toát ra sự tự tin. Có thể hơi quá. Ông quyết định đưa cô vào phi vụ này do cô xuất thân là một nhân viên tình báo hơn là việc cô đang theo học cơ khí. Cô có kinh nghiệm với các quy chế ở các nước EU, đặc biệt khu vực Địa Trung Hải. Cô biết về hoạt động do thám siêu điện tử và phản gián. Quan trọng hơn nữa, cô đã từng hợp tác với một trong các nhân viên tình báo Vatincan, ngài Verona, người rất có thể giám sát công việc điều tra. Hai người đã từng hợp tác với nhau trong vụ phá án nhóm quốc tế chuyên ăn cắp tranh nghệ thuật.

“Có khi chúng ta nghiên cứu hồ sơ trong lúc chờ chỉ huy Pierce”. Painter chuyển hai tập hồ sơ dày cộp gáy màu đen, một tập cho Bryant, tập kia cho Kokkali. Tập hồ sơ thứ ba đợi Pierce.

Monk liếc nhìn dòng chữ bạc Sigma được gắn trên bìa tập hồ sơ.

“Cái này sẽ điền những chi tiết hay hơn cho cuộc hành quân”. Painter nói, gõ nhẹ vào những màn hình xoa trên bàn. Ba màn hình Sony phẳng – một cái ở sau vai, một cái bên phải, một cái bên trái cho thấy cảnh của phong cảnh rừng núi được thu với độ nét cao cũng gắn chữ Sigma. “Tôi sẽ đích thân làm công việc thông báo thay vì giao cho người chỉ huy hành quân như mọi khi”.

“Tách biệt tin tức tình báo” Kat nói khẽ, chất giọng phía nam của cô đã được mềm đi từ những âm được phát ra. Painter hiểu cô có khả năng xóa hết mọi dấu vết trong giọng nói của mình nếu cần thiết. “Do xảy ra trận phục kích”.

Painter gật đầu. “Mọi thông tin đều bị hạn chế trước khi có việc kiểm tra rộng rãi hệ thống các quy trình an ninh”.

“Và chúng ta vẫn tiếp tục một phi vụ mới?” Monk hỏi.

“Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác. Do có lời…”.

Tiếng điện thoại nội bộ chen ngang. Painter nhấn nút.

“Thưa ngài giám đốc” Tiếng cô thư ký “Tiến sĩ Pierce đã đến”.

“Cho anh ta vào.”

Lại có tiếng nhạc, cửa mở và Grayson Pierce bước vào. Anh mặc chiếc quần bò Levi’s màu đen, đi giày da, chiếc áo trắng kẻ, tóc chải rẽ, vẫn còn đẫm nước sau khi tắm.

“Tôi xin lỗi”. Grayson nói, dừng lại ở giữa hai nhân viên kia. Nét cứng cỏi trong cặp mắt như muốn che giấu nỗi buồn thực sự. Anh đứng thẳng. Sẵn sàng nghe lời quở trách.

Kể ra thì cũng đáng bị như vậy. Sau khi an nịnh bị chọc thủng giờ đây đã đến lúc phải véo mũi anh ta tại sở chỉ huy. Trước đây một số việc làm sai vẫn luôn được tha thứ tại sở chỉ huy Sigma. Họ vẫn thuộc vào loại những người đàn ông và đàn bà giỏi giang nhất trong những người giỏi giang. Người ta không thể đòi hỏi họ phải hành động độc lập trên trận địa rồi lại mong họ uốn mình chịu đựng kỷ luật sắt ở đây. Điều đó đòi hỏi một bàn tay thầm lặng để cân bằng hai thứ.

Painter nhìn chăm chú vào Grayson. Với hệ thống an ninh được tăng cường, Painter thừa biết là anh ta đã nhận được một cú điện thoại khẩn từ bà mẹ và đã xin phép trung tâm ra ngoài. Đằng sau nét cứng cỏi trong đôi mắt Painter cũng nhận thấy có sự mệt mỏi. Liệu đó có phải bắt nguồn từ trận bị phục kích hay từ chuyện gia đình? Liệu anh ta có thích ứng với nhiệm vụ mới này hay không?

Grayson vẫn đứng chịu trận, mắt không hề chớp. Anh ta tiếp tục chờ đợi.

Cuộc gặp này còn có một mục đích nữa, không chỉ là thông báo tình hình, đó cũng là một cuộc thử thách.

Painter vẫy tay chỉ vào chiếc ghế: “Gia đình là quan trọng.” Ông nói, tha cho anh chàng. “Nhưng đừng để chuyện đó thành thói quen đấy.”

“Không đâu ạ, thưa ngài.” Gray đi ngang qua rồi ngồi xuống nhưng cặp mắt anh vẫn đảo từ màn hình monitor phẳng đến tập hồ sơ trên đùi các cộng sự. Cặp mắt anh hơi nhíu lại. Việc không bị quở trách đã làm anh ta bối rối. Tốt.

Painter đẩy tập hồ sơ thứ ba về phía Grayson. “Chúng tôi vừa mới bắt đầu thông báo về nhiệm vụ”.

Anh ta cầm tập hồ sơ. Một thoáng chán chường hiện lên trong mắt nhưng anh vẫn giữ im lặng.

Painter tựa lưng gõ màn hình ở bàn. Một nhà thờ Gô- tích hiện lên trên màn hình trái, một tấm ảnh chụp bên ngoài. Cảnh bên trong hiện lên ở màn hình trái. Những xác chết nằm ngổn ngang khắp nơi. Phía sau lưng, ông biết là một tấm hình có vạch phấn đánh dấu bàn thờ vẫn còn những vệt máu, rồi cảnh vị linh mục bị sát hại, cha Georg Breitman..

Painter vẫn chăm chú nhìn các nhân viên của mình không rời mắt khỏi các hình ảnh.

“Vụ thảm sát ở Cologne.” Kat Bryan nói.

Painter gật đầu. “Nó diễn ra lúc gần cuối buổi lễ nửa đêm kỷ niệm ngày ăn mừng của những nhà Tiên tri Babilon. Tám mươi lăm người bị chết. Động cơ xem ra là một vụ án trộm thông thường. Cái hòm đựng di cốt vô giá của nhà thờ đã bị đập vỡ.” Painter chuyển qua hình ảnh chiếc quan tài bằng vàng và những mảnh vỡ còn lại của hộp bảo vệ. “Những thứ duy nhất bị mất là báu vật của nhà thờ. Cái gọi là di cốt của các nhà Tiên tri Babilon.”

“Di cốt?” Monk hỏi. “Chúng để lại một cái hòm bằng vàng ròng để lấy một nắm xương khô, ai làm chuyện đó?”

“Điều đó vẫn còn chưa được biết. Chỉ có một người duy nhất sống sót sau vụ thảm sát.” Painter chiếu hình một cậu thanh niên đang được khênh trên cáng, ảnh người đó ở trên giường bệnh viện, đôi mắt mở to nhưng vẫn còn ngây dại vì sốc. “Jason Pendleton. Người Mỹ. Hai mươi mốt tuổi. Cậu ta được tìm thấy trong phòng xưng tội. Khi được tìm thấy, cậu ta như kẻ mất hồn nhưng sau khi được một liều thuốc an thần cậu ta đã có thể cung cấp một bản báo cáo chi tiết Nhóm hành động ăn mặc như những nhà tu. Nhưng không khuôn mặt nào được nhận ra. Chúng xô vào trong nhà thờ. Trang bị súng trường. Một vài người bị bắn, trong đó có vị linh mục và ngài tổng giám mục.”

Thêm nhiều hình ảnh nữa xuất hiện trên màn hình: vết thương do đạn bắn, những ảnh khái quát có vạch phấn, một bản vẽ nhằng nhịt những vạch đỏ mô tả đường đi của các phát súng. Nó giống như cảnh gây tội ác thông thường, có điều là khung cảnh thật khác thường.

“Tại sao chuyện này lại liên quan đến Sigma?” Kat hỏi.

“Còn có những cái chết khác nữa, không thể giải thích được. Để phá chiếc hộp bảo vệ, những kẻ tấn công đã sử dụng một thiết bị gì đó mà không chỉ làm nát vụn cái hộp vốn có khả năng chống đạn bắn xuyên qua, và đồng thời cứ như theo lời người sống sót lại gây ra một làn sóng tử vong khắp nhà thờ.”

Painter với tay ấn nút. Cả ba màn hình đều hiện lên những xác chết khác nhau. Khuôn mặt của các nhân viên đều vô cảm. Họ đã chứng kiến quá nhiều cái chết. Những thân thể bị biến dạng, đầu ngoảnh về phía sau. Một tấm hình chụp cận cảnh một trong những gương mặt của người chết. Mắt mở trừng trừng, còn ngươi chuyển sang màu hổ phách trong khi những dấu vết đen kịt của những giọt nước mắt đã biến thành máu đọng ở khóe mắt. Môi trề ra, như đông cứng vì đau đớn, răng ngậm chặt, lợi rỉ máu, lưỡi sưng vù, giập nát và đen sẫm ở góc.

Monk với năng lực đã được đào tạo về ngành y và pháp y nheo nheo đôi mắt. Anh ta có thể đóng vai trò kẻ đãng trí nhưng lại là một quan sát viên sắc sảo, thế mạnh nhất của anh ta.

“Báo cáo đầy đủ xét nghiệm tử thi nằm trong tập hồ sơ của mọi người.” Painter nói. “Kết luận ban đầu của các bác sĩ cho rằng những cái chết đó là do một biểu hiện nào đấy của cơn động kinh co thắt. Tất cả đều chết trong tình trạng tim bị co bóp mạnh, quá mạnh đến mức không thể tìm thấy máu trong ngực. Một người đang ông mang theo chiếc máy trợ tim bị vỡ tan trong ngực ông ta. Một người phụ nữ mang theo một cái kẹp bằng kim loại được tìm thấy trong chân vẫn còn cháy hàng giờ sau đó, âm ỉ từ trong ra ngoài.”

Các nhân viên giữ vẻ mặt bình thản, nhưng Monk hấp háy một mắt, còn nước da của Kat hình như chuyển sang màu trắng nhợt. Ngay cả Gray vẫn nhìn quá chăm chú vào những tấm ảnh, không chớp mắt.

Nhưng Gray là người đầu tiên lên tiếng. “Liệu chúng ta có nên tin rằng những cái chết này có liên quan đến một thiết bị do những tên trộm gây ra không?”

“Chắc chắn là như vậy. Người sống sót cho biết cảm giác bị sức ép ghê gớm trong đầu khi thiết bị này được bật lên. Anh ta mô tả điều đó như lúc xuống máy bay. Cảm thấy ở tai. Những cái chết xảy ra vào lúc đó.”

“Nhưng Jason vẫn sống.” Kat nói, thở một hơi.

“Nhưng một số khác cũng vậy. Còn những người không bị tác động sau đấy lại bị những kẻ đó bắn chết. Tàn sát một cách dã man.”

Monk cựa quậy. “Một số người cam chịu, một số khác không. Tại sao? Liệu có gì chung cho những nạn nhân của tình trạng co thắt đột ngột này không?”

“Chỉ có một. Một sự thật được Jason Pendleton lưu ý. Những người phải chịu tình trạng co thắt hình như là những người đã ăn bánh thánh.”

Monk chớp mắt.

“Chính vì lý do đó nên Vatican đã liên hệ với các giới chức Hoa Kỳ. Và chúng ta là người phải hứng chịu chuỗi mệnh lệnh đó.”

“Vatican”, Kat nói.

Painter đọc được sự hiểu biết trong mắt cô. Cô đã hiểu ra vì sao mình được chọn tham gia phi vụ này và tạm ngưng chương trình học tiến sĩ về cơ khí.

Painter tiếp tục “Vatican sợ sự việc này nếu được lan truyền rộng ra ngoài sẽ tác động đến lễ ban bánh thánh. Rất có thể là chuyện đầu độc vào những mẩu bánh. Họ muốn có câu trả lời càng nhanh càng tốt, thậm chí nếu cần cũng phải nắn lại luật pháp quốc tế. Nhóm của các bạn sẽ hoạt động cùng với hai nhân viên tình báo có liên hệ với Vatican. Họ sẽ tập trung vào việc tại sao tất cả các cái chết có vẻ như hướng tới việc che chắn chuyện ăn cắp di cốt của các nhà tiên tri. Liệu đấy có phải là một cử chỉ tượng trưng không? Hay biết đâu còn có điều gì liên quan đến vụ đánh cắp?”

“Thế còn mục tiêu cuối cùng của chúng ta?” Kat hỏi.

“Tìm ra kẻ nào gây tội ác và chúng sử dụng phương tiện gì. Nếu như cái đó có thể giết người với phương cách đặc biệt và tập trung như vậy, chúng ta cần biết đang phải đối phó với ai và ai kiểm soát cái đó?”.

Grayson vẫn ngồi yên lặng, nhìn chăm chú vào những hình ảnh ghê rợn như muốn phân tích mổ xẻ. “Chất độc nhị phân” cuối cùng anh lẩm bẩm.

Painter liếc nhìn anh ta. Cặp mắt họ bắt gặp nhau, như nhìn thấu vào nhau, cả hai cặp mắt đều có màu xanh thẫm.

“Cái đó là gì vậy?” Monk hỏi.

“Những cái chết” Gray nói, quay lại anh ta: “Không bị gây ra bởi một sự kiện đơn lẻ. Nguyên nhân là song trùng, đòi hỏi cả hai yếu tố bên trong và bên ngoài. Thiết bị - yếu tố ngoại lai đã gây ra tình trạng co thắt tập thể. Nhưng chỉ những người nào tham gia vào ăn bánh thánh mới bị tác động. Như vậy phải có một yếu tố bên trong chưa được biết.”

Grayson quay lại phía Painter: “Thế trong buổi hành lễ người ta có uống rượu vang không?”

“Chỉ một nhóm người dự lễ. Nhưng họ cũng ăn bánh thánh”. Painter chờ đợi những bánh đà kỳ lạ chuyển vận trong đầu anh chàng, sau khi thấy anh ta đã có một kết luận mà những chuyên gia phải mất rất nhiều thời gian mới thấy. Có một lý do vượt quá vấn đề cơ bắp và sự tinh tế để tại sao Grayson lại lọt vào mắt của Painter.

“Bánh thánh chắc chắn phải bị đầu độc” Grayson nói. “Không còn điều gì phải giải thích nữa. Có một thứ gì đấy đã đưa vào các nạn nhân một cách tự nhiên thông qua việc sử dụng bánh thánh. Một khi chúng đã bị nhiễm độc, chúng sẽ liên quan đến bất kỳ sức mạnh khởi phát nào bởi thiết bị đó”. Cặp mắt của Grayson lại bắt gặp cái nhìn của Painter: “Thế đã kiểm tra xem món bánh kem có bị nhiễm độc không?”.

“Những gì còn sót lại trong dạ dày của các nạn nhân không còn đủ để phân tích một cách thích hợp, nhưng vẫn còn những mẩu bánh kem sót lại sau buổi lễ. Chúng đã được gửi đến phòng thí nghiệm khắp EU để xét nghiệm”.

“Còn gì nữa?”

Giờ đây, trong cặp mắt của người đàn ông không còn thấy nét mệt mỏi nữa mà thay vào đó là sự tập trung sắc sảo. Anh ta vẫn hoàn toàn thích hợp với phi vụ. Tuy nhiên cuộc thử vẫn chưa kết thúc.

“Không tìm thấy gì cả” Painter tiếp tục “Tất cả các phân tích không cho thấy gì khác ngoài bột lúa mạch và chất làm bánh thông thường để chế biến món bánh bột kem”.

Cặp lông mày của Grayson dường như hằn sâu hơn “Chuyện đấy là phi lý”.

Painter nghe thấy nét bướng bỉnh trong giọng nói của anh ta, gần như ngoan cố. Anh chàng vẫn rất tự tin vào nhận định của mình.

“Phải có một cái gì đó” Grayson dồn ép.

“Các phòng thí nghiệm của DARPA cũng được đề nghị tham gia. Họ cũng đưa ra kết quả như vậy”.

“Họ sai”.

Monk đưa tay ra như cố kiềm chế.

Kat khoanh tay lại, vẻ thỏa mãn với chuyện này. “Vậy thì phải có một sự giải thích nữa cho…”

“Vớ vẩn” Grayson cắt lời cô “Các phòng thí nghiệm đều sai”.

Painter cố nín cười. Đây chính là một thủ lĩnh chờ để xuất hiện trong con người anh ta: đầu óc sắc sảo, tin một cách bướng bỉnh, sẵn sàng lắng nghe nhưng cũng không dễ thay đổi một khi đã quyết.

“Anh nói đúng”. Cuối cùng Painter mới nói.

Trong khi cặp mắt của Kat và Monk tròn xoe vì kinh ngạc, Grayson chỉ ngồi yên tựa lưng vào ghế.

“Phòng thí nghiệm của chúng ta đã tìm thấy một thứ”.

“Cái gì vậy?”

“Họ tách cacbon hóa mẫu xét nghiệm đến tận từng phần cấu thành rồi tách rời phần cấu thành hữu cơ. Sau đó họ loại mỗi phần tử dấu vết khi máy tổng phổ đo đếm. Nhưng sau khi tất cả mọi thứ bị loại bỏ vẫn còn một phần tư trọng lượng khô của cái đó còn lại. Một thứ bột khô trăng trắng”.

“Tôi chả hiểu gì cả” Monk nói.

Grayson giải thích: “Chỗ bột còn lại không bị thiết bị phân tích phát hiện”.

“Nó vẫn ở đó, nhưng các thiết bị lại nói với các nhân viên kỹ thuật rằng không có gì ở đó cả”.

“Điều ấy là không thể” Monk nói, “Chúng ta có ở đây những thiết bị tốt nhất trên thế giới”

“Nhưng chúng vẫn không phát hiện được”.

“Chất bột đó chắc phải hoàn toàn không có phản ứng gì” Grayson nói.

Painter gật đầu: “Vì vậy các chàng trai ở phòng thí nghiệm của chúng ta thử tiếp. Họ đun nóng chúng đến nhiệt độ nung chảy. 1,160 độ. Nó chảy và tạo thành một chất lỏng trong suốt khi nhiệt độ hạ xuống, rắn lại thành một loại hổ phách trong suốt. Nhưng nếu đem thứ thủy tinh ấy giã trong cối, nó lại hình thành bột màu trắng. Song mỗi một giai đoạn nó vẫn không phản ứng, không thể bị phát hiện bởi thiết bị hiện đại”.

“Vậy sẽ phải làm thế nào?” Kat hỏi.

“Có một điều tất cả chúng ta đều biết, nhưng trong trạng thái chỉ mới được phát hiện cách đây vài chục năm”. Painter nhấn tiếp những hình ảnh. Đó là hình đầu dẫn điện cacbon trong một phòng hơi ngạt không phản ứng. “Một trong những kỹ thuật viên làm việc ở trường Đại học Cornell nơi thí nghiệm này được tiến hành. Họ tiến hành cho bốc hơi từng phần của chất bột đi kèm với quang phổ phóng ra. Dùng kỹ thuật mạ, họ có thể lấy được chất bột rắn trở lại trạng thái thông thường”.

Ông gõ gõ tấm ảnh cuối cùng. Đó là một bức ảnh cận cảnh của một điện cực màu đen, chỉ có điều là nó không còn màu đen nữa. “Họ có khả năng tách được chất dính vào sợi cacbon”.

Điện cực màu đen đã được tách ra tỏa sáng lấp lánh dưới ánh đèn không thể nhầm lẫn được.

Grayson nhoài người về phía trước: “Vàng”.

6 giờ 24 phút (giờ địa phương)

Rome, Italy.

Còi báo động của chiếc xe rền rĩ trong tai Rachel. Cô ngồi ở hàng ghế dưới chiếc xe tuần tra của cảnh sát, xây xước, đau ê ẩm, đầu nhức như búa bổ. Nhưng tất cả những gì cô có thể cảm nhận được là một sự chắc chắn đến lạnh lùng là bác Vigor đã chết. Nỗi sợ hãi làm cô như nghẹt thở, mắt cô hoa lên.

Rachel nghe loáng thoáng viên cảnh sát nói trong máy bộ đàm. Xe của anh ta là chiếc xe đầu tiên nhìn thấy cảnh cô bị phục kích trên đường phố. Cô không chịu cho chăm sóc y tế rồi dùng quyền của một trung úy ra lệnh anh ta đưa cô về Vatican.

Chiếc xe tới cây cầu bắc ngang qua sông Tiber. Rachel tiếp tục nhìn chăm chú điểm đến của mình. Qua con kênh, tháp chuông được chiếu sáng của nhà thờ St.Peter xuất hiện trên cao vượt tất cả mọi thứ khác. Mặt trời lặn tỏa ánh sáng lấp lánh màu vàng ánh bạc. Nhưng những gì cô nhìn thấy nhô lên phía sau nhà thờ làm cô đứng dựng khỏi cái ghế, tay cô nắm chặt thành ghế.

Một cột khói đen đang bốc cao trên bầu trời tối sẫm.

“Bác Vigor…”

Rachel nghe thấy những tiếng còi báo động nữa vọng từ phía mặt sông. Những chiếc xe cứu hỏa và các loại xe cấp cứu.

Cô nắm lấy tay viên cảnh sát tuần tra. Cô rất muốn đẩy anh ta ra để giật lấy vôlăng. Nhưng người cô vẫn còn đang run rẩy: “Liệu anh đi nhanh hơn nữa được không?”.

Cảnh sát Norre gật đầu. Anh ta còn trẻ, mới gia nhập cảnh sát. Anh mặc bộ cảnh phục màu đen với ống quần nẹp đỏ, chiếc phù hiệu bạc trên ngực. Anh ta quẹo tay lái rồi leo lên hè để tránh dòng xe cộ. Càng đến gần Vatican, tình trạng tắc xe lại càng tồi tệ hơn. Sự xuất hiện của các xe cấp cứu đã làm giao thông ở khu vực này bị tắc nghẽn lại.

“Hãy đến cửa Saint Ana” Rachel ra lệnh.

Anh ta quay xe lại rồi cố lao vào một ngõ hẻm để có thể đến gần tới cửa Saint Ana. Ngay trước mặt, nơi ngọn lửa phát ra đã có thể thấy rõ. Bên trong tường thành Vatican, Tháp Gió Ngàn là đểm cao thứ hai ở đây. Tầng trên cùng của tháp bùng lên ngọn lửa như một ngọn đuốc bằng đá.

“Ồ, không…”

Tháp này chứa một phần của Viện cơ mật. Cô biết bác Vigor đang tìm kiếm trong các thư viện của Vatican. Sau vụ tấn công cô, vụ cháy này không thể là một tai nạn thông thường.

Chiếc xe dừng lại đột ngột hất tung Rachel lên hàng ghế trước. Mắt cô không thể nhìn tiếp vào ngọn tháp đang bốc lửa được nữa.

Giao thông phía trước tắc nghẽn.

Rachel không thể chờ được nữa. Cô giật mạnh cánh cửa xe rồi lao ra ngoài.

Một cánh tay đã giữ chặt vai cô lại: “Chờ chút Verona.”

Cảnh sát Norre nói: “Này, có thể cô cần thứ này”.

Rachel cúi đầu nhìn khẩu Beretta 92 màu đen, súng dành cho đàn ông. Cô cầm lấy, gật đầu cảm ơn. “Nhờ cảnh báo hộ Trung tâm. Báo cho tướng Rende biết tôi đã quay về Vatican. Ông ấy có thể liên lạc với tôi qua văn phòng thư ký”.

Viên cảnh sát gật đầu: “Hãy cẩn thận, trung úy”.

Còi báo động rền rĩ khắp nơi. Rachel bước đi. Cô nhét khẩu súng lục vào thắt lưng, buông chiếc áo choàng ra ngoài khẩu súng. Không mặc quân phục. Thật chẳng hay ho gì nhìn thấy cảnh chạy tới khu vực đang có báo động lại mang theo vũ khí.

Những đám đông chật cứng trên vỉa hè. Rachel cố gắng lách qua những chiếc ô tô bị tắc nghẽn giữa đường, thậm chí còn trèo cả lên nóc một chiếc xe để đi lên trước. Phía trước cô nhìn thấy một chiếc xe chữa cháy màu đỏ của thành phố đang chạy qua cửa St. Ana. Lối đi thật chật. Một tốp đông cận vệ Thụy Sĩ đã làm thành rào chắn ở cả hai bên, trong tư thế sẵn sàng. Không còn chút lễ nghi nào ở đây. Mỗi người đều cầm khẩu súng trường lăm lăm trong tay.

Rachel xô về phía hàng rào lính gác.

“Trung úy Verona thuộc lực lượng cảnh sát”. Cô hét lên, tay giơ cao vẫy chiếc thẻ căn cước. “Tôi cần phải gặp Hồng y Spera”.

Thật khó có thể thuyết phục được. Rõ ràng họ đã được lệnh ngăn tất cả mọi lối vào Vatican, cấm cửa tất cả trừ một số rất ít người thực thi nhiệm vụ khẩn cấp. Một trung uý cảnh sát không hề có quyền lực gì đối với lính cận vệ Thụy Sĩ.

Nhưng từ phía sau hàng rào, một người lính mặc áo màu xanh sẫm nhao ra trước. Rachel nhận ra anh ta chính là người lính gác đã nói chuyện với mình lúc trước. Anh ta chen qua hàng rào để gặp cô.

“Trung úy Verona”, anh ta nói: “Tôi được lệnh tháp tùng cô vào bên trong. Hãy đi với tôi”.

Anh ta quay gót lại rồi dẫn cô đi.

Cô rảo bước để theo kịp, rồi họ đi ngang qua cửa: “Bác tôi… ngài Verona…”

“Tôi không biết gì trừ việc tháp tùng cô vào bên trong”. Anh ta chỉ cô trèo vào một chiếc xe chạy điện chuyên chở những người làm vườn đỗ ở phía sau cổng. “Lệnh từ Hồng y Spera”.

Rachel leo vào trong. Chiếc xe cứu hỏa đang chạy phía trước họ. Cuối cùng lối vào cũng rộng ra khi chiếc xe tiến vào sân trong đối diện Bảo tàng Vatican. Nó tiến vào chỗ các xe cấp cứu khác trong đó có hai chiếc xe quân sự có gắn súng tiểu liên.

Người lính gác quay xe sang bên phải, đi vòng qua những chiếc xe cấp cứu đông nghẹt đậu phía trước các viện bảo tàng. Phía trên nóc ngọn tháp lửa vẫn tiếp tục cháy bùng. Từ một nơi nào đó ở tít phía sau, một vòi nước cực mạnh phun lên cao, cố chạm tới đỉnh cao nhất của tầng cao nhất của tháp. Những ngọn lửa vẫn đang phụt ra từ cửa sổ ba tầng tháp trên cùng. Những đám khói đen cuồn cuộn bốc lên cao. Ngọn tháp như một bao diêm, chất đầy sách vở, tài liệu và giấy tờ.

Đó là một thảm họa ở phạm vi lớn. Những gì lửa không phá hủy được, nước và khói cũng sẽ phá đi. Hàng thế kỷ tư liệu, vẽ lên lịch sử phương Tây biến mất.

Tuy nhiên, nỗi lo của Rachel vẫn tập trung vào một điều.

Bác Vigor.

Chiếc xe chạy ngoằn nghèo qua gara của thành phố rồi đi xuống đoạn đường rải đá. Nó chạy song song với tường Leonine, một khối bằng đá và ximăng bao bọc thành phố Vatican. Bức tường bao bọc khu vực bảo tàng và chạy đến những vườn rộng chiếm một phần nửa sau của thành phố quốc gia này. Những vòi phun nước nhảy múa phía xa. Thế giới được vẽ dưới bóng của màu xanh lá cây. Cảnh tượng trông thật thanh bình nếu như không có khói, lửa và còi báo động đang rú lên ở phía sau.

Họ tiếp tục đi trong im lặng tới ngay phía sau của khu vườn.

Điểm đến của họ đã ở phía trước. Nằm nép trong một khu tường bao bọc kín là sân bay trực thăng Vatican. Được sửa sang lại từ những sân quần vợt cũ, sân bay rộng hơn một acre với toàn là ximăng và những nhà ngoài trời.

Trên đường băng, một chiếc máy bay lên thẳng đơn độc đang đỗ, cách biệt khỏi khu vực. Cánh quay bắt đầu quay tăng dần tốc độ. Động cơ rú lên. Rachel biết chiếc máy bay màu trắng này. Đó là trực thăng của Giáo hoàng có tên là “Trực thăng thánh thần”.

Cô cũng nhận ra chiếc áo chùng màu đen có đai đỏ của Hồng y Spera. Ông ngồi bên cánh cửa ở khoang khách, đầu hơi cúi xuống như những cánh quạt đang quay. Cô vội chạy đến bên Hồng y.

Nếu có ai đó biết được số phận của bác cô thì người đó phải là Hồng y.

Hoặc một người khác nữa.

Từ phía sau chiếc trực thăng, một người bước ra, chạy vội về phía cô. Cô vội vàng lao đến, ôm chặt ông dưới cánh quạt đang xoay mạnh của chiếc trực thăng.

“Bác Vigor…” Những giọt nước mắt lăn trên gò má, nóng bỏng, làm tan đi băng giá trong tim cô.

Ông lùi lại. “Con gái, cháu đến trễ rồi”.

“Cháu bị tấn công” Cô trả lời.

“Bác đã nghe rồi. Tướng Rende đã nói về việc cháu bị tấn công”.

Rachel nhìn lại ngọn tháp đang cháy. Cô ngửi thấy mùi khói ở tóc ông. Đôi lông mày của ông cháy xém. “Hình như không phải chỉ có một mình cháu bị tấn công. Ơn chúa, bác không sao cả”.

Mắt ông bác tối sầm đi, giọng đanh lại: “Thật bất hạnh không phải ai cũng được Chúa che chở”.

Cô bắt gặp đôi mắt của ông.

“Jacob bị chết trong vụ nổ. Thân thể cậu ấy đã che cho bác, cứu sống bác”. Cô nghe thấy nỗi đau xót trong giọng nói của bác cô dù cho có tiếng gầm gào của máy bay lên thẳng. “Thôi nào, chúng ta phải đi thôi”.

Ông dẫn cô ra chỗ máy bay.

Hồng y Spera gật đầu với ông bác cô. “Bọn chúng phải bị chặn lại” Ông nói một cách dứt khoát.

Rachel theo bác trèo lên máy bay. Họ buộc dây an toàn khi cánh cửa máy bay đóng lại. Bộ phận giảm âm đã làm bớt đi rất nhiều tiếng động cơ nhưng cô vẫn nghe tiếng máy bay rít mạnh. Ngay lập tức máy bay cất cánh, dâng lên cao hòa vào không trung.

Bác Vigor ngồi tựa đầu vào lưng ghế, đầu gục xuống, mắt ông nhắm lại, đôi môi ông mấp máy đọc một lời cầu nguyện, cho Jacob, cho chính họ.

Rachel chờ cho đến khi ông mở mắt ra. Lúc này, họ đã bay qua Vatican và đang ở phía trên dòng Tiber. “Những kẻ tấn công…” Rachel bắt đầu “chúng lái xe với biển xe từ Vatican”.

Bác cô gật đầu, không có vẻ gì ngạc nhiên.

“Hình như Vatican không chỉ có gián điệp ở bên ngoài và cũng có cả những kẻ ngay ở phía bên trong”.

“Ai vậy?” Khẽ kêu lên một tiếng, Bác Vigor ngắt lời cô. Ông ngồi phắt dậy, thò tay vào túi rồi lấy ra một mẩu giấy gập đôi. Ông đưa cho Rachel. “Người sống sót trong vụ thảm sát Cologne đã mô tả vật này cho một người vẽ ký họa. Cậu ấy đã nhìn thấy thứ đó được thêu trên ngực áp một trong những kẻ gây tội ác”.

Rachel vội mở tờ giấy. Được vẽ trên tờ giấy một các chi tiết đến ngạc nhiên là hình một con rồng màu đỏ cuộn tròn, những cái vây giương ra, có cái quấn tròn quanh cổ.

Cô hạ thấp bức hình liếc nhìn ông bác.

“Một hình tượng cổ xưa” bác cô nói “Từ thế kỷ thứ 14”.

“Đó là hình tượng gì vậy?”

“Long Đình”.

Rachel lắc đầu không hiểu ý nghĩa của cái tên này.

“Đây chính là tên một giáo phái thời trung cổ được tạo ra do có sự ly giáo của nhà thờ, cũng từ sự ly giáo này đã có sự xuất hiện của các Giáo hoàng và những người chống Giáo hoàng”.

Rachel rất quen thuộc với sự tồn tại của những kẻ chống Giáo hoàng trong Vatican, những người đã từng đứng đầu nhà thờ Thiên Chúa giáo nhưng sau này việc bầu họ bị coi là không đúng chuẩn mực. Họ xuất hiện do nhiều lý do, song thông thường nhất là do một phái quân phiệt được một vị vua hoặc Hoàng đế hỗ trợ đã tiếm quyền, rồi đầy đi biệt xứ vị Giáo Hoàng đã được bầu một cách chính tắc. Từ thế kỷ thứ 3 đến thứ 15, đã có đến bốn mươi kẻ chống Giáo Hoàng ngóc dậy ngồi lên ngai giáo hoàng. Tuy vậy, thời kỳ hỗn loạn nhất là vào thế kỷ thứ 9, khi vị Giáo hoàng chính thức bị đẩy ra khỏi Rome đến nước Pháp. Suốt bảy mươi năm, giáo hoàng trị vì tại hải ngoại trong khi những kẻ chống giáo hoàng tồi tệ lại cai trị ở Rome.

“Thế thì những giáo phái cổ xưa đó có liên quan gì tới tình hình hiện nay?” Cô hỏi.

“Tổ chức Long Đình hiện vẫn tích cực hoạt động. Thậm chí EU còn công nhận chủ quyền của nó, giống như tổ chức các hiệp sĩ Malta được giữ vị trí quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc. Cái tổ chức bóng ma này cũng liên hệ với hội đồng Công chúa châu Âu, tổ chức các hiệp sĩ… Nó cũng công khai kết nạp thành viên trong cả nhà thờ Thiên Chúa giáo. Ngay cả tại đây: Vatican”.

“Tại đây?” Rachel không giấu nổi vẻ kinh ngạc trong giọng nói của mình. Cô và ông bác trở thành mục tiêu, bởi một ai đó ngay tại Vatican.

“Một vài năm trước đây” bác Vigor tiếp tục “đã xảy ra một vụ xì căng đan nghiêm trọng. Một linh mục Thiên Chúa giáo, cha Malachi Martin đã viết về một nhà thờ bí mật trong nhà thờ. Ông ta là một học giả, nói được mười bảy thứ tiếng, là tác giả của nhiều cuốn sách học thuật và là cộng sự gần gũi của Giáo hoàng thứ 23. Ông ta làm việc ở Vatican được hai mươi năm. Cuốn sách cuối cùng của ông viết ngay trước khi chết đã đề cập đến một giáo phái theo đuổi thuật giả kim ngay tại Vatican, thực hành các nghi lễ một cách bí mật”.

Rachel bỗng cảm thấy trong người ngột ngạt dù chẳng liên quan gì đến chiếc trực thăng đang bay về phía sân bay quốc tế gần Fiumicino.

“Một nhà thờ bí mật trong nhà thờ. Những phần tử đó có thể đã tham gia vào vụ thảm sát ở Cologne. Tại sao? Vậy mục đích của họ là gì?”

“Để ăn cắp di cốt của các nhà Tiên tri? Mình chưa có bằng chứng”.

Đầu óc cô cứ lan man với những suy nghĩ tương tự. Để bắt kẻ tội phạm, việc đầu tiên là phải hiểu biết về chúng. Nắm được động cơ thông thường mang lại nhiều thông tin hơn bằng chứng cụ thể.

“Thế bác biết thêm gì nữa về Long Đình?” Cô hỏi.

“Mặc dù lịch sử của nó dài như vậy, nhưng không có gì nhiều. Trở lại thế kỷ thứ XVIII, Hoàng đế Sáclơmanh chinh phục châu Âu cổ đại dưới danh nghĩa nhà thờ thần thánh, đã đập tan các dị giáo rồi thay thế các đức tin của họ bằng Cơ đốc giáo”.

Rachel gật đầu, cô rất thông hiểu về những thủ đoạn tàn bạo của Sáclơmanh.

“Nhưng cơn thủy triều đã đảo ngược”, bác Vigor nói tiếp “những gì một thời đã lỗi mốt lại trở thành thời trang. Vào thế kỷ thứ XVIII chứng kiến sự quay trở lại của thuyết ngộ đạo được áp dụng bởi ngay những vị vua đã một thời đàn áp nó. Ly giáo dần hình thành khi Nhà thờ di chuyển Cơ đốc giáo như ngày nay mọi người đều biết trong khi các vị Hoàng đế tiếp tục theo đuổi các tập tục ngộ đạo của họ. Ly giáo tiếp tục ngóc đầu dậy vào cuối thế kỷ thứ XIV. Vị Giáo hoàng bị lưu đầy ở Pháp vừa trở về. Để dàn hòa, hoàng đế La Mã thần thánh Sigismund của Luxemboug đã hỗ trợ Vatican về mặt chính trị, thậm chí công khai xóa bỏ tập tục hành lễ ngộ đạo ngay trong tầng lớp bình dân.

“Chỉ có ở tầng lớp bình dân thôi à?”

“Giai cấp quý tộc được loại trừ. Trong khi Hoàng đế đàn áp những đức tin tà giáo trong dân thường, ông ta lại tạo ra một hội bí mật trong các hoàng gia châu Âu. Long Đình hoàng gia. Nó tồn tại cho đến tận ngày nay. Nhưng có nhiều giáo phái ở các nước, một số thì hiền lành chỉ theo đuổi lễ nghi hoặc thân hữu, trong khi những số khác do những kẻ quá khích cầm đầu lại mọc lên như nấm. Bác cũng phân vân không biết Long Đình có dính vào không, đó là một trong những nhánh giáo phái rất cực đoan”.

Rachel bỗng tự hỏi. “Cần phải biết kẻ thù của mình”. Vậy mục tiêu của những giáo phái xấu xa này là gì?

“Là một tín ngưỡng tôn thờ tầng lớp quý tộc, những tên cầm đầu cực đoan này tin là chúng và những kẻ đi theo là người xứng đáng và được chọn lọc để trị vì loài người. Rằng chúng được sinh ra để cai trị với sự tinh khiết trong dòng máu của chúng”.

“Hội chứng chủng tộc thượng đẳng của Hitler”.

Một cái gật đầu. “Nhưng chúng tìm kiếm xa hơn thế nữa. Không chỉ là làm vua, chúng tìm kiếm mọi hình thức cổ xưa để đẩy xa hơn mục tiêu của chúng là thống trị vào ngày tận thế”.

“Bước tới nơi mà ngay cả Hitler cũng không dám đi”. Rachel làu bàu.

“Đa phần bọn chúng theo đuổi một mục tiêu giành ưu thế khổ hạnh trong khi lạm dụng chính trị sau màn bí mật và hành lễ. Hợp tác với những nhóm thượng thặng kiểu như Sọ và Xương người ở Mỹ, Chiến lược gia Bilderburg ở châu Âu. Nhưng giờ thì một kẻ nào đó đã thò mặt, trắng trợn và đẫm máu”.

“Điều đó có nghĩa thế nào?”

Bác cô lắc đầu. “Bác sợ rằng giáo phái này đã phát hiện ra một điều gì đó khá quan trọng, một điều gì có thể đưa chúng ra khỏi chỗ núp, bước ra ngoài ánh sáng”.

“Thế còn chuyện giết chóc?”

“Một lời cảnh báco với Nhà thờ. Giống như vụ tấn công vào hai bác cháu mình. Chuyện tiến hành hai vụ mưu sát đồng thời ngay hôm nay không phải là tình cờ. Bọn chúng đã được Long Đình ra lệnh, hòng làm chúng ta chậm lại, dọa chúng ta sợ. Đó đâu phải là chuyện ngẫu nhiên. Tổ chức này đang xù lông ra dọa Nhà thờ phải lui lại, vứt bỏ cái mặt nạ chúng đã đeo hàng thế kỷ nay”.

“Vậy thì đích của chúng là gì?”

Bác Vigor ngả người ra sau, thở dài “Để đạt được mục tiêu của những kẻ điên khùng”.

Rachel vẫn chăm chú nhìn ông.

“Armageddon” ông trả lời “Trận quyết đấu cuối cùng giữa thiện và ác”.

***

4 giờ 4 phút

Bay trên Đại Tây Dương

Gray lắc chiếc cốc làm những thỏi đá kêu leng keng.

Kat Bryant liếc nhìn từ hàng ghế của cô trong khoang chiếc máy bay tư nhân. Cô không nói gì, nhưng cặp lông mày nhíu lại của cô đã nói lên rất nhiều. Cô đang tập trung vào hồ sơ của phi vụ… lần thứ hai. Gray đã đọc nó từ đầu đến cuối, anh không cần nghiền ngẫm lại. Thay vì đó, anh đang ngắm nhìn mặt biển xanh đen sẫm của Đại Tây Dương, cố hình dung ra tại sao mình lại được chọn là người chỉ huy. Ở vào độ cao bốn mươi lăm nghìn feet, anh vẫn chưa có câu trả lời.

Đẩy chiếc ghế lui lại, anh bước tới cái tủ rượu bằng gỗ hồng đào nằm ở phía cuối khoang. Anh lắc đầu một lần nữa trước sự xa hoa ở nơi đây: thủy tinh pha lê, sàn cách âm, bàn ghế bằng da. Trông giống như một quán bar của người Anh.

Nhưng ít nhất anh cũng quen người bồi rượu.

“Làm một Coca nữa nhé?” Monk hỏi.

Gray đặt chiếc cốc lên bàn “Mình nghĩ uống như vậy đã đủ”.

“Loại hạng ruồi” Bạn anh làu bàu.

Gray quay lại vào cabin. Bố anh đã có lần nói với anh rằng đóng một vai đã là một nửa để trở thành vai đó. Tất nhiên, ông đang nói về việc Gray đóng thế như một thợ khoan ở mỏ dầu, một đứa trẻ được cha mình là kỹ sư giám sát. Lúc đó anh mới chỉ mười sáu tuổi, đã trải qua cả một mùa hè nóng bức ở đông Texas. Đó quả là một công việc nặng nhọc trong khi lũ bạn cùng trường với anh đang tận hưởng những ngày hè trên bãi biển ở hòn đảo Nam Parde. Lời dạy của bố anh vẫn văng vẳng bên tai “Để trở thành một người đàn ông, đầu tiên phải hành động như đàn ông”.

Có lẽ cũng có thể nói như vậy khi trở thành người chỉ huy.

“Ok, nghiền ngẫm sách vở như vậy là đủ rồi”. Anh nói, nhìn vào mắt Kat. Anh liếc nhìn Monk “Cậu đã nghiên cứu cái quầy bar biết bay này đủ chưa?”.

Monk nhún vai rồi quay trở về khoang chính.

“Chúng ta còn chưa đến bốn giờ bay” Gray nói. Với chiếc máy bay phản lực loại Citation X này bay với tốc độ siêu âm, họ sẽ hạ cánh vào lúc 2 giờ đêm, giờ Đức. “Tôi nghĩ chúng ta nên ngả lưng một chút. Khi đặt chân xuống đất, chắc là sẽ phải chạy đôn chạy đáo”.

Monk ngáp dài “Ngài chỉ huy, khỏi cần phải nhắc tôi tới lần thứ hai đâu”.

“Nhưng đầu tiên chúng ta cần trao đổi một chút. Người ta đã cung cấp cho chúng ta rất nhiều thứ”.

Gray chỉ vào hàng ghế. Monk ngồi xuống một trong những chiếc ghế đó. Gray cũng ngồi xuống, đối mặt với Kat qua chiếc bàn.

Trong khi Gray đã biết Monk từ lúc gia nhập Sigma, đại úy Kathryn Bryan vẫn thuộc vào loại được ít người biết. Cô quá chăm chú vào việc học hành nên không mấy người ở Sigma biết về cô. Kat đã nổi tiếng ngay từ khi được tuyển mộ. Một nhân viên đã mô tả cô như một chiếc máy tính biết đi. Nhưng tiếng tăm của cô cũng bị ảnh hưởng đôi chút do trước kia đã từng là một nhân viên tình báo. Dư luận đồn rằng cô giám sát các phi vụ bí mật. Nhưng chả ai biết chắc cả. Quá khứ của cô không được công khai ngay cả đối với các đồng đội tại Sigma. Điều bí mật đó chỉ càng làm cô khác biệt những đàn ông, đàn bà được đề bạt, cất nhắc lên chức ở các đơn vị, nhóm và trung đội.

Gray cũng có những vấn đề với quá khứ của cô. Anh có lý do cá nhân để không ưa những người trong ngành tình báo. Họ hoạt động tách biệt, xa cách trận địa, xa hơn cả những phi công ném bom nhưng lại nguy hiểm chết người hơn. Gray đã mất máu từ cánh tay mình vì những thông tin tình báo sai lệch. Những giọt máu vô tội. Anh không thể từ bỏ mức độ nào đó của sự không tin tưởng.

Anh nhìn Kat chăm chú. Đôi mắt của cô màu xanh thẫm. Cả thân hình khô cứng. Anh gạt quá khứ của cô sang một bên. Giờ đây cô đã là đồng đội của anh.

Gray hít mạnh một hơi. Anh là chỉ huy của cô.

Hãy hành động theo…

Anh đằng hắng. Đã đến lúc phải bắt tay vào công việc. Anh giơ một ngón tay lên: “Ok, chúng ta sẽ làm gì bây giờ?”

Monk trả lời, khuôn mặt rất nghiêm túc: “Không nhiều”.

Kat vẫn giọng đều đều: “Chúng ta biết rằng những kẻ gây tội ác về mức độ nào đấy tham gia vào tổ chức giáo phái, hội có tên là Long Đình”.

“Như vậy cũng giống như nói chúng có quan hệ với Hari Krishnas”.. Monk phản bác: “Nhóm này cũng vẫn còn mờ nhạt và lẩn như trạch. Chúng ta không có chứng cứ rằng ai thực sự đứng đằng sau tất cả điều này”.

Gray gật đầu. Họ đã nhận được bản fax cung cấp thông tin trên máy bay. Nhưng, lại phiền toái hơn khi tin tức đến với họ rằng những cộng tác ở Vatican đã bị tấn công. Vậy đó có phải là bàn tay của Long Đình một lần nữa không? Nhưng tại sao? Và họ đang bay vào loại khu vực chiến sự bí mật nào?Anh muốn có câu trả lời.

“Chúng ta hãy phân tích xem nào”, Gray nói, nhận ra giọng mình nghe giống giám đốc Crowe. Hai người kia nhìn anh chăm chú. Gray hắng giọng: “Trở lại những điều cơ bản nhất. Phương tiện, động cơ và cơ hội”.

“Họ có rất nhiều cơ hội”, Monk nói “Tiến công vào ban đêm, khi đường phố gần như vắng tanh. Nhưng tại sao không chờ cho đến khi nhà thờ cũng vắng nốt?”

“Để truyền đi một thông điệp”, Kat trả lời “Một đòn đánh vào nhà thờ Cơ đốc giáo”.

“Chúng ta không thể giả thuyết như vậy”, Monk nói “Hãy nhìn vào đó một cách rộng hơn. Có thể đây lại là trò gắp lửa bỏ tay người, nhằm đánh lạc hướng. Gây ra một tội ác thật đẫm máu để mọi sự chú ý bị đánh lạc khỏi việc ăn cắp một đám xương mục nát chẳng có ý nghĩa gì”.

Kat có vẻ như không mấy bị thuyết phục, nhưng cô là người khó đoán được, luôn giấu con bài trong ngực. Giống như cô đã được đào tạo.

Gray giải quyết vụ này: “Cách này hoặc cách khác, vì thăm dò cơ hội không mang lại chỉ dẫn xem ai là kẻ gây ra vụ thảm sát. Bây giờ chúng ta tính đến động cơ”.

“Tại sao lại ăn cắp di cốt?” Monk nói, lắc lắc cái đầu rồi ngồi xuống. “Biết đâu chúng lại muốn đòi tiền chuộc với nhà thờ Cơ đốc giáo”.

Kat lắc đầu: “Nếu như vì chuyện tiền nong, chúng đã ăn cắp cái hòm đựng bằng vàng. Như vậy phải có một cái gì nữa về chỗ di cốt. Một cái gì chúng ta chưa có manh mối gì. Hay tốt nhất là chúng ta để sợi chỉ đó dành cho các cộng sự ở Vatican”.

Gray nhăn mặt. Anh vẫn thấy không thoải mái khi làm việc với một tổ chức như Vatican, một tổ chức được xây dựng trên những bí mật và sự cố chấp về tôn giáo. Tuy lớn lên từ một gia đình Cơ đốc giáo La Mã và trong anh vẫn có những sự xao động mạnh mẽ về đức tin. Anh vẫn đồng thời nghiên cứu các đạo giáo và triết lý khác như đạo Phật, đạo Lão, đạo Juda… Tuy đã học được rất nhiều nhưng anh vẫn chưa bao giờ trả lời được một câu hỏi nảy ra trong quá trình nghiên cứu: Mình đang tìm kiếm cái gì?

Gray lắc đầu: “Bây giờ chúng ta sẽ đánh dấu động cơ cho tội ác này với một dấu hỏi lớn nữa. Chúng ta sẽ phân tích sâu hơn khi gặp những người kia. Điều đó giúp dẫn đến phương cách để thảo luận”.

“Điều trở lại với việc thảo luận toàn bộ về tài chính” Monk nói “Cuộc hành quân này được hoạch định tuyệt vời và thực hiện nhanh chóng. Chỉ riêng về người thôi đã là một cuộc hành quân tốn kém. Tiền bạc hỗ trợ cho vụ cướp đó”.

“Tiền và mức độ công nghệ là những điều chúng ta không hiểu” Kat nói.

Monk gật đầu: “Thế còn chuyện số vàng kỳ quặc trong bánh thánh thì sao?”

“Vàng hóa trị một” Kat lẩm bẩm, bĩu môi.

Gray hình dung ra cái điện cực mạ vàng. Họ đã được cung cấp khá nhiều thông số trong hồ sơ về thứ vàng kỳ quái này, tinh lọc từ các phòng thí nghiệm khắp nơi trên thế giới: từ cơ quan hàng không Anh đến phòng thí nghiệm của hãng Boeing ở Seattle, rồi viện Niels ở Copenhagen.

Chất bột đó không chỉ là bột bụi vàng thông thường, ở dạng vụn của vàng kim loại. Đó là tình trạng nguyên sơ mới của vàng, được phân loại như trạng thái –m. Thay vì ma trận kim loại thông thường, chất bột trắng là vàng bị vỡ ra thành những phân tử riêng biệt. Hóa trị một hoặc trạng thái –m. Mãi đến gần đây, các nhà khoa học vẫn không hiểu tại sao vàng có thể biến đổi cả về tự nhiên cũng như nhân tạo thành dạng bột màu trắng trơn.

Vậy điều này có nghĩa gì?

“Ok”, Gray nói “Tất cả chúng ta đã đọc hồ sơ. Chúng ta hãy thảo luận bàn tròn chủ đề này, thử xem dẫn đến đâu”.

Monk nói đầu tiên: “Đầu tiên, không phải chỉ có vàng được làm như vậy. Chúng ta cần nhớ chuyện này, hình như bất kỳ một kim loại truyền dẫn nào trên bảng định kỳ: platinum, rhodium, iridium và các loại khác – có thể cũng hòa tan thành bột”.

“Không phải hòa tan” Kat nói. Cô liếc xuống tập hồ sơ với những bài được photocopy từ các tạp chí như Tạp chí về kim loại Platinum, Khoa học Mỹ… Như thể cô ta muốn mở tập hồ sơ ra.

“Từ đó có nghĩa là tách ra” Cô nói tiếp “Trạng thái –m kim loại vỡ tan thành những phân tử riêng biệt và siêu chùm. Từ góc độ nhà vật lý, tình trạng này xảy ra khi thời gian quay tới và quay lui của nguyên tử xung quanh hạt nhân, làm cho mỗi phân tử mất sức hút với xung quanh”.

“Cô muốn nói là chúng không kết dính với nhau” Đôi mắt của Monk chớp chớp vẻ giễu cợt.

“Đó là nói một cách thô thiển” Kat nói với tiếng thở dài “Chính sự thiếu kết nối đã làm cho kim loại mất hình dạng ở thể rắn của nó và tan thành bột. Một chất bột không thể bị phát hiện bởi những phòng thí nghiệm có trang thiết bị thông thường”.

“Ái chà…” Monk kêu lên.

Gray cau mày nhìn Monk. Anh nhún vai, biết rằng ông bạn đang diễn trò.

“Tôi nghĩ rằng” Kat tiếp tục, không quan tâm đến chuyện đó “Những kẻ gây ra việc này đã biết về sự thiếu dính kết hóa học và tin rằng chất bột vàng sẽ không bao giờ bị phát hiện. Đó là lỗi thứ hai của chúng”.

“Lỗi thứ hai của chúng?” Monk hỏi.

“Chúng đã để lại một nhân chứng sống sót. Anh chàng Jason Pendleton.” Kat mở tập hồ sơ của cô ra. Cuối cùng cô không cưỡng nổi ý định này nữa “Quay trở lại câu chuyện vàng. Thế mảnh giấy này nói gì về tình trạng siêu dẫn?”.

Gray gật đầu. Anh phải khen cô ta. Cô ta đã đặt trọng tâm vào khía cạnh rắc rối nhất của kim loại ở trạng thái –m. Ngay cả Monk cũng ngồi thẳng dậy.

Kat tiếp tục: “Khi chất bột tỏ ra trơ lỳ với thiết bị phân tích, trạng thái nguyên tử còn cách xa năng lượng thấp. Có vẻ như mỗi nguyên tử đều thu nhận toàn bộ năng lượng nó sử dụng để phản ứng với nguyên tử bên cạnh và đưa trở lại vào chính nó. Năng lượng làm biến dạng hạt nhân của nguyên tử, làm nó biến thành hình cong, được biết như…” Cô tìm kiếm một bài viết trên các ngón tay. Gray chú ý nó đã được gạch bằng bút đánh dấu màu vàng.

“Trạng thái quay tốc độ nhanh không đồng nhất” Cô nói “Các nhà vật lý biết rằng các nguyên tử có tốc độ quay nhanh như vậy có thể dịch chuyển năng lượng từ nguyên tử này sang nguyên tử khác mà không bị mất đi năng lượng”.

“Tình trạng siêu dẫn” Monk nói.

“Năng lượng chuyển thành chất siêu dẫn có thể tiếp tục chuyển qua vật liệu mà không mất đi năng lượng. Một chất siêu dẫn hoàn hảo có thể cho phép năng lượng này chạy vô tận đến khi chấm dứt giai đoạn của chính nó”.

Giữa họ lúc này là sự im lặng khi cân nhắc về những điều khác biệt.

Cuối cùng Monk nói “Tuyệt vời! Chúng ta đã đưa được bí mật đó xuống mức của hạt nhân nguyên tử. Giờ thì chúng ta sẽ quay trở lại. Vậy điều này liên quan gì đến vụ giết người ở nhà thờ? Tại sao phải tẩm độc vào các bánh xốp với loại bột vàng quái gở này? Loại bột này giết người ra sao?”

Đó là những câu hỏi thật sắc sảo. Kat đóng tập hồ sơ lại, nghĩ rằng không thể tìm ra những câu trả lời trong đó.

Gray đã bắt đầu hiểu ra rằng tại sao giám đốc lại cử cho anh hai cộng sự như vậy. Họ đã vượt quá vai trò của mình như một nhân viên tình báo hay chuyên gia tội phạm học. Kat có khả năng tập trung vào từng chi tiết để nhặt ra những điểm mà người khác có thể bỏ qua. Còn Monk cũng không kém phần sắc sảo, thường nhìn vào một bức tranh toàn cảnh, phát hiện ra được xu hướng dẫn tới một khung cảnh rộng lớn hơn.

Những cái đó đưa anh đến đâu?

“Hình như chúng ta vẫn còn nhiều thứ phải điều tra” Anh kết thúc.

Monk nhướn lông mày “Như đã nói từ đầu, chúng ta không có gì nhiều để đi tiếp”.

“Chính vậy, chúng ta được điều động để giải quyết những gì là không thể”. Gray nhìn đồng đội, cố ghìm cơn buồn ngủ, “Và để làm được điều đó, chúng ta phải tận dụng thời gian còn lại cho đến khi hạ cánh xuống đất Đức”.

Hai người kia gật đầu. Gray đứng lên bước tới một cái ghế gần đó. Monk với lấy chăn và gối. Kat buông mành cửa sổ làm cả khoang tối hẳn đi.

Gray nhìn họ. Nhóm của anh. Trách nhiệm của anh!

Muốn là một con người, trước hết anh phải hành động giống như vậy.

Gray cầm lấy chiếc gối của mình và ngồi xuống. Anh không dựa lưng vào ghế. Mặc dù rất mệt nhưng anh không nghĩ mình sẽ ngủ được nhiều. Monk tắt những ngọn đèn trần. Bóng đêm buông xuống.

“Chúc ngủ ngon, chỉ huy” Kat nói qua khoang cabin.

Khi hai người kia đi ngủ. Gray ngồi trong bóng tối phân vân không hiểu vì sao mình lại ở đây. Thời gian trôi qia. Tiếng động cơ thật êm, nhưng anh vẫn không thể nào chợp mắt được.

Trong khoảnh khắc riêng tư, Gray thò tay vào túi quần jean đang mặc. Anh lấy ra một tràng hạt, cầm lấy cái thánh giá ở một đầu rồi nắm thật chặt đến đau cả tay. Đó là món quà tốt nghiệp ông nội tặng anh. Hai tháng sau, ông cụ mất. Gray lúc đó đang đi dã ngoại không kịp về dự lễ tang. Anh ngồi dựa vào ghế, sau cuộc giao ban hôm nay, anh đã gọi điện cho gia đình, nói dối về chuyến đi công tác đột xuất này.

Lại tiếp tục đi…

Những ngón tay cứ lần lượt chạm vào dây tràng hạt cứng.

Anh chả đọc lời cầu nguyện nào.

***

10 giờ 24 phút

Lausanne, Thụy Sĩ.

Lâu đài Sauvage nằm trên một ngọn đèo thuộc dãy núi Alp trông giống như một người khổng lồ bằng đá. Bức tường đá dày tới mười feet. Cái tháp bốn góc độc nhất của lâu đài đứng nhô cao hơn hẳn so với bức tường. Lối đi duy nhất đến cổng lâu đài là chiếc cầu đá chạy ngang qua đèo. Tuy không phải là lâu đài lớn nhất ở địa phận Thụy Sĩ, nhưng chắc chắn nó là lâu đài cổ nhất. Móng của lâu đài còn cổ hơn nữa. Tường lâu đài được xây dựng trên nền cũ của một pháo đài cổ từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.

Nó cũng là một trong những lâu đài tư nhân cổ nhất, đã thuộc về gia đình Sauvage từ thế kỷ thứ XV khi quân đội Bernese giành lại quyền kiểm soát vùng Lausannne từ tay vị giám mục hư hỏng trong thời kỳ Phục hưng. Từ ban công của lâu đài có thể nhìn xuống hồ Geneva nằm tít ở phía dưới và bên mặt đá lởm chởm của thành phố Lausanne, từng một thời là ngôi làng đánh cá. Giờ đây Lausanne là một thành phố xinh đẹp với những công viên ven hồ, bảo tàng, nhà nghỉ, câu lạc bộ và quán cà phê.

Người chủ hiện nay của lâu đài, Bá tước Raoul de Sauvage, chả thèm để ý đến khung cảnh lấp lánh ánh đèn của thành phố vào đêm, bước xuống cầu thang dẫn tới hầm lâu đài. Y được người ta triệu tập. Đằng sau y, một con chó lông xù to lớn phải tới bảy mươi kg chạy theo. Loại chó Bernese vùng núi này có bộ lông đen sẫm nhảy từng bước xuống bậc thang đá.

Rauol cũng nuôi hàng đàn chó dữ với nhiều chủng loại, có con nặng tới hàng trăm kg. Y cũng gây giống nhiều loại chó đua ăn thịt.

Nhưng giờ đây, Rauol còn có những việc thậm chí còn đẫm máu hơn phải giải quyết.

Y đi ngang qua hầm đá của lâu đài. Những gian hầm cất giữ một bộ sưu tập khổng lồ các loại vang, một cái hầm rượu tuyệt vời, đặc biệt có một gian hầm được xây cất từ những ngày xa xưa. Bốn căn hầm đá được gia cố bằng những cửa thép không rỉ, khóa điện tử và hệ thống quan sát video. Gần những gian hầm, một căn phòng lớn vẫn còn chứa những dụng cụ tra tấn từ thời trung cổ, cùng một số phương tiện hiện đại. Gia đình y đã từng chứa chấp những tên trùm phát xít trốn thoát khỏi nước Áo sau Đại chiến thế giới thứ hai từ những gia đình có dây mơ rễ má đến tận vùng Hapsburg. Bọn chúng đã ẩn náu tại đây. Để trả công, ông nội của Rauol đã nhận phần của mình, thứ “đồ chơi” như cách gọi của gã, đã giúp giữ lại được cái lâu đài cho gia đình.

Lúc này, tuy mới vào tuổi ba mươi hai, Rauol đã có thể vượt qua ông nội của y. Rauol, một gã vô lại đối với cha y, đã được thừa hưởng quyền thừa kế cả hai dinh thự khi y mới mười sáu tuổi lúc ông chết. Y là con trai độc nhất của gia đình. Trong dòng họ Sauvage, việc nối dõi tông đường luôn được coi như thứ tự ưu tiên trong mọi cuộc hôn nhân. Ngay cả sinh ra y cũng được tính toán thu xếp.

Một con rối nữa của ông nội.

Bá tước Sauvage trèo xuống sâu nữa dưới vách núi, con chó vẫn lẽo đẽo đi theo sao. Ánh sáng đèn pin chiếu rọi bước chân y.

Những bậc thang bằng đá đã trở thành những tảng đá tự nhiên được đẽo gọt. Nơi đây vào thời Trung cổ, những tên lính lê dương La Mã đã từng đặt chân đến, thường dẫn đến các vụ tế thần bằng bò hay dê ở cái hang sâu phía dưới. Cái hang này đã được chuyển đổi thành đền thờ thần Mithra, thần mặt trời du nhập từ Iran, được những tên lính nhà Vua cầu nguyện. Ngày sinh của thần Mithra được cúng bái vào ngày 25 tháng 12. Lễ cúng thần có lễ đặt tên và dự một bữa tiệc thiêng gồm bánh mỳ và rượu vang. Mithra có mười hai tín đồ lấy ngày Chủ nhật là ngày thiêng liêng, mô tả thiên đường và địa ngục. Khi chết, thần Mithra cũng được chôn vào một ngôi mộ, chỉ ngồi dậy ba ngày sau.

Từ đó, một số học giải cao rao rằng đạo Thiên chúa giáo hòa quyện với huyền thoại Mithra thành một thứ đạo riêng. Nó không giống như kiểu cái lâu đài ở đây, cái mới đứng trên đôi vai của cái cũ, cái mạnh vượt qua cái yếu. Rauol chả thấy có gì sai trái với chuyện đó cả, thậm chí còn kính phục nữa.

Đó là trật tự tự nhiên.

Raoul xuống bậc thang cuối cùng rồi đi vào một hang đá ngầm rộng rãi. Nóc hang là một vòm đá tự nhiên, trổ lên đó một cách thô kệch các ngôi sao và mặt trời. Một bàn thờ Mithra cổ nơi đặt những con bò để tế thần đứng ở một góc xa. Phía trước là một dòng suối sâu lạnh lẽo, một con sông nhỏ. Rauol hình dung ra những xác súc vật vứt xuống tế thần bị dòng sông nhấn chìm rồi cuốn đi. Y cũng đã tế thần một vài con vật của mình bằng cách đó, những con vật mà lũ chó của y không ăn được.

Bước vào cửa, y cởi cái áo choàng bằng da. Bên trong, y mặc một cái áo sơmi cũ có thêu hình con rồng uốn mình, biểu tượng của Ordinis Draconis, Long Đình, dòng giống từ bao thế hệ nhà Sauvage.

“Drakko, ở lại đây” Y ra lệnh.

Con chó núi loại Bernese nằm xuống, tuân lệnh.

Cũng giống như chủ của nó…

Rauol cúi khom người lúc đứng ở trong hang rồi bước lên phía trước.

Vị Hoàng đế tối cao của Long Đình đợi y trước bàn thờ, mặc bộ quần áo đi mô tô bằng da đen. Mặc dù ông ta hơn y hơn hai thập kỷ nhưng trông cao lớn, đôi vai rộng không hề kém y. Ở ông ta không thấy biểu hiện gì của tuổi già, vẫn rắn chắc, khỏe mạnh. Ông ta vẫn đội chiếc mũ xe máy, chụp tấm kính che mặt.

Vị lãnh tụ đi vào bằng lối cửa sau bí mật của hang cùng với một người lạ mặt. Có quy định là cấm ngặt những người ngoài Long Đình được nhìn mặt Hoàng đế.

Người lạ bị bịt mắt theo đúng quy định.

Raoul cũng chú ý đến năm người cận vệ đứng gác sau động, tất cả đều cầm súng tiểu liên tự động, những lính gác trung thành của vị Hoàng đế.

Raoul sải bước lên phía trước, tay phải để lên ngực. Y quỳ một chân xuống trước mặt Hoàng đế. Raoul là người đứng đầu cánh quân sự của Long Đình, một vinh dự đã có từ thời của Vlad, Người Xuyên Qua, ông cố tổ của gia đình Sauvage. Tất cả đều cúi chào Hoàng đế. Một tước hiệu mà Raoul hy vọng một ngày nào đó y sẽ giành được.

“Đứng dậy” Vị Hoàng đế ra lệnh.

Raoul đứng lên.

“Người Mỹ đã đến rồi” Hoàng đế nói. Giọng của ông ta dù nói qua mũ bảo hiểm vẫn đầy mệnh lệnh. “Các người đã sẵn sàng chưa?”

“Rồi, thưa ngài. Tôi đã tuyển mộ được một tá rồi. Chúng tôi chỉ chờ lệnh của ngài”.

“Tốt lắm. Đồng minh của chúng ta cho mượn một nhân vật có thể hỗ trợ phi vụ này. Một người biết về các nhân viên tình báo Mỹ”.

Raoul nhăn mặt. Y không cần sự trợ giúp nào.

“Nhà ngươi có vấn đề gì không?”

“Không, thưa ngài”.

“Một chiếc máy bay sẽ chờ ngươi và đồng bọn tại sân bay Yverdon. Hãy nhớ là không có lần thứ hai nữa đâu nếu thất bại”.

“Tôi sẽ không thất bại”. Y khẳng định.

Hoàng đế nhìn chằm chặp vào y, một cái nhìn lạnh thấu đến ghê người dù qua mặt kính chiếc mũ đã hạ xuống. “Nhà ngươi biết nhiệm vụ của mình rồi chứ?”

Cái gật đầu cuối cùng.

Hoàng đế rảo bước, đi ngang qua Raoul cùng những gã cận vệ tháp tùng. Ông ta hướng tới lâu đài, sẽ ngự tại đây cho đến khi trò chơi chấm dứt. Nhưng trước tiên, Raoul phải kết thúc việc dọn dẹp mớ bòng bong y đã để lại.

Điều đó có nghĩa là một chuyến đi nữa tới Đức.

Y chờ đến lúc Hoàng đế bước đi. Con Drakko cum cúp đi phía sau những người kia như thể nó đánh hơi được quyền lực thực sự ở đây. Thế là một lần nữa, nhà lãnh đạo lại đến lâu đài trong vòng mười năm qua khi những chìa khóa cho sự nguyền rủa và cứu rỗi đã rơi vào lòng họ.

Tất cả bắt nguồn từ một sự phát hiện tình cờ ở bảo tàng Cairo…

Giờ thì chúng đã đến rất gần.

Cuối cùng sau khi vị chỉ huy đi ra rồi, Raoul mới đối mặt với người lạ. Những gì nhìn được, y thấy thiếu, mặc cho sự bực bội của mình bộc lộ. Nhưng ít ra bộ quần áo của người lạ tất cả màu đen, rất vừa khít.

Giống như một phần thưởng bằng bạc.

Từ sợi dây chuyền của người phụ nữ là một con rồng cuộn tròn.