Đêm Qua Anh Ở Đâu?

Chương 10

Lẽ ra anh ấy đã là Bác sĩ…

“Chị muốn tôi lắp những thứ này đằng sau mấy tm mành che cửa hiện tại hay bỏ những tấm kia xuống trước?” người thợ lắp đặt vừa hỏi vừa chỉ ra phía đằng sau anh ta, hướng về phòng ngủ của Julian và Brooke.

Đó chẳng phải là quyết định có tính quan trọng đặc biệt gì, nhưng Brooke không thích phải tự quyết lấy một mình. Julian đang ở đâu đó nơi vùng Tây Bắc Thái Bình Dương - dạo này cô gặp khó khăn trong việc theo dấu anh - và gần đây không giúp được gì nhiều trong bất kỳ việc gì ở nhà.

“Tôi không rõ, thế mọi người thường làm thế nào?”

Người đàn ông nhún vai. Cử chỉ đó của anh ta có nghĩa là, Tôi chả mấy quan tâm tới cách này hay cách kia, chỉ cần chọn lấy một để tôi còn chuồn khỏi nơi này cho lẹ. Brooke hiểu rất rõ anh ta cảm thấy thế nào.

“Ừm, tôi nghĩ nên lắp chúng ở đằng sau những tấm mành kia được không? Dù sao những tấm kia trông cũng đẹp hơn thì phải.”

Anh ta càu nhàu rồi biến vào trong, con Walter phản chủ lại đi theo gót anh ta. Brooke quay lại với cuốn sách của mình nhưng thở phào khi chuông điện thoại reo.

“Chào bố, có việc gì thế ạ?” Có cảm giác như họ không chuyện trò gì hàng năm trời rồi, và khi họ chuyện trò thì ông chỉ rặt nói về Julian mà thôi.

“Ô, Brooke đó à? Xin chào, Cynthia đây.”

“Chào dì Cynthia! Con nhìn thấy số của bố trên điện thoại. Dì khỏe không ạ? Hai người có dịp nào lên New York không?”

Cynthia cố nặn ra một tiếng cười. “Chắc là không sớm đâu. Lần trước... mệt thật. Các con luôn được chào đón ở đây, con biết đấy

“Vâng, con biết rồi.” Câu đó thốt ra nghe thô lỗ hơn cô chủ định, mặc dù thật cũng đáng bực mình một chút khi phải nhận lời mời đến thăm cha đẻ tại ngôi nhà thời thơ ấu của mình. Cynthia chắc hẳn đã nhận ra điều này vì chị mau mắn xin lỗi, làm Brooke tức thì cảm thấy áy náy vì mình đã vô cớ ác ý.

“Con cũng xin lỗi,” Brooke nói và thở dài. “Lúc này mọi việc ở đây hơi rối ren.”

“Dì thậm chí không tưởng tượng ra được! Nghe này, dì biết có thể không khả thi, nhưng dì nghĩ rằng dì nên hỏi một câu. Vì nguyên nhân chính đáng, con biết không?”

Brooke hít vào và nén hơi thở. Nó đó, cái khía cạnh hoàn toàn không mong đợi khi là người thân của ai đó vừa mới trở nên nổi tiếng - anh ấy giờ đây đã nổi tiếng, phải không nào? - cái phần mà dường như không ai cảnh báo trước cho ta!

“Dì không hiểu con có biết không, rằng dì là một trong các đồng chủ tịch của Ban Phụ nữ ở Thánh đường Beth Shalom.”

Brooke chờ nhưng Cynthia không nói tiếp.

“À vâng, con nghĩ là con biết có điều đó ạ,” Brooke nói, cố gắng truyền đạt càng ít nhiệt tình càng tốt.

“Ừ, vài tuần nữa bọn dì sẽ tổ chức một bữa tiệc có người diễn thuyết để gây quỹ hằng năm, nhưng diễn giả dự kiến vừa mới hủy lịch với bọn dì. Cái bà viết sách dạy nấu đồ ăn chay đó con biết không? Thực ra thì dì cho rằng những món ăn ấy về bản chất không phải là món chay đích thực, chỉ mang phong vị chay thôi. Bà ấy viết một cuốn cho lễ Quá hải, một cuốn cho lễ Ánh sáng và một cuốn nữa chỉ dành cho trẻ em.”

“Ừm.” cũng chả quan trọng nữa vì hóa ra tuần tới bà ấy phải đi phẫu thuật dị tật khớp ngón chân cái gì đó và sẽ không thể đi lại được một thời gian, mặc dù nếu con hỏi thì dì chắc đấy là phẫu thuật hút mỡ thẩm mỹ.”

Brooke tự buộc mình phải kiên nhẫn. Cynthia là người tốt và chị chỉ đang cố gắng quyên tiền cho những người kém may mắn. Cô hít một hơi sâu và chậm rãi, thận trọng để Cynthia khỏi nghe thấy.

“Cũng có thể đó thật sự là dị tật khớp ngón chân cái. Nhưng cũng có thể là bà ấy không thích phải đi từ Shaker Heights đến Philly, dì cũng chẳng biết nữa. Vả lại, dì là ai mà phán xét chứ? Bây giờ nếu có ai đến tặng dì một lần phẫu thuật thẩm mỹ làm đẹp vùng bụng miễn phí thì chắc hẳn dì hy sinh cả mẹ đẻ mình nữa ấy chứ.” Nghỉ. “Trời ạ, nghe khiếp quá, phải không?”

Brooke những muốn giật đứt tóc mình ra. Thay vì thế cô rặn ra một tiếng cười. “Con chắc không chỉ có mình dì như thế, nhưng dì đâu có cần phẫu thuật. Trông dì đẹp lắm.”

“Ồ, con cứ khen khéo!”

Brooke chờ vài giây để Cynthia nhớ ra vì sao chị gọi điện. “Ôi! Dù sao mặc lòng, dì biết hiện giờ chắc cậu ấy bận lu bù, nhưng nếu có cách gì để Julian có thể xuất hiện ở bữa tiệc của bọn dì thì hay quá.”

“Xuất hiện?”

“Đúng thế, ờ, xuất hiện hoặc biểu diễn, cậu ấy muốn làm gì cũng được hết. Có lẽ hát cái bài đã làm cậu ấy nổi danh chăng? Bữa tiệc bắt đầu lúc mười một giờ với một phiên đấu giá câm ở thính phòng và một số món khai vị nhẹ ngon lành, và sau đó chúng ta sẽ chuyển sang đại sảnh, ở đó dì và Gladys sẽ thuyết trình về những công tác trong năm mà Ban Phụ nữ đã thực hiện cho đến nay, tình hình chung về toàn thể hội viên ở Beth Shalom, đưa ra một số kỳ hạn của…”

“Hiểu rồi ạ. Vậy dì muốn anh ấy... biểu diễn? Ở một bữa tiệc của hội phụ nữ? Dì biết bài hát đó nói về người anh trai đã m của anh ấy, phải không? Dì có, ờ, dì có nghĩ là mọi người sẽ thích bài hát đó không?”

Ơn trời Cynthia không thấy câu hỏi này có gì xúc phạm. “Thích ấy à? Ôi Brooke, dì nghĩ họ sẽ mê tơi.”

Hai tháng trước ắt hẳn Brooke đã chẳng tin nếu có ai bảo cô rằng cô sẽ có cuộc nói chuyện như thế này; nhưng giờ đây, sau khi đã được những người như bà hiệu trưởng trường Huntley này, một trong những bạn học thời trung học của cô này, một đồng nghiệp cũ này, không phải một mà là những hai người anh em họ hàng nữa này, tiếp xúc đặt vân đề - ai cũng muốn Julian hát hoặc ký tặng hoặc gửi cho mình thứ gì đó - Brooke chẳng còn ngạc nhiên với bất kỳ điều gì nữa. Dù vậy, đây vẫn là lời đề nghị sốc nhất. Cô cố hình dung ra Julian hát mộc bài “For the Lost” trên bục Thánh đường Beth Shalom cho một nhóm chừng năm trăm các bà các mẹ Do Thái nghe sau khi được giáo sĩ và chủ tịch Ban Phụ nữ giới thiệu một cách cảm động đến rớt nước mắt. Sau đó, các bà các mẹ sẽ người nọ nhìn người kia mà nói đại loại như, “Ừ, cậu ta không phải bác sĩ nhưng chí ít thì cậu ta cũng kiếm sống được bằng nghề này,” và “Nghe nói cậu ta từng là sinh viên dự bị trường y nhưng rồi không theo đuổi sự nghiệp ấy nữa. Thật đáng tiếc làm sao.” Rồi họ sẽ bám nhằng lấy anh và, nhận thấy anh đeo nhẫn cưới, sẽ đòi nghe chân tơ kẽ tóc về vợ anh. Cô ấy có phải một cô gái Do Thái xinh đẹp không? Họ có con chưa? Chưa à, tại sao? Và quan trọng hơn nữa là khi nào thì vợ chồng họ định bắt đầu thử cố? Rồi họ tặc lưõi mà rằng chắc chắn anh xứng đôi vừa lứa với con gái hay cháu gái hoặc con gái của bạn họ hơn. Bất chấp họ sống ở vùng ngoại ô Main Line của Philly và Julian lớn lên ở Manhattan, ít nhất cũng có đến cả tá các bà các mẹ hiện diện tại đó tìm ra dây mơ rễ má với cha mẹ Julian hoặc ông bà anh hoặc cả hai. Tối hôm đó Julian sẽ trở về nhà trong trạng thái choáng nặng, như một cựu binh từ một chiến trường mà chỉ rất ít người hiểu, và Brooke sẽ chẳng thể làm gì hoặc nói gì để an ủi được anh.

“Ờ, thôi để con nói với anh ấy đã. Con biết anh ấy sẽ thấy rất vinh dự vì dì đã nghĩ đến anh ấy và con tin chắc rằng anh ấy rất thích làm việc đó, nhưng con cũng khá chắc chắn là vài tuần tới anh ấy bận kín hết lịch mất rồi.”

“Ừm, nếu quả thật con nghĩ rằng cậu ấy thích làm việc này, dì có thể nói với những người khác trong ban để xem có thể đổi ngày lại được không. Có lẽ bọn dì có thể

“Ồ, con không muốn dì phải làm như vậy,” Brooke vội nói. Trước đây cô chưa từng thấy mặt này trong tính cách Cynthia và lúng túng không biết xử sự ra sao với nó nữa. “Dạo này anh ấy thật khó mà liệu được trước. Cứ cam kết rồi lại phải hủy. Anh ấy ghét phải làm thế nhưng thời gian của anh ấy có còn là của anh ấy nữa đâu, dì hiểu không?”

“Hiển nhiên rồi,” Cynthia lẩm bẩm, và Brooke cố không nghĩ rằng thật mỉa mai làm sao khi cô đang vận dụng chính cái lý do Julian hiện đang đưa ra đối với cô.

Có tiếng chuông cửa phía đầu dây bên kia reo, Cynthia xin lỗi phải cúp máy, và Brooke gửi tới người khách của Cynthia lời cảm ơn thần giao cách cảm. Cô đọc thêm hai chương sách, một cuốn phi hư câu về vụ bắt cóc Etan Patz(1) đã làm cô tin tưởng rằng mỗi gã đàn ông có vẻ ngoài khiến ta sởn gai ốc trên phố đều có thể là một kẻ lạm dụng tình dục trẻ em, sau đó cô tiễn anh chàng lắp đặt mành cửa - tức tấm chắn thợ săn ảnh - ra cửa khi anh ta xong việc.

(1) Etan Kalil Patz (1972): cậu bé người Mỹ bị bắt cóc năm lên 6 tuổi ở Manhattan, New York và đến năm 2002 được tuyên bố là đã chết về mặt pháp lí.

Cô đã bắt đầu quen ở một mình hơn. Vì Julian cứ đi liên tục như thế nên Brooke thường đùa rằng có cảm giác cô đang sống cuộc sống độc thân ngày xưa vậy, chỉ kém trước là giao du ít hẳn mà thôi. Lúc này cô đi loanh quanh xuống đại lộ 9, và khi đi qua hàng bánh mì Ý ở góc phố với tấm bảng sơn chữ PASTICCERIA và những tấm rèm tự chế thì cô không tài nào cưỡng lại việc bước vào trong. Đó là một nơi đáng yêu với quầy cà phê kiểu Âu, nơi mọi người gọi cappuccino vào buổi sáng và espresso vào những giờ khác trong ngày và đứng mà uống.

Cô săm soi chiếc kệ lớn đựng các loại bánh nướng và có thể nếm hầu hết những chiếc bánh quy bơ và bánh sừng bò nhân mứt quả hay bánh tart pho mát phủ các loại quả mọng. Tất nhiên khỏi phải nói là nếu chỉ được chọn một loại thì cô sẽ phải lấy một chiếc cannoli rất ngon nhồi chặt trong lớp vỏ khô giònTrước tiên cô sẽ liếm lớp kem trên cùng, rồi sau khi chiêu một hớp cà phê cô sẽ tự cho phép mình cắn một miếng to từ phía đầu hoặc đuôi bánh, dừng lại để thưởng thức...

“Dimmi! (2)” bà mẹ Ý gọi, cắt đứt giấc mộng ăn uống của Brooke.

(2) Tiếng Ý: “Cho tôi biết (cô cần gì)!”.

“Cho một cà phê latte to, không caffein không béo nhé, và một chiếc kia,” Brooke thở dài nói, tay chỉ vào chiếc biscotti không kem, không nhân mà cũng không tô điểm gì nằm buồn bã trên chiếc khay gần quầy tính tiền. Cô biết chiếc biscotti hạnh nhân đó mới ra lò, ngon và giòn đúng độ, nhưng nó là sự thay thế tốt cho một chiếc cannoli. Dù sao thì cũng chẳng có nhiều lựa chọn. Cô tăng hai cân sau khi họ đi nghỉ cuối tuần từ Austin về và chỉ nghĩ đến điều đó đã đủ làm cô muốn thét lên rồi. Có lẽ sẽ chẳng ai nhận thấy vài cân dư thừa ở một người phụ nữ bình thường, nhưng ở cô - không đơn thuần là một bác sĩ dinh dưỡng mà còn là một bác sĩ dinh dưỡng đã kết hôn với một người nổi tiếng - thì điều đó hoàn toàn không thể chấp nhận được. Từ khi ở Austin về, cô đã lập tức bắt đầu lên một nhật ký ăn uống và kèm theo đó là một chế độ ăn kiêng khắt khe 1300 calo mỗi ngày. Cả hai vẫn chưa cho thấy một kết quả ấn tượng nào, nhưng cô rất quyết tâm.

Brooke trả tiền những thứ cô mua và tiến đến gần quầy cà phê thì nghe thấy ai đó gọi tên mình.

“Brooke! Này, đây cơ mà.”

Cô quay lại và thấy Heather, một trong những nhà tư vấn giáo dục của trường Huntley. Văn phòng của họ nằm trên cùng một hành lang, và mặc dù thi thoảng họ mới gặp nhau để thảo luận về một sinh viên mà họ cùng tư vấn, nhưng gần đây vì Kaylie mà họ gặp nhau nhiều hơn thường lệ. Chính Heather là người đầu tiên nhận thấy nỗi ám ảnh về trọng lượng của Kaylie và gợi ý cho cô bé đến gặp Brooke; giờ đây cả hai người phụ nữ này đều quan tâm đến cô bé. Nhưng dù trong vài tháng vừa qua họ có gặp nhau thường hơn ở trường, thực sự họ cũng chưa thành bạn bè, và Brooke cảm thấy hơi bối rối gặp đồng nghiệp của mình ở một tiệm cà phê vào một ngày thứ Bảy

“Chào!” Brooke vừa nói vừa nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế gỗ nhỏ cạnh Heather. “Tôi thậm chí còn không trông thấy cô ở đây cơ đấy. Cô khỏe không?”

Heather tươi cười. “Tôi khỏe! Sướng quá vì đang là kỳ nghỉ cuối tuần, phải nói là thế. Chị có tin được rằng chúng mình chỉ còn hai tuần nữa ở trường trước khi nghỉ liền một mạch ba tháng không?”

“Tôi biết, tôi nóng lòng chờ đến ngày ấy,” Brooke nói và quyết định không đả động đến việc cô sẽ vẫn phải làm cả ngày ở bệnh viện.

Dù gì thì Heather vẫn nhớ. “Ừ, hè này tôi sẽ đi dạy tư suốt đấy, nhưng chí ít tôi cũng có thể định đoạt được những giờ dạy ấy. Không hiểu có phải vì mùa đông vừa rồi kinh khủng quá hay chỉ là tôi đang bị kiệt sức nữa, nhưng tôi cũng nóng lòng chờ mùa hè.”

“Tôi hiểu mà,” Brooke nói mà cảm thấy hơi lúng túng vì thật ra họ chẳng có gì nhiều để chuyện trò với nhau.

Dường như Heather đọc được suy nghĩ của cô. “Thật lạ khi gặp nhau bên ngoài trường học, phải thế không?”

“Đúng thế! Tôi luôn bị ám ảnh rằng mình sẽ tình cờ đụng một trong những nữ sinh ngoài phố hay trong nhà hàng đấy. Nhớ cảm giác ấy không, khi ta còn là trẻ con và tình cờ đụng thầy cô giáo ở trung tâm thương mại, và ta sững sờ nhận ra rằng thầy cô cũng có cuộc sống riêng bên ngoài lớp học?”

Heather bật cười. “Thật thế đấy. May là chúng ta không hay đi lại trong cùng phạm vi.”

Brooke thở dài. “Kỳ cục thật, phải không?” Và tiếp: “Cuối tuần trước tôi đã có cuộc gặp gỡ rất hữu ích với Kaylie vẫn cảm thấy không yên tâm cho phép cô bé giảm cân chút nào, nhưng tôi đã nhất trí rằng chúng tôi có thể giúp cô bé bắt đầu ghi nhật ký ăn uống để xem cô bé có thể ăn những thức ăn có lợi và bổ ích đến mức nào. Cô bé có vẻ thích thú với điều đó.”

“Tôi rất vui khi nghe chuyện này. Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều biết rằng vấn đề của cô bé không phải là trọng lượng; vấn đề chính ở cái cảm giác dễ hiểu là không hòa đồng được với các bạn cùng lớp, những người đến từ tầng lớp kinh tế xã hội khác với em. Chúng ta thường gặp điều này ở các học sinh được học bổng, đáng tiếc là thế nhưng các em luôn tìm được vị thế của mình.”

Brooke không nhất trí về một phương diện - cô đã làm việc với khá nhiều nữ sinh ở tuổi thanh thiếu niên về vấn đề này, và theo quan điểm của cô thì Kaylie bị trọng lượng của mình ám ảnh thái quá - nhưng lúc này cô không muốn khơi mào cuộc đàm luận về vấn đề ấy. Thay vì thế, cô cười và nói, “Xem chúng ta kìa, nói chuyện công việc cả vào ngày thứ Bảy. Rõ chán!”

Heather nhấp ly cà phê của mình. “Vẫn biết thế, nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến. Thậm chí tôi đang cân nhắc đến việc chuyển lại về trường cấp dưới trong một hoặc hai năm tới đây. Thực sự là phù hợp hơn với tôi. Thế còn chị thì sao? Có dự định gì về việc chị sẽ ở lại trường bao lâu nữa không?”

Brooke săm soi vẻ mặt Heather xem có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy cô ta đang ám chỉ đến Julian không. Có phải cô này bóng gió gì đó rằng Brooke có thể thôi việc vì Julian giờ đã kiếm được tiền bằng việc chơi nhạc không? Đã bao giờ Brooke nói với cô ta rằng lúc đầu thì đó chính là lý do khiến cô nhận thêm công việc này hay chưa? Cuối cùng cô quyết định là mình đang quá ảo tưởng, vì nếu cô không nói về Julian một cách tự nhiên và bình thường thì sao cô lại mong ai khác nói về anh theo kiểu đó cơ chứ?

“Tôi không biết, thật đấy. Mọi việc, ờ, lúc này cứ như đang lơ lửng đâu đâu vậy.”

Heather nhìn cô với vẻ thông cảm nhưng vẫn giữ ý không giục cô. Brooke nhận thấy rằng đây chính là lần đầu tiên trong vòng ba bốn tuần qua có người - có một ai đó - không ngay lập tức hỏi về Julian. Cô cảm thấy biết Heather và chỉ muốn lái câu chuyện sang hướng nào đó đỡ khó xử hơn. Cô đưa mắt nhìn quanh, cố vắt óc ra điều gì đó để nói, và rồi cả quyết, “Thế hôm nay cô định làm gì?” Cô cắn một miếng biscotti để khỏi phải nói trong vài giây tiếp theo.

“Chả làm gì mấy, thật thế. Những ngày cuối tuần này bạn trai tôi đi chơi xa với gia đình, vậy nên tôi có một mình. Chỉ la cà vơ vẩn thôi, tôi nghĩ thế.”

“Hay lắm. Tôi thích những kỳ cuối tuần như thế,” Brooke nói dối. Cô cố kìm mình để khỏi tuyên bố rằng cô đã nhanh chóng trở thành chuyên gia trong việc làm sao để tiêu khiển kỳ nghỉ cuối tuần một cách thú vị nhất khi nửa kia của mình ở nơi nào khác. “Cô đang đọc gì đấy?”

“Ồ, cái này ư?” Heather hỏi và chỉ về cuốn tạp chí lật sấp gần khuỷu tay cô ta mà không cầm nó lên. “Chả gì cả. Loại tạp chí lá cải vớ vẩn ấy mà. Chả có gì thú vị cả.”

Brooke biết ngay đó chính là số ấy của tạp chí Last night. Cô băn khoăn không hiểu Heather có biết cô ta đã lạc hậu với tin tức những hai tuần không.

“Ààà,” cô nói với vẻ vui tươi gượng gạo mà cô biết rằng nghe khó mà tin được. “Cái bức ảnh tai tiếng ấy.”

Heather đan hai tay vào nhau và nhìn xuống đùi y như cô ta bị lật tẩy là đang xạo như cuội. Cô ta mở miệng định nói gì đó, cân nhắc lại, rồi nói, “Ừ, đúng là một bức ảnh kỳ cục.”

“Kỳ cục á? Ý cô là gì?”

“Ồ, tôi chẳng, ờ, tôi chẳng có ý gì cả đâu. Trông Julian tuyệt lắm.”

“Không phải, tôi hiểu cô ngụ ý gì. Có gì đó không hay trong bức ảnh ấy.” Brooke không hiểu tại sao mình lại lục vấn người phụ nữ mà mình không quen biết gì mấy này, nhưng cô bỗng cảm thấy cực kỳ muốn biết những suy nghĩ của Heather.

“Không phải thế. Tôi nghĩ bức ảnh đó chớp đúng được khoảnh khắc kỳ lạ khi anh ấy, ờ, đắm đuối nhìn cô ta theo kiểu đó.”

Thì ra là vậy. Thiên hạ cũng có những nhận xét tương tự. Những lời như “mê mẩn” và “tôn thờ” đã được vung vãi khắp nơi. Tất cả những lời lẽ đó đều cực kỳ lố bịch.

“Phải, chồng tôi thấy Layla Lawson rất gợi tình. Suy nghĩ đó cũng khiến anh ấy giống một trăm phần trăm những người đàn ông Mỹ dồi dào sinh lực khác thôi.” Brooke cười lớn, cố hết sức để giọng cười nghe bình thản.

“Chính xác!” Heather gật đầu đồng ý một cách quá hăng hái. “Tôi cá là điều đó rất hữu ích cho sự nghiệp của anh ấy về mặt quảng bá hình ảnh của mình.”

Brooke mỉm cười. “Là cái chắc. Chỉ trong một đêm, bức ảnh ấy đã thay đổi, ờ, hết thảy mọi thứ.”

Heather dường như bình tĩnh lại trước lời thú nhận đó. Cô ta nhìn lên Brooke và nói, “Tôi biết điều đó thật phấn khích, nhưng tôi thậm chí không thể tưởng tượng được điều đó đối với chị khó khăn đến độ nào. Tôi cá là người ta chỉ rặt nói về điều đó. Mỗi giây mỗi phút toàn là chuyện về Julian.”

Brooke sững sờ. Không một ai - cả Randy lẫn cha mẹ cô, hoặc thậm chí cả Nola nữa - nghĩ rằng danh tiếng mới có được của Julian là những gì khác nữa chứ không chỉ toàn những điều tuyệt vời mà thôi. Cô nhìn Heather một cách hàm ơn. “Ừ, nhưng tôi chắc điều đó sẽ chóng qua thôi. Vài tuần thời sự vớ vẩn, cô hiểu không? Rồi chúng tôi sẽ mau chóng chuyển sang giai đoạn tiếp theo thôi.”

“Chị cần phải thẳng thừng đừng để họ xâm phạm cuộc sống riêng tư của chị. Amber bạn thời đại học của tôi ấy, ngày nọ cô ấy kết hôn với người yêu từ thời trung học, làm đám cưới ở nhà thờ đàng hoàng nhé, và chỉ chưa đầy một gã chồng mới coóng của cô ấy trở thành American Idol. Thật là cả một cuộc biến động đột ngột về tổng thể.”

“Có phải bạn cô lấy Tommy không? Người thắng một trong những mùa giải đầu tiên ấy?”

Heather gật đầu.

Brooke huýt gió. “Ôi, tôi thậm chí chả bao giờ biết rằng anh ta đã có vợ.”

“Ừ, đúng thế, chắc chắn chị không thể biết được. Chính xác là mỗi tuần một em mới nhé, mà là từ ngày hắn thắng giải đến giờ đấy. Amber tội nghiệp còn rất trẻ - mới hai mươi hai - và ngây thơ đến nỗi cô ấy không bỏ hắn, bất kể hắn lăng nhăng với bao nhiêu cô mặc lòng. Cô ấy nghĩ rằng nếu chờ thêm một thời gian nữa thì hắn sẽ bớt máu mê dần và mọi sự sẽ trở về nếp cũ.”

“Thế rồi sao?”

“Úi chà, thật kinh khủng. Hắn vẫn cứ lang chạ và càng ngày càng công khai hơn về chuyện đó. Chị có nhớ những bức ảnh chụp hắn bơi thoát y với cô người mẫu đó, mấy bức họ làm mờ bộ phận sinh dục của bọn ấy đi nhưng ta có thể thấy hết những chỗ còn lại không?”

Brooke gật đầu. Giữa hàng đống ảnh tràn ngập liên miên do những tay săn ảnh chộp được, cô vẫn nhớ những bức ảnh đó vì chúng đặc biệt gây xôn xao dư luận.

“Ờ, tình hình cứ diễn ra theo kiểu đó hơn một năm trời mà chả có dấu hiệu gì là sẽ dừng lại cả. Tệ đến nỗi bố cô ấy phải bay đến gặp Tommy trong chuyến lưu diễn, xuất hiện ở khách sạn của hắn. Bảo hắn rằng hắn có hai mươi tư giờ đồng hồ để đệ đơn xin ly dị nếu không thì sẽ biết tay. Ông ấy biết Amber sẽ chẳng bao giờ tự làm điều đó - cô ấy là con nhà lành và vẫn không thể nào nhận thức được những gì đang xảy ra - và Tommy đã đệ đơn. Tôi không chắc trước khi nổi tiếng hắn có tử tế hay không, nhưng chả nghi ngờ gì rằng hiện giờ hắn là một tên đểu cáng có hạng.

Brooke gắng giữ vẻ trung lập, nhưng cô những muốn với sang bên kia bàn mà tát vào mặt Heather. “Sao cô lại kể cho tôi chuyện này nhỉ?” cô hỏi với giọng điềm tĩnh nhất mà cô có thể kiềm chế được. “Julian chẳng mảy may giống như vậy.”

Heather đưa tay lên che miệng. “Tôi không định ám chỉ rằng Julian giống Tommy vềbất kỳ điều gì. Tất nhiên là anh ấy hoàn toàn khác. Lý do duy nhất khiến tôi bắt đầu câu chuyện này là chỉ sau khi họ ly hôn ít lâu, Amber gửi cho tất cả bạn bè và gia đình một email, yêu cầu họ ngừng gửi cho cô những bức ảnh hay các đường link, những bài báo cắt ra gửi theo đường bưu điện, hoặc gọi điện để cập nhật cho cô những gì đang xảy ra với Tommy. Tôi vẫn nhớ rằng lúc đó tôi nghĩ điều này hơi kỳ cục - có thực có đến chừng ấy người đã gửi cho cô ấy những bài phỏng vấn mà họ đã đọc về thằng chòng cũ của cô ấy không? - nhưng một ngày kia sau khi cô ấy cho tôi xem hộp thư điện tử của cô ấy, tôi mới hoàn toàn hiểu rõ điều đó. Không ai định làm tổn thương cô ấy, họ chỉ quá vô ý thôi. Thế nào đó họ lại nghĩ rằng cô ấy muốn biết. Dù sao thì, kể từ đó, cô ấy đã hoàn toàn giành lại được cuộc sống của mình và chắc hẳn đã hiểu hơn ai hết rằng, ừ, cái thứ nổi tiếng này mới làm tan nhà nát cửa ra sao.”

“Ừ, phần đó chẳng có gì hay ho cả.” Brooke uống nốt cốc cà phê latte của cô và lau bọt kem trên môi. “Chắc hẳn tôi không thể tin được nếu cô kể với tôi vài tuần trước, nhưng trời ạ... Tôi vừa mất cả buổi sáng nay để thuê lắp mành che kín đi đấy. Vài đêm trước tôi chỉ quấn khăn tắm trên người đi từ nhà tắm ra tủ lạnh, và đột nhiên đèn flash chớp như điên như dại. Có một tay săn ảnh ngồi trên nóc xe ô tô ngay dưới cửa sổ nhà chúng tôi, hiển nhiên là mong chộp được một pô ảnh Julian. Thật là cái thứ tởn nhất mà tôi từng thấy.”

“Ồ, tệ thật. Rồi chị làm gì?”

“Tôi gọi vào số máy trực không khẩn cấp của đồn cảnh sát khu vực và báo là có một người đàn ông bên ngoài đang cố lén chụp ảnh tôi khỏa thân. Họ nói cái gì đó tựa như ‘Chào mừng đến New York’ và bảo tôi hạ mành xuống.” Cô đã cố ý lược bớt đoạn trước tiên cô gọi cho Julian, chỉ để nghe anh nói rằng cô phản ứng thái quá và cô cần xử lý những tình huốngư vậy và đừng có “lúc nào” cũng gọi anh trong cơn hoảng hốt về ‘đủ thứ’.”

Heather rùng mình trông thấy. “Vụ đó hãi thế. Tôi hy vọng chị có chuông báo động hoặc gì đó chứ?”

“Ừ, tới đây sẽ phải có.” Brooke đang thầm hy vọng họ sẽ chuyển đi trước khi việc này trở nên cần thiết - vừa mới tối qua trên điện thoại, Julian bóng gió đề cập gì đó về việc “nâng cấp” lên một căn hộ mới - nhưng cô không dám chắc điều đó có thành hiện thực hay không.

“Tôi xin phép một giây. Tôi phải chạy vào nhà vệ sinh,” Heather vừa nói vừa cầm chiếc ví của cô ta lên.

Cô nhìn theo Heather đi khuất vào phòng vệ sinh nữ. Ngay khi nghe tiếng chốt cửa từ đó vọng ra, cô chộp vội lấy cuốn tạp chí. Mới chỉ một tiếng đồng hồ, có lẽ chưa đến, kể từ lần cuối cô xem tấm ảnh, nhưng cô không thể không giở ngay trang mười bốn ra. Cặp mắt cô tự động đưa xuống góc trái bên dưới trang, nơi tấm ảnh được nhồi một cách vô tư giữa tấm ảnh Ashton đang tóm cặp mông săn chắc của Demi và tấm ảnh khác của Suri đang cưỡi trên vai Tom trong lúc Katie và Posh (3) chăm chú nhìn.

(3) Những người nổi tiếng, lần lượt là Ashton Kutcher, Demi Moore, Suri Cruise, Katie Holmes và Victori Beckham.

Brooke trải cuốn tạp chí mở lên bàn và nhoài ra để nhìn cho rõ hơn. Nó vẫn rành rành khó chịu như sáu mươi phút trước. Nếu cô chỉ thoáng liếc qua nó, và nó tình cờ không trưng ra chồng cô và một ngôi sao đang lên nổi tiếng thế giới thì cô đã chẳng thấy nó có gì đáng để ý cả. Ta có thể thấy những cánh tay giơ lên ở vài hàng đầu phía bên dưới khuôn hình. Cánh tay phải của Julian đang huơ lên cao một cách đắc thắng, và bàn tay anh nắm chặt micro như thể nó là thanh kiếm có sức mạnh đặc biệt. Brooke lạnh cả người mỗi khi cô nhìn Julian trong tư thế này, không thể tin được rằng trông anh mới ra dáng một ngôi sao nhạc rock thực thụ

Layla mặc một chiếc đầm hoa mùa hè ngắn đến phát choáng, cũng có thể đó là áo liền quần, đi kèm một đôi bốt đinh cao bồi màu trắng. Cô ta rám nắng, trang điểm, đeo đầy phụ kiện, và rướn người lên hết cỡ, và vẻ mặt cô ta trong lúc đăm đắm nhìn Julian thể hiện niềm vui tuyệt đỉnh. Thật buồn nôn, nhưng cái gây đau khổ hơn nhiều là biểu hiện của Julian. Sự mến mộ, vẻ tôn thờ, cái vẻ như muốn nói trời đất ơi em là tạo vật tuyệt hảo nhất mà anh từng để mắt đến là không thể chối cãi được, lồ lộ trên mặt anh với màu sắc chói ngời nhờ chiếc máy ảnh Nikon chuyên nghiệp. Đó là cái nhìn mà một người vợ hy vọng được thấy đôi lần trong đời mình, vào ngày cưới, và có thể là ngày đứa con đầu tiên của cô ta chào đời. Đó chính xác là cái nhìn mà ta không bao giờ muốn chồng ban tặng một phụ nữ khác trên một cuốn tạp chí phát hành toàn quốc.

Brooke nghe tiếng xối nước đằng sau cánh cửa gỗ. Cô nhanh chóng gấp cuốn tạp chíLast night lại và đặt úp xuống phía trước ghế của Heather. Khi Heather quay lại, cô ta nhìn Brooke và liếc cuồn tạp chí; đôi mắt cô ta như muốn nói, Chắc tôi không nên để nó lại đây. Brooke muốn nói với cô ta rằng chẳng sao cả, rằng cô đang dần quen với tất cả những điều này, nhưng dĩ nhiên cô đã không nói gì hết. Thay vì thế, cô thốt ngay điều đầu tiên nảy ra trong đầu để làm dịu đi tình thế lúng túng khó xử lúc đó.

“Gặp cô thật hay quá. Đáng tiếc là chúng mình làm việc cùng nhau hàng bao nhiêu giờ mỗi tuần ở trường như thế mà lại không bao giờ gặp nhau bên ngoài. Chúng ta phải phát triển việc này nhé! Có thể lên kế hoạch một bữa ăn nhẹ vào dịp cuối tuần, hoặc thậm chí là ăn tối...”

“Nghe được lắm đó. Chúc tối nay vui vẻ.” Heather nhẹ vẫy tay trong lúc bước đi. “Tuần tới gặp lại chị ở Huntley nhé.”