1) Bệnh Trĩ
Bài Số 1)
a) Thuốc rửa
Hòe Hoa 5 chỉ
Ngũ bội 1 chỉ
Hài nhi trà 4 chỉ.
Phèn chua 1 chỉ 5
Thêm một chút băng phiến bằng đầu ngón tay út (tán nhuyễn để riêng)
Cách nấu Bốn chén nước nấu còn 3 chén 5, lược kỹ hòa băng phiến vào. Rửa lúc nước còn âm ấm.
b) Thuốc xông
Thiềm tô 3 phân.
Dừa khô 1/2 trái (nạo kỹ phơi khô)
Cách làm Hai thứ trộn đều, dùng giấy quyến tốt vấn như điếu thuốc rồi châm lửa mà xông.
c) Thuốc thoa
Trùng thối rang gần khét tán nhuyễn 3 chỉ
Nhựa bông 1 phân
Cách dùng: Hai thứ trên hòa với dầu mè hay dầu dừa.
Dùng dây gân thật nhỏ, thắt siết chân mụt trĩ rồi mới thoa teintuiot, sau cùng bôi thuốc trên. Nếu thấy rát quá thì khỏi xài teintuiot cũng được.
Bài Thứ 2)
1) Sài Hồ 3 chỉ
2) Thăng ma 3 chỉ
3) Bạch truật 3 chỉ
4) Chích Hoàng Kỳ 3 chỉ
5) Đương quy 3 chỉ
6) Chích cam thảo 2 chỉ
7) Xuyên khung 2 chỉ
8) Phòng đãng Sâm 3 chỉ
9) Trần bì 2 chỉ
10) Đại táo 3 trái
Sắc lấy nước uống.
2) Bệnh Phù Thủng
Vỏ cây lam vồ (lá giống lá bồ đề mà không có đuôi nhọn)
Vỏ rễ cây gáo vàng
Qui bảng (yếm rùa) nướng, nhúng rượu với mật ong
Ba thứ trên sao vàng, mỗi thứ từ 5 đến 7 chỉ, sắc thuốc chén uống.
3) Bệnh Sốt Xuất Huyết
Vỏ gòn
Rau đất
Đậu xanh
Sao vàng khử thổ, sắc uống ngày 3 lần
Cử: Những món gây thấp: đồ nếp, xoài, đưa háu, dưa leo, thơm khóm. . .
4) Bệnh Tiểu Đường
Bài 1)
Trái thơm cắt gần trên cuống, nhét một cục phèn chua vào, đắp đất chung quanh và đem nướng. Khi chín, vắt lấy nước cất uống. Uống nhiều lần trong ngày, mỗi lần chừng một muỗng canh, tránh lúc bụng đói.
Bài 2)
Sanh địa 3 chỉ
Sơn thù nhục 3 chỉ
Hoài Sơn 3 chỉ
Mẫu đơn bì 2 chỉ
Trạch tả 2 chỉ
Phục Linh 3 chỉ
Hoàng Kỳ 3 chỉ
Cốc Mễ 3 chỉ
Bạch Truật 3 chỉ
Chi tử 2 chỉ
Sắc lấy nước uống.
Bài 3)
Lột vỏ bưởi (chừng 2 trái) và 5 trái khổ qua xắt nhỏ (bỏ hột), nấu với chừng 2 lít nước chừng 2 tiếng đồng hồ. Lấy nước uống dần. Nhớ là lúc uống phải hâm cho nóng.
5) Bệnh Ung Thư Tử Cung
Chứng băng huyết ra máu dầm dề.
A) Cách Trị 1
Rễ lục bình một nắm (thứ trắng)
Giả nhỏ, cho ít muối, vắt lấy nước cho uống sẽ cầm máu ngay.
B) Cách Trị 2
A) Cam thảo đất + cây vòi voi. Phơi khô hai thứ chừng một rỗ rửa sạch, lấy hết cọng lá đem nấu 2 lít nước còn lại 1 lít, lấy nước lược xác để uống.
B) Cam thảo độ chừng 1 nắm nấu 1 lít còn lại nửa lít rồi đổ vô hủ, bỏ thêm băng phiến, long não, đổ thêm nửa lít nước vào hủ.
Dùng bông gòn chấm thuốc vào âm hộ cho đến hết thuốc (nên nhớ không được di động, phải nằm một chỗ cho đến khi chấm hết thuốc)
6) Trị Sán Xơ Mít
Đinh Lăng 1 lạng
Đu đủ xanh 2 trái bằng nắm tay.
Vỏ cây lựu 1 nắm tay
Làm thành thuốc bột uống mỗi ngày.
7) Trị Sa Tử Cung
Nhân sâm 3 chỉ
Huỳnh Kỳ 3 chỉ
Quy 3 chỉ
Truật 3 chỉ sài hồ 1 chỉ rưỡi
Thăng ma 1 chỉ rưỡi
Cam thảo 5 phân
Sanh cương 3 chỉ
* Gia giảm tùy theo mạch
* Sanh xong 6 tháng (con so), con rạ 3 tháng mới uống được.
8) Sạn Mật, Sạn Thận
Khoai môn
Chuối chát 3 trái
Húng quế
Ba thứ trọng lượng bằng nhau, lấy chuối chát làm chuẩn.
Khoai môn củ lớn, phải chẻ theo chiều dọc để lấy đủ đấu, giữa, cuối.
Khoai môn để cả vỏ, chuối chát cũng vậy và húng quế để cả cành.
Hầm ba thứ cho nhừ, lọc lấy nước uống ngày 2 lần.
Có người ăn cả cái lẫn nước. Ba lần dùng cho một cữ chữa trị.
9) Thuốc Rượu Bổ Dương
Bài 1
Sanh địa 4 chỉ
Bạch thược 3 chỉ
Đương quy 3 chỉ
Xuyên khung 2 chỉ
Bài 2
Nhân Sâm 3 chỉ
Bạch Truật 4 chỉ
Vân Linh 4 chỉ
Cam Thảo 2 chỉ
Ngâm trong rượu nho nhiều ít tùy ý
10) Bán Thân Bất Toại
Bạch cập, phòng phong mỗi thứ 5 chỉ
Hoàng đàn, Tế tân mỗi thứ một lượng
Thương Truật, Bán hạ mỗi thứ 5 chỉ
Quy Vĩ, Ma Hoàng mỗi thứ 5 chỉ
Điều Thảo, Trần Bì mỗi thứ 5 chỉ
Bạch Liễm, Chỉ xác mỗi thứ 5 chỉ
Hương Phụ, Bạch chỉ mỗi thứ 5 chỉ
Cam thảo 1 lượng
Sắc lấy nước uống.
11) Cai Thuốc Phiện
Xuyên Bối mẫu 6 chỉ
Hạc sắc 3 chỉ
Hoàng tinh 5 chỉ
Kỷ Tử 3 chỉ
Đại Táo 4 quả
Lưu bì 5 chỉ
Bạch thược 3 chỉ
Phòng đãng Sâm 5 chỉ
Thục địa 5 chỉ.
Đằng giao 5 chỉ
Xuyên Khung 5 chỉ
Bạch Truật 3 chỉ
Ngưu Tất 3 chỉ
Đương Quy 5 chỉ
Phi tử 3 chỉ
Đỗ trọng 5 chỉ
Ngọc dụng 3 chỉ
Sai nhân 3 chỉ
Túc Xác 3 chỉ
Hành tạ sống 10 lát
Đường phèn 1 lượng.
Sắc lấy nước uống
12) Bệnh Trúng Phong
(khắp mình tê dại, miệng méo, mắt xếch)
Ô dược 4 chỉ
Ma Hoàng 2 chỉ
Xuyên Khung 2 chỉ
Hồng Bì 4 chỉ
Bạch chỉ 2 chỉ
Cát cánh 2 chỉ
Chỉ xác 2 chỉ
Cương Tầm 1 chỉ
Bào cương 1 chỉ
Cam Thảo 1 chỉ
Sinh Khương 3 lát
Thiên nam tinh 3 chỉ
Thảo ô 3 chỉ
Uy linh tiên 3 chỉ
Phòng phong 3 chỉ
Ngưu tất 3 chỉ
Sắc lấy nước uống
13) Bệnh Viêm Gan
Nhãn trần 6 chỉ
Sài hồ 4 chỉ
Bạch thược 3 chỉ
Bạch truật 3 chỉ
Phục Linh 3 chỉ
Đương qui 3 chỉ
Đơn bì 2 chỉ
Chi tử 3 chỉ
Hương phụ 3 chỉ
Thạch bì 2 chỉ
Chỉ xác 2 chỉ
Cam thảo 2 chỉ
Rau má (Kim tiền Thảo) 6 chỉ
Sinh khương 3 lát
Sắc lấy nước uống
14) Bệnh Đái Dầm
Đảng Sâm 5 chỉ
Mạch Môn 5 chỉ.
Sa Sâm 5 chỉ.
Hoài Sơn 5 chỉ
Tang Diệp 6 chỉ
Thạch cao. 2 chỉ
A giao 4 chỉ
Thạch xương bồ 4 chỉ
Cao thủ 2 chỉ
Sắc lấy nước uống.
15) Bệnh Nhức Đầu
Khương hoa 3 chỉ
Phòng phong 2 chỉ
Bạch chỉ 3 chỉ
Sài Hồ 3 chỉ
Xuyên Khung 2 chỉ
Hoàng cầm 2 chỉ
Cam Thảo 2 chỉ
Sinh Khương 3 lát
Sắc lấy nước uống
16) Bệnh Viêm Xoang Mũi
Thục Địa 5 chỉ
Sơn thù du 3 chỉ
Hoài Sơn 3 chỉ
Phi Linh 2 chỉ
Trạch tả 4 chỉ
Đơn bì 3 chỉ
Thạch cao 2 chỉ
Tri Mẫu 2 chỉ
Thương nhỉ tử 3 chỉ
Tân di 2 chỉ
Sắc lấy nước uống.
17) Bệnh Kinh Nguyệt Không Đều.
Đảng Sâm 3 chỉ
Hoài Sơn 3 chỉ
Trần Bì 2 chỉ
Bạch thược 3 chỉ
Xích thược 3 chỉ
Đào nhân 2 chỉ
Hồng Hoa 2 chỉ
Đương quy 3 chỉ
Cam thảo 2 chỉ
Xuyên khung 3 chỉ
Thục Địa 3 chỉ
Sắc lấy nước uống.
18) Toa Thuốc Bổ
(nổi tiếng "Nhất Dạ Ngũ Giao" của vua Minh Mạng (trích từ báo " Lạc Thú” tháng 10, 91 của Anh Thư))
a) Thành phần các vị thuốc
1) Sa Sâm 5 chỉ
2) Cẩu kỷ tư 2 chỉ
3) Bạch truật 3 chỉ
4) Đào nhân 5 chỉ
5) Đương qui 3 chỉ
6) Mộc qua 2 chỉ
7) Thục địa 5 chỉ
8) Tục đoạn 2 chỉ
9) Phòng phong 3 chỉ
10) Nhục quế 1 chỉ
11) Tần giao 2 chỉ
12) Độc hoạt 2 chỉ
13) Bạch thược 3 chỉ
14) Trần bì 3 chỉ
15) Khương hoạt 2 chỉ
16) Phục linh 3 chỉ
17) Đại hồi 2 chỉ
1 8) Cam thảo 3 chỉ
19) Đại táo 2 chỉ
20) Xuyên khung 3 chỉ
21) Đỗ trọng: 2 chỉ
22) Thương truật 2 chỉ
23) Cao hổ cốt 1 chỉ
24) Cao ly tử 3 chỉ
25) Hồng cúc 2 chỉ
Theo sự ghi chú thêm thì người có máu nóng nên bỏ bớt 2 vị Đại hồi và Nhục quế, còn người có máu lạnh thì thêm vị Ngưu tất (3 chỉ)
b) Cách chế và dùng
Có 2 cách chế thuốc là ngâm và chung
1) Ngâm thuốc: Ngâm tất cả các vị thuốc trên vào 2 lít rượu trắng (loại rượu tốt) trong năm ngày đêm.
Lọc rượu ra, pha thêm nửa lít nước đã đun sôi cùng với 300 gr đường phèn, trộn đều để dùng.
Lấy bã thuốc ấy ngâm nước nhì, cũng với 2 lít rượu trắng tốt và ngâm trong 1 tháng. sau đó cũng pha với nửa lít nước, nấu tan 300 gr đường phèn để uống.
2) Chung thuốc: Muốn có thuốc nhanh hơn để uống, thì chế thuốc bằng cách chung. Cho thuốc và 2 lít rượu trắng tất vào trong một cái thố bằng sành. Đậy nắp và bịt mí bằng keo cho kín để rượu khỏi bốc hơi ra ngoài. Đặt thố vào trong một cái nồi nhôm lớn hơn nó. Đổ nước cao lên bằng nửa chiều cao của thố, không đậy nắp nồi.
Đặt nồi lên bếp, để lửa nhỏ, nấu trong khoảng 2 tiếng đồng hồ.
Sau đó, lấy thố ra, rót rượu ra, giữ bã thuốc lại, rồi cho vào bã ấy một lít rượu khác, chung nước nhì trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ.
Xong, lấy rượu và bỏ bã.
Dùng từ 100 đến 300 gr đường phèn (tùy theo mức độ thích uống ngọt ra sao), nấu cho tan trong 1/4 hoặc nửa lít nước (tùy người dùng rượu độ cao hay thấp) rồi hòa chung với rượu đã chung mà uống.
Uống một ly nhỏ trong mỗi bửa ăn, và trước khi đi ngủ, sẽ thấy hiệu nghiệm rất mau.
Toa này tổng hợp của nhiều vị thuốc, gồm có thang Bát Trân( sâm, linh, truật, thảo, địa, thược, khung, qui) chủ trị khí huyết suy nhược và một số vị thuốc làm mạnh gân, xương, trị nhức mỏi, kích thích tiêu hóa, an thần và nhất là bổ thận, cường dương.
Toa này còn có tác dụng đặc biệt như
* Đại bổ khí huyết, tăng cường sinh lực, bồi bổ thần kinh, trị đau lưng và nhức mỏi. Bồi bổ cho sản phụ.
* Người liệt dương uống từ 1 đến 2 tháng có thể có con.
* Người khan tiếng, nói không nghe rõ, uống vào nói to được.
Thận yếu, bán thân bất toại, đi đứng không được, dùng toa này rất tốt
* Người già từ 60 tuổi trở lên uống vào sẽ tăng tuổi thọ, đêm ngủ không mộng mị, khỏi bị táo bón.
19) Công Dụng Trị Bệnh Của Hành Hoa Và Hành Tây.
(Sao lục từ Lê thị Mai và Xuân Vinh trong tuyển tập " Văn hóa Việt Nam)
1) Hành Hoa (Allium Fistulosum, L)
Hành hoa có tinh dầu, trong tinh dầu có alixin là một chất kháng sinh. Người Việt Nam ta quen dùng một nắm hành hoa tươi, một lòng đỏ trứng gà, nửa thìa nước mắm, dội cháo thật sôi vào, ăn nóng để giải cảm, đau nhức, mũi ngạt. Đông y còn dùng hành hoa đắp chữa mụn nhọt. Hành củ đem nướng, giã dập với ít muối đắp các vết thương (đứt tay, chân). Có tác dụng sát trùng, chóng liền da.
2) Hành Tây (Allium Cepal).
Ta hay dùng để trộn dấm ăn tươi hay xào thịt bò, gan heo. Hành tây cũng được dùng làm vị thuốc.
Hành tây có tinh dầu, phytin, một số axít hữu cơ, đường, enfin, vitamin B và C. Trong Hành tây có một chất kháng sinh mạnh gọi là phytonxit. Ngoài công dụng làm gia vị, hành tây còn dùng để chữa ho, trừ đờm, lợi tiểu. Đắp ngoài chữa viêm mủ da.
Bác sĩ Nguyễn đăng Khoa (Acupuncture & Herbs)
7612 Lin da Vlsta Ra, Ste 113
San Diego, CA 92111
Ta 858 569 5968
Hết