Để lành bệnh tự nhiên

CHƯƠNG 7: ĐẠO CỦA SỰ LÀNH LẶN

Nếu cơ thể quá tốt trong sự lành lặn, tại sao chúng ta đau ốm ?

Hệ thống lành lặn luôn luôn nằm đấy, lúc nào cũng hoạt động, lúc nào cũng làm việc để duy trì sự quân bình khi sự quân bình ấy mất đi; nhưng ở vào một thời điểm nào đó, khả năng duy trì của nó có thể không thích hợp cho một nhiệm vụ đòi hỏi nào đó. Hãy nhìn ví dụ về thương tích của DNA bởi ánh sáng hồng ngoại tuyến (ultraviolet light). Nếu chỉ một dây của cặp vòng xoắn bị thương tổn, sự sửa chữa bằng enzymes là chuyện bình thường. Trong tiến trình sửa chữa, chất tổng hợp polymerase dùng như một dây còn nguyên vẹn để hướng dẫn thay thế cái nhân tế bào bị thương tổn (nucleotides). Nhưng nếu cả cặp dây xoắn bị thương tổn thì sao? Nếu hai tia hồng ngoại tuyến dùng để chiếu vào cả đôi dây xoắn cùng chung một nơi, sự thương tổn sẽ nằm ngoài khả năng sửa chữa của chất tổng hợp polymerase I. Sự thay đổi trở nên cố định trong chuyện sao lại DNA - đó là một sự hoán chuyển, và điều này có nhiều cơ hội xảy ra hơn là không có những kết quả có hại.

Hay hãy nhìn chất cholesterol LDL và khả năng của cơ thể chuyển nó đi từ dòng máu bằng hoạt động của những vật nhận LDL trên bề mặt của những màng nhầy tế bào. Lúc nào mà chất cholesterol cho ra từ gan giữ ở một mức độ thấp, huyết thanh cholesterol LDL sẽ nằm trong mức độ giới hạn an toàn, nhưng nếu chủ nhân của lá gan cứ ăn đều đều những thứ nhiều dầu mỡ như bánh kẹp thịt có thịt heo cán mỏng( bacon cheeseburgers), thì rồi huyết thanh cholesterol sẽ lên tới một mức mà những tai hại về động mạch sẽ xảy ra.

Hơn nữa, một số người không đủ vật nhận LDL (LDL receptors). Trong một cuộc nghiên cứu kỹ càng về sự rối loạn bẩm sinh của cơ cấu cholesterol, những vật nhận LDI còn thiếu, và huyết thanh Cholestrol (serum cholestrol) vẫn ở một mức độ cao nguy hiểm bất chấp sự ăn uống điều độ, khéo léo. Trừ phi họ dùng thuốc giảm chất cholestrol, những người có triệu chứng này sẽ phát triển bệnh tim mạch (cardiovascular) ở tuổi còn rất trẻ.

Trong những trường hợp khác, những hoạt động của hệ thống lành lặn có thể bị bế tắc bởi những hoàn cảnh phức tạp. Sự lành lặn vết thương không thể toàn vẹn nếu có một vật thể lạ hay nếu sự nhiễm trùng phát triển. Nếu bạn thiếu dinh dưỡng hay có một cơ cấu thân thể thấp một cách bất bình thường (abnormally low metabolism) hoặc vì bệnh hoạn kinh niên, hệ thống lành lặn có thể không có đủ năng lực có sẵn để đối phó những vết thương và những xương bị gãy.

Nhiều năm trước đây tôi gặp một người đàn bà cứ than phiền về chuyện mệt mỏi và không đủ khả năng tập trung. Bác sĩ không tìm thấy gì sai trái bệnh hoạn trong con người bà, và bà ta cứ phải khổ tâm khổ trí đi tìm ý kiến chữa bệnh với những người thực hành khoa ngoại khoa (alternative practioners). Bà cũng đã thử vài phương pháp chữa trị vi lượng đồng căn (homeopathic rememdies) nhưng không có kết quả. Theo lời khuyên của một người theo phương pháp tự nhiên, bà tìm cách loại chất đường ra khỏi thức ăn uống. Dùng phương pháp châm cứu cũng như dược thảo cũng không thấy thành công. Bà đã bỏ ra một phần tài sản nhỏ để trả cho khoa trị liệu tâm lý nhưng cũng không tìm ra được một lý do xúc cảm nào về chuyện thiếu năng lực. Lúc tôi gặp bà, bà trông có vẻ ủ rũ, thờ ơ, và căng thẳng, nước mắt bà cứ chảy ra lúc bà kể cho tôi nghe về những triệu chứng của bà và sự thất bại của bà trong khi đi tìm thầy thuốc để trị cho có kết quả. Những triệu chứng của bà bao gồm sự rối loạn về tiêu hóa và kinh nguyệt cũng như sự tiêu hao rõ rệt khả năng lành lặn của bà. Một năm trước ngày đi khám bệnh, bà bị gãy một chân trong một tai nạn xe cộ. Mặc dù được điều trị đúng cách, cái xương gãy cũng không lành; danh từ y khoa chuyên môn cho những gì xảy ra gọi là vết gãy không kết hợp (nonunion). Bà chỉ cho tôi móng chân cái bên phải của bà, giờ này đã đổi sang màu xanh đen. Bà nói với tôi, " Nó vẫn có màu như thế kể từ ngày tôi bị vấp bốn tháng trước đây. Những vết cắt và bầm không lành như chúng vẫn thường xảy ra. "

Người đàn bà này bị chứng giảm năng tuyến giáp (hypothyroidism) một cách trầm trọng, mà bác sĩ không tìm ra vì sự thử nghiệm chức năng của tuyến giáp (thyroid) coi như bình thường. Những thử nghiệm về tuyến giáp không phải lúc nào cũng đáng tin cậy, đặc biệt là ở những người đàn bà trẻ. Tôi nghi hệ thống miễn nhiễm của bệnh nhân này tiết ra chất chống lại cơ thể tới chất hócmôn của tuyến giáp, trung hòa nó trước khi nó có thể biểu lộ hiệu quả của nó. Và kết quả là cơ cấu thân thể của bà quá chậm, dù thử nghiệm máu cho thấy chức năng của tuyến giáp làm việc bình thường. Hệ thống lành lặn của bà chỉ đơn giản không có đủ năng lực chuyển hóa (metabolic energy) sẵn có dành cho nó để làm công việc được yêu cầu. Lúc bà bắt đầu dùng thuốc hócmôn tuyến giáp phụ trội, cơ cấu thân thể của bà dần trở lại bình thường một cách chậm chạp, và khả năng lành lặn của bà cũng như thế.

Cho nên câu trả lời ngắn cho câu hỏi, "Tại sao chúng ta đau?" là khả năng của hệ thống lành lặn thiết lập sự quân bình có thể đã bị vượt quá bởi những lực hay những hoàn cảnh của sự mất quân bình. Một câu trả lời dài hơn cần phải ghi nhận vấn đề tại làm sao những lực bất quân bình tồn tại, và chuyện đó khiến chúng ta đào sâu thêm vào lĩnh vực của sự nghiên cứu thẩm tra có tính triết học. Niềm tin của tôi là sức khỏe và bệnh hoạn là hai thứ đối nghịch bổ sung cho nhau, chúng ta không thể có một mà không có hai, bất cứ cái gì hơn tốt và xấu đều có thể đứng một mình. Thử thách ở đây là có thể dùng bệnh hoạn như một cơ hội cho sự chuyển hóa.

Liệu sự lành lặn có thật sự có nghĩa là sự biến mất hoàn toàn của một bệnh trên mức độ thể xác?

Không. Nghĩa đen của "lành lặn" là "trở nên toàn thể" (becoming whole). Nó có thể có phần cảm nhận bên trong của toàn thể, tuyệt hảo, cân bằng, và hòa bình ngay cả khi thể chất không được tuyệt hảo. Tôi biết có những người thiếu chân tay mà họ đối với tôi còn toàn vẹn hơn những người có đầy đủ chân tay (Hãy đọc câu chuyện của Jan trong cuốn sách này). Dĩ nhiên, ai cũng muốn thiết lập một thể chất hoàn toàn, và hệ thống lành lặn sẽ làm chuyện đó nếu nó có thể, nhưng khi bệnh hoạn thể chất đã được hàn gắn và không thể thay đổi được, sự lành lặn có thể xảy ra theo những chiều hướng khác, bao gồm sự thích nghi và sự đền bù cho bất cứ sự mất mát của cấu trúc hay chức năng.

Liệu có thể chết trong một điều kiện được chữa lành lặn ?

Tại sao không? Chết và sự lành lặn không đối nghịch nhau. Chết như một người lành lặn có nghĩa là có thể nhìn đời sống của một người như là hoàn toàn và chấp nhận sự tan rã của thể chất con người. Có rất nhiều câu chuyện đáng tin cậy về những ngày cuối của những vị đạo sĩ, đặc biệt là trong truyền thống Phật giáo và kéo dài cho đến ngày nay, đã minh họa khả năng của sự lành lặn vào cái chết. Chúng có rất ít sự khác nhau so với những gì xảy ra trong bệnh viện hiện đại, trong đó bác sĩ luôn coi cái chết như là một kẻ thù cuối cùng cần phải chiến đấu với tất cả những võ khí của kỹ thuật Y khoa hiện đại. Bị kẹt trên trận chiến này, những bệnh nhân thường không có cơ hội cho sự lành lặn cuối cùng, cũng như những người trong nền văn hóa của chúng ta không có phương tiện để có những thông tin thực tiễn về cách dùng đời sống để chuẩn bị cho cái chết. Ở những nền văn hóa khác và ở những thời khác "nghệ thuật chết" là một chủ đề quen thuộc cho sách và những cuộc đàm luận. Tôi muốn thấy chuyện này sống lại.

Quan hệ giữa chữa trị (treatment) và lành lặn (healing) là gì? Nên tôi muốn theo đuổi chuyện lành lặn, liệu tôi có nên bỏ qua chuyện chữa trị hay không?

Chẳng hạn như tôi bị bệnh sưng phổi có vi trùng (bacterial pneumonia), một bệnh hiểm nghèo có nguy hiểm đến tính mạng do sự nhiễm trùng của phổi. Tôi đi bệnh viện, dùng thuốc trụ sinh theo đường tĩnh mạch, hồi phục, rời bệnh viện và coi như được chữa lành. Thế thì chuyện chữa lành là chuyện gì? Nhiều người, phần lớn là bác sĩ và bệnh nhân, sẽ nói rằng đó là do sự chữa trị (treatment). Nhưng tôi muốn bạn hãy xem xét một sự diễn dịch khác. Trụ sinh giảm số lượng vi trùng tấn công xuống một mức để cho hệ thống miễn nhiễm có thể lo liệu và dứt điểm công việc trị bệnh. Chuyện chữa lành thật sự (real cure) là do hệ thống miễn nhiễm, vốn không đủ sức chấm dứt một sự nhiễm trùng vì nó bị tràn ngập bởi toàn những vi khuẩn và tất cả những sản phẩm độc hại gì mà chúng có thể làm ra. Dĩ nhiên, hệ thống miễn nhiễm tự nó là một bộ phận của hệ thống lành lặn.

Tôi vẫn duy trì quan điểm là nguyên nhân thông thường cuối cùng của tất cả những chuyện chữa lành là do ở hệ thống lành lặn, cho dù có hay không có sự chữa trị áp dụng vào. Khi sự chữa trị hữu hiệu, chúng có được là do khởi động những cơ cấu lành lặn bẩm sinh. Sự chữa trị - bao gồm thuốc men và giải phẫu- có thể làm cho sự lành lặn thuận tiện và tháo gỡ những chướng ngại dính với nó, nhưng sự chữa trị không giống như sự lành lặn. Sự chữa trị hình thành từ bên ngoài bạn; sự lành lặn đến từ bên trong bạn. Tuy thế, từ chối sự chữa trị trong lúc chờ đợi sự lành lặn có thể là một điều ngu xuẩn.

Tôi nhớ lại chuyện một con người tu hành bị kẹt trong một cơn lụt. Lúc nước bắt đầu dâng cao quanh nhà ông, ông chăm chú cầu nguyện, và vững tin rằng Thượng đế sẽ cứu ông. Cuối cùng thì ông buộc phải leo lên nóc nhà nhưng ông vẫn tiếp tục cầu nguyện. Có hai người trong toán giải cứu lái thuyền chèo chạy trước căn nhà bị ngập lụt và kêu ông ra để cứu ông. Người đàn ông từ chối, ông nói “Thượng đế sẽ cứu tôi. ". Một lát sau nữa, lúc mực nước đã lên tới mắt cá ông, một chiếc thuyền máy giải cứu lại chạy ngang và đề nghị giúp đỡ ông. Người đàn ông đáp, "Ô không, cám ơn. Tôi tin tưởng Thượng đế sẽ cứu tôi.” Cuối cùng, một chiếc máy bay trực thăng của vệ binh quốc gia bay ngang đầu và thả thang dây xuống. Mặc dù nước đã lên tới cổ, người đàn ông vẫn xua đuổi máy bay đi ông nói với phi hành đoàn chiếc máy bay trực thăng, "Thượng đế sẽ cứu tôi”. Nhưng trong chốc lát nước đã bao phủ lấy đầu ông, và sau một cuộc vùng vẫy ngắn ngủi, ông chết đuối. Điều kế tiếp ông biết là ông lên thiên đàng, đứng cạnh Thượng đế và hỏi ngài, “Sao ngài không cứu con, Thượng đế? Lòng tin của con nơi ngài không bao giờ lay chuyển. Sao ngài lại bỏ rơi con như thế?" Thượng đế giận dữ mà quát rằng, "Bỏ rơi ngươi à? Ta đã gửi một thuyền đến cứu cấp. Rồi lại một thuyền máy tới cứu nguy. Sau đó ta gửi đến cho ngươi một chiếc máy bay trực thăng. Thế thì ngươi còn đợi chờ gì nữa?”

Làm sao tôi biết sự chữa trị thích hợp?

Bạn phải học hỏi loại thuốc gì có thể hay không thể hoàn thành chức năng chữa bệnh của nó, những bệnh gì chịu sự chữa trị thông thường (conventional treatment) và những bệnh gì không chịu. Có thể dựa vào hệ thống lành lặn tốt hơn là dựa vào thuốc. Chẳng hạn như thử xem xét bệnh truyền nhiễm. Sự tiến bộ Y khoa tuyệt vời nhất của thế kỷ hai mươi là sự giảm thiểu của bệnh truyền nhiễm bằng những phương tiện tăng cường sự sạch sẽ của quần chúng, chủng ngừa và trụ sinh. Vào đầu thế kỷ này, bệnh truyền nhiễm gây nhiều chết chóc cho trẻ em và người trẻ tuổi. Vào cuối thế kỷ này, bệnh thoái hóa kinh niên, phần lớn ở người già hơn, đã thay thế bệnh truyền nhiễm như một loại bệnh tật mà thường thường bác sĩ được gọi đến để điều trị. Với sự thay đổi này, mọi người trong xã hội chúng ta đã trở nên bằng lòng vừa ý về bệnh truyền nhiễm, ít nhất là những bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra (bacterial infections), tin rằng trụ sinh - thuốc thần diệu- đã cho chúng ta sự bảo vệ hoàn toàn.

Quan điểm này không được những chuyên viên trị bệnh truyền nhiễm chia sẻ, họ là những người chứng kiến sự tăng cao không ngừng nghỉ của những cơ cấu kháng cứ lại những thuốc mạnh nhất của chúng ta. Có những bệnh mà người ta tưởng rằng đã chiến thắng được rồi như bệnh lao (tuberculosis), đã nổi lên sống dậy trở lại. Những cơ cấu mà người ta tưởng chúng như không còn đủ sức chống cự, như loại vi khuẩn gây ra bệnh lậu (gonorrhea), giờ đây lại có khả năng chống cự lại thuốc. Tệ hơn nữa, mức độ phát triển sự đề kháng ngày càng tăng, như tốc độ truyền bệnh của nó. Một thứ trụ sinh mới có thể có hiệu quả trong vòng vài tháng, giờ đây những vi trùng (germs) học được cách trung hòa được thuốc (neutralize); và có lần những mầm mống chống đối của bệnh xuất hiện ở Chicago, chúng lan qua thủ đô Bắc Kinh của Trung cộng chỉ trong vòng có vài tuần lễ. Sự thật phũ phàng là chúng ta đang thua cuộc trong cuộc chạy đua với vi khuẩn.

Những sự phát triển đáng ngại ấy nêu ra một câu hỏi quan trọng. Liệu có tốt hơn khi đặt niềm tin của chúng ta vào những vũ khí chống lại những nhân tố bên ngoài của bệnh hay ở những nguồn bên trong vốn làm cho chúng ta ít bị thương tổn. Kinh nghiệm với thuốc trụ sinh và vi khuẩn đã đề ra rằng nếu quá tin cậy vào những vũ khí trị bệnh, cho dầu lúc đầu chúng có vẻ hiệu nghiệm, nhưng chúng sẽ gây rắc rối cho chúng ta vào giai đoạn cuối trị bệnh. Vũ khí trị bệnh tự chúng làm ảnh hưởng đến vòng tiến hóa của vi khuẩn trên chiều hướng gây thêm sự độc hại, càng làm cho chúng trở nên là kẻ thù đối nghịch hơn. Mặt khác, nếu chúng ta tập trung cải tiến khả năng đề kháng của cơ thể, vi khuẩn nằm đó, và chúng ta vẫn được bảo vệ. Cho nên có lẽ là điều khôn ngoan hơn khi chúng ta dựa vào hệ thống lành lặn hơn là vào thuốc và bác sĩ.

Nếu tôi thất bại trong chuyện làm cho tôi khỏe khoắn hơn, đó có phải là lỗi của tôi không?

Tôi luôn cảm thấy thích thú khi hỏi mọi người tại sao họ nghĩ rằng họ đau. Lúc tôi còn là sinh viên Y khoa tôi hỏi câu hỏi đó với một số phụ nữ lớn tuổi hơn có bệnh ung thư vú, những phụ nữ của thế hệ bà của tôi. Những câu trả lời luôn có liên quan đến những thương tích trong quá khứ: "Hai mươi năm trước đây, tôi té vào một cái bàn và ngực tôi bị thương trầm trọng. " "Lúc tôi ở lứa tuổi đầu bốn mươi, tôi bị tai nạn, và ngực tôi bị đau. " Lúc tôi đem câu hỏi này để hỏi những bệnh nhân ngày nay thì không thấy họ nhắc đến thương tích. Thay vào đó họ nói như thế này, "Tôi cứ nung nấu sự tức giận với chồng tôi qua bao năm tháng," hay "Tôi chưa bao giờ diễn tả sự đau buồn tôi cảm thấy." hoặc "Tôi chưa bao giờ đụng chạm đến những cảm giác của tôi." Rõ ràng là có một sự thay đổi rõ ràng, nhưng nó rõ ràng cái gì.

Sự thích thú có tính văn hóa của chúng ta về sự tương tác của tâm trí / thể chất, thêm vào với sự phổ thông của những sách tự học và những tư tưởng của thời đại mới, đã tạo nên sự cảm nhận của trách nhiệm cá nhân về chuyện đau ốm. Chúng ta làm chúng ta đau vì một vài thói quen của tâm trí, bởi thất bại trong chuyện rũ bỏ những xúc cảm tiêu cực, bởi không theo đuổi một cuộc sống tâm linh. Những người quảng bá những tư tưởng này đều có ý niệm tốt. Họ muốn chúng ta phải có trách nhiệm hơn về tình trạng sức khỏe của chúng ta và công nhận chuyện chúng ta có thể dùng tâm trí để giúp vào tiến trình lành lặn, tất cả những thứ trên đều tốt. Nhưng có một kết quả không ngờ được của thông điệp của họ là tạo ra quá nhiều mặc cảm tội lỗi. "Tôi làm cho tôi mang bệnh ung thư”, "Nếu tôi không khá hơn, tôi phải là người xấu”. Sự mặc cảm tội lỗi về bệnh tật có tác dụng phá hoại; nó có thể không giúp gì cho hệ thống lành lặn.

Cái tư tưởng phổ thông một thời cho rằng bệnh ung thư là do những thương tích cũ không có giá trị khoa học. Có thể những công thức mới về những cảm giác tích tụ nung nấu gây ra bệnh cũng sai. Tôi nghĩ rằng bệnh ung thư vú là do sự tương tác phức tạp của những yếu tố di truyền và môi trường chung quanh, trong đó có sự lựa chọn lối sống như chế độ ăn uống, dùng rượu, sự phơi bày trước chất độc gây động dục (estrogenic toxins), có thể có nhiều ảnh hưởng hơn là những cảm xúc. Tôi tin chắc rằng sự đau buồn và sự căng thẳng có thể đè nén sự miễn nhiễm, làm cho những tế bào độc hại có cơ hội lớn mạnh thành những mụt u có thể cảm giác thấy; nhưng tôi phản bác cái quan điểm cho rằng người ta tạo bệnh ung thư cho mình bởi vì thất bại không biểu lộ được sự tức giận và những xúc cảm khác. Và tôi thực tình chống đối cái ý tưởng cho rằng khi thất bại trong chuyện lành lặn làm cho người khác có một sự phán đoán nào đó về tình trạng tâm trí hay tâm linh của người ấy. Bác sĩ Larry Dossey, một trong số một vài bác sĩ đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự cầu nguyện và lành lặn, đã sưu tập một danh sách gây nhiều xúc động về những người hiển thánh, cả Đông phương và Tây phương, những người đã chết vì bệnh ung thư, nhiều đến nỗi bệnh ung thư có vẻ gần như một thứ rủi ro có tính chất nghề nghiệp của trạng thái hiển thánh (sainthood). Hãy ghi nhớ trong đầu nếu bạn bị xúi giục để còn tin rằng sự lành lặn tùy thuộc vào sự giác ngộ và sự vượt qua những xúc cảm tiêu cực !

Sự giảm thiểu tự nhiên của bệnh ung thư có phải là ví dụ tốt nhất của hoạt động của hệ thống lành lặn không ?

Bởi vì chúng là những sự xuất hiện hiếm hoi và ngoạn mục, và bởi vì ung thư là một căn bệnh đáng sợ vốn từ khước đa số những nỗ lực chữa chạy, những sự giảm bệnh tự nhiên gây sự chú ý và tạo ra những câu chuyện tốt cho ngành thông tin báo chí. Theo quan điểm của tôi chúng không phải là những ví dụ tất nhất của những đáp ứng lành lặn. Ung thư là một trường hợp đặc biệt, không giống như những bệnh khác (đọc chương 19), và những trường hợp này làm chúng ta bớt chú ý đến hệ thống lành lặn tuy kém hào nhoáng nhưng làm những công việc quan trọng hơn. Sự thuyên giảm tự nhiên của ung thư biểu hiện cho sự hoạt động đặc biệt của hệ thống lành lặn này. Hoạt động bình thường của hệ thống thực sự đáng ghi nhớ hơn nhiều.

Môn Thiền Phật giáo Nhật Bản (Zen) thúc dục những người thực hành kinh nghiệm lấy những gì đặc biệt từ những gì thông thường, bỏ đi cái màng lọc màu xám của nhận thức quen thuộc và nhìn bản chất diệu kỳ của kinh nghiệm hàng ngày. Những người mới ngồi thiền thường tưởng tượng mục đích có thể đạt được bằng những trạng thái bất thường của sự tỉnh thức: những kinh nghiệm xảy ra ngoài thân thể, nhận thức, hợp ca từ thiên đàng nghe được với tai của tâm trí, những sức mạnh siêu nhiên, và còn nhiều nữa. Những thiền sư dạy rằng những kinh nghiệm như thế trong có liên hệ gì đến sự phát triển tâm linh và không nên chú trọng đến nếu nó xảy ra. Thay vào đó, họ hướng dẫn học viên cách ngồi đơn giản và chú ý vào những hình thái thông thường của sự tồn tại hiện hữu, như sự tăng cao và xuống thấp của hơi thở.

Chúng ta khó lòng nhận thấy - hay chỉ biết ơn riêng thôi - những hoạt động bình thường của hệ thống lành lặn của cơ thể con người. Đưa ra tất cả những nhân tố có khả năng của sự thương tổn và bệnh hoạn chung quanh chúng ta, tất cả những thay đổi xảy ra bên trong và chung quanh chúng ta từng lúc, thật là kỳ diệu để thấy chúng ta đã sống còn trước những trở ngại nói trên. Hãy nghĩ trong một lúc nào đó tất cả mọi chuyện có thể trật đường rầy. Sự tiếp xúc thường xuyên với quang tuyến có thể làm hư hại DNA; hàng triệu tế bào phân chia mỗi một giây, bất cứ một trong những thứ đó có thể tạo nên một tai nạn về di truyền; vô số những phân tử của chất kích thích và chất độc lọt vào hệ thống của chúng ta từ mỗi một điểm có thể vào; những lực dằng co làm trầy trụa những mô; những áp lực của tuổi tác; hằng hà sa số những vi khuẩn (viruses), vi trùng (bacteria), và nhiều nhân tố có khả năng của bệnh tật khác nằm trong môi trường chúng ta đang sống; đó là không nói đến chuyện những tấn công về xúc cảm làm căng thẳng dây thần kinh và làm có nguy cơ làm xáo trộn đến sự quân bình giữa tâm trí / thể xác của chúng ta. Để sống còn từ ngày này qua ngày khác mà không gặp những biến chứng nguy hiểm thì gọi là phép lạ cũng không có gì là quá đáng.

Mỗi ngày chúng ta yên vui sống với sức khỏe tương đối tốt lành đã là chứng nhân sự hoạt động của hệ thống lành lặn. Giá trị không thể nào đo lường được của nó không nằm ở chỗ khả năng của nó làm giảm bệnh nhưng nằm ở sự duy trì sức khỏe từ những thăng trầm trong đời sống hàng ngày. Đây là một cơ hội thật sự để ghi ân những điều đặc biệt có từ những thông thường.

Liệu có thể tăng tiến hoạt động của hệ thống lành lặn để bảo vệ sức khỏe ?

Vâng. Làm thế nào để làm được chuyện đó là những đề tài sẽ được bàn đến ở phần kế tiếp của cuốn sách này.

Những Hình Thái Của Sự Lành Lặn: Jan

Jan Barnett có một lá lách lớn, lớn đến nỗi chuyện đi mua quần áo là một chuyện khó khăn cho bà ta. "Tôi trông giống như có bầu năm tháng,“ Bà nói với một nụ cười. Ngoại trừ chuyện đó, và một vài lần hụt hơi khi thở do sự rán sức (một triệu chứng của bệnh thiếu máu (anemia)), bà ta sống một cuộc sống bình thường - phải nói là trên trung bình mới đúng, bởi vì bà tự coi mình là một người đàn bà vui vẻ, may mắn. Bà nói với tôi, "Nếu tôi phải chết ngày hôm nay, tôi không ân hận gì cả. Đời tôi là cả một cuộc đời đầy đủ, tuyệt diệu, và tôi có một cảm nhận tuyệt vời về sự an bình bên trong."

Mười năm trước đây, lúc bà được bốn mươi tuổi, Jan tới khám tổng quát ở phòng mạch bác sĩ như thường lệ. Bác sĩ tìm ra lá lách bị sưng to, đó là kết quả thử máu cho thấy máu Jan xấu. Bác sĩ đề nghị cắt bỏ lá lách (splenectomy), vốn là một cuộc giải phẫu thông thường, vì lá lách được coi là có thể bỏ đi, và bác sĩ này gửi Jan đến một bác sĩ giải phẫu. May mắn thay, quan điểm của người bác sĩ giải phẫu rất cấp tiến. Ông nói với bệnh nhân Jan, " Chúng tôi không làm việc này nữa, ít nhất là cho đến khi chúng tôi tìm được lý do của sự sưng lá lách?' ông gửi Jan đến một chuyên gia về huyết học (hematologist).

Người chuyên gia này thử nghiệm máu của Jan và lòi ra Jan Barnett có một chứng bệnh rối loạn ít người hiểu đó là bệnh xơ hóa tủy xương sơ khởi (primary myelofibrosis hay còn gọi là agnogenic myeloid metaplasia (bệnh xơ hóa có căn nguyên không rõ)); cắt bỏ lá lách có thể sẽ giết bà ta. Xơ hóa tủy xương có nghĩa là những mô như tủy xương lớn lên ở một chỗ khác từ nơi chốn đáng ra là chỗ của chúng - trong trường hợp này, ở lá lách. "căn nguyên không rõ" là một tiếng chọn lọc có nghĩa là "không rõ nguyên nhân gây bệnh" (hay nói một cách rõ ràng hơn, "Chúng tôi không có một chứng cớ nào về chuyện tại sao bà có tình trạng bệnh hoạn này hay chúng tôi có thể làm gì để chữa nó đây"). Vấn đề sâu xa là thay thế những tủy hoạt động bằng nguyên bào sợi (fibroblast) là những tế bào làm thành những mô kết nối. Để đáp ứng với tiến trình nguy hiểm đến tính mạng này, lá lách nhận lấy công việc chế tạo ra những tế bào hồng huyết cầu; sự căng lớn của lá lách được đền bù - đó là sự lành lặn- đáp ứng với bệnh tật, vì chuyện này mà tại sao chuyện cắt bỏ lá lách trở thành nguy hiểm.

Sự chẩn đoán của bệnh xơ hóa tủy xương sơ khởi không có gì chắc chắn. Đa số người bị bệnh này đều già hơn Jan, họ thường ở vào lứa tuổi sáu mươi hay bảy mươi, và họ thường chết vì những nguyên nhân khác. Ở một số người, sự rối loạn về tủy sẽ biến thành bệnh hoại huyết (leukemia). Jan kể lại, "Họ nói với tôi rằng chuyện tôi mắc bệnh là chuyện quá hiếm vì tôi còn trẻ và khi mắc bệnh rồi thì ước định rằng sẽ sống thêm mười năm nữa. Nhưng họ cho tôi thấy thêm nhiều bảng thống kê khác có nhiều triển vọng hơn, như chừng hai mươi lăm phần trăm người bệnh không có vấn đề gì thêm. Tôi nghĩ rằng, 'Thế thì không đến nỗi xấu quá. Tôi có thể ở trong nhóm hai mươi lăm phần trăm này.' " Jan nói, "Vì không có thuốc hay cách giải phẫu nào giúp cho tôi, nó làm cho tôi tự làm mọi chuyện." Bà được bảo là nên đi đo mức máu thường xuyên để quyết định xem tình trạng tiến triển như thế nào.

Một vài tháng sau khi được chẩn đoán, Jan có làm những sự thay đổi trong đời bà. Bà nói, "Lối ăn uống của tôi luôn luôn lành mạnh nên tôi không cần thay đổi chế độ ăn uống mấy, nhưng tôi quyết tâm đi theo một chương trình thể dục vốn sau này trở thành một phần quan trọng của đời sống tôi. Căn bản là tôi bơi lội, giờ đây có nhiều sức lực để đi bộ. Thể dục đã đem lại cho tôi lợi ích tuyệt vời và bất ngờ cạnh những lợi ích mà bạn ước mong. Nó cho tôi có thì giờ để bắt đầu trị liệu những công việc về tâm thần, suy ngẫm về bề sâu bên trong cuộc sống của tôi?”

Jan nói rằng những sự thay đổi rõ ràng nhất là tâm lý. Bà nói, “Đầu tiên, nó cho phép tôi chăm sóc bản thân của tôi. Tôi quyết định không bao giờ phải nuối tiếc chuyện nuôi dưỡng bản thân tôi. Tôi bỏ khóa học về y tá và thay vào đó theo học bằng cao học về giáo dục dựa trên kinh nghiệm. (Kinh nghiệm của tôi là sống với sự chẩn đoán này và đi đến một quan niệm toàn vẹn của sức khỏe). Tôi luôn bảo đảm chuyện nghỉ ngơi và ngủ sao cho đủ. Và tôi bắt đầu nhìn vào sự xáo trộn trong lòng của tôi.”

“ Tôi lớn lên trong một gia đình trật đường rầy khá nặng. Mẹ tôi trở nên bị bệnh tâm thần lúc tôi được chín tuổi, và người cha ghẻ của tôi bị ghiền rượu. Tôi còn nhớ có gặp một bác sĩ ở viện y tế Mayo để xin ý kiến thứ hai (second opinion) về sự chẩn đoán về bệnh xơ hóa tủy xương sơ khởi (primary myelofibrosis). Bác sĩ hỏi tôi là tôi có bao giờ bị phơi bày ra trước những chất độc để từ đó có thể giải thích tại sao tôi bị cái bệnh bất thường này, và tôi cười, bởi vì đầu óc tôi thoáng chiếu lại tất cả những chất độc xúc cảm (emotional toxicity) của đời sống gia đình tôi. Hầu hết đều tập trung chung quanh mẹ tôi. Tôi không muốn thấy bà nữa. Dù chỉ nói hay nghĩ đến chữ 'mẹ' làm tôi nổi giận bừng bừng như giông bão. Tôi không biết chuyện chữa lành thái độ này sẽ là cái chìa khóa dẫn đến toàn thể mọi chuyện.

“Chừng năm tháng sau khi chẩn đoán, tôi dần hiểu rằng cái phương cách duy nhất làm cho mối quan hệ với mẹ tôi có thể thay đổi là tôi phải nhìn mẹ tôi dưới một cặp mắt khác. Tôi còn nhớ cái lúc mà tôi đạt được điều này. Nó giống như được tái sinh, cái khởi đầu của một con người mới hiện hữu trong tôi. Bạn sẽ không tài nào hiểu nổi đời sống sẽ như thế nào khi loại độc tố này được dời đi. Từ đó tôi sống với nội tâm thanh bình thay vì với bên trong lòng hỗn loạn, và tôi thật sự không lo lắng về tình trạng của thể xác nữa. Gia đình tôi hết sức hỗ trợ tôi; chúng tôi đều trưởng thành từ đó. Chúng tôi đều ý thức rằng sự quí giá của mỗi ngày và nhu cầu phải giải quyết từng vấn đề khi nó xuất hiện. Chúng tôi có những vấn đề của chúng tôi, và chúng tôi giải quyết chúng. "

Giờ đây Jan làm việc như một người an ủi tổn thất cho một nhà tế bần ở Mankato, Minnesota. Lượng máu của bà yên ổn một cách kỳ diệu trong suốt mười năm qua. Những chuyên viên về máu mà bà đi khám thường không có lời phê phán nào về tình trạng yên ổn của bà, nhưng mới đây có một người nói rằng "bà ở trong tình trạng rất tốt." Jan nói bà còn một vấn đề nhỏ là bà hụt hơi khi trèo lên những bậc thang, ngoài ra không có gì giới hạn bà hết. Bà nói, "Tôi nhận được sự hồi đáp lý thú từ gia đình tôi. Họ nói rằng tôi có vẻ như khác hẳn, rằng họ có cảm giác thật an bình khi họ chung quanh tôi."

Những Hình Thái Của Sự Lành Lặn: Ethan

Lần đầu tiên Ethan Nadelmann có vấn đề rắc rối với lưng của ông ta là vào mùa hè năm 1981, khi ông được hai mươi bốn tuổi. Không có nguyên nhân chính gây ra bệnh, chỉ có lưng dưới bị đau ghê gớm mà dường như không biết bắt nguồn từ đâu. Ethan lúc đó được coi là một người gọn ghẽ, khỏe mạnh và thích chơi bóng rỗ, thình lình ông trở thành người tàn tật; thật ra, ông có thể đi bộ chút ít. Tuy nhiên, mười ngày sau, cơn đau từ từ giảm đi, cuối cùng nó biến mất, xem chừng bí mật như khi nó đến.

Ethan là một nhà khoa học chính trị (political scientist), là một chuyên viên quốc tế nổi danh về chính sách ma túy. Vào năm 1981, lúc ông có kinh nghiệm đầu tiên về chuyện đau lưng sau, ông đang học để chuẩn bị cho những kỳ thi tổng quát của văn bằng tiến sĩ về công quyền của ông tại đại học Harvard, cũng như đang tính chuyện vào trường Luật Harvard vào mùa thu. Hai năm sau, khi ông đang căng thẳng nhiều vì bài vở nhà trường- ông bây giờ đang ở năm thứ hai trường Luật và năm thứ ba của trường đại học tốt nghiệp (graduate school)- Ethan bị đau lưng sau một lần nữa, theo ông nghĩ lần này là do kết quả tập tạ của ông. Giờ đây cái đau lan đến chân phải của ông và rất trầm trọng, bắt buộc Ethan phải đi tìm sự giúp đỡ Y khoa từ một bác sĩ giải phẫu chỉnh hình (orthopedic surgeon). Soi quang tuyến cho thấy có đĩa lồi ra ở xương sống vùng xương chậu bên dưới. Bác sĩ cho thuốc indomethacine (indocin), một loại thuốc chống sưng rất mạnh. Cơn đau kéo dài hàng tháng. Cuối cùng một bác sĩ chỉnh hình đề nghị Ethan đi xin thêm ý kiến thứ hai (second opinion) từ một bác sĩ giải phẫu khác và vị bác sĩ này khuyên ông, "Nếu ông không cảm thấy khá hơn trong vòng một tháng, ông sẽ phải bị giải phẫu." Ethan cảm thấy khỏe khoắn hơn trong vòng một tháng, cuối cùng bỏ luôn thuốc Indocin. Kinh nghiệm vừa rồi làm ông chấn động cả thân tâm. Ông nói, "Tôi cảm thấy thận trọng lúc chơi bóng rỗ, không cử tạ quá nặng, và nói chung tôi trở nên cẩn thận trong mọi chuyện, "

Trong vài năm kế tiếp, Ethan không gặp trở ngại gì lớn về lưng cả. Ông kể lại, " Tôi bị đau sơ sơ sau khi chơi bóng rỗ, môn đánh vợt (racquetball), và cử tạ nặng. Thường thường cơn đau kéo dài chừng vài ngày, nhiều nhất là một tuần. " ông lập gia đình năm 1986, và trở thành người cha hai năm sau. Tôi gặp ông lần đầu tiên vào trong thời gian ấy, trong lúc ông đang sống một cuộc đời trí thức năng động, căng thẳng với chức vụ giáo sư phụ tá tại đại học Princeton.

Vào tháng sáu năm 1991, khi Ethan trở về từ một chuyến du hành từ âu châu, lưng của ông hơi làm ông " khó chịu đôi chút" nhưng rồi sự đau hiển hiện từ từ và tăng lên trong suốt mùa hè. Vào cuối tháng tám, sau khi chơi một trận bóng rỗ, cơn đau "trở nên tệ hại và không biến đi". Một tuần lễ sau, vào khoảng đầu tháng chín, tình trạng của ông càng tệ hại, và ông đi tìm kiếm sự giúp đỡ từ từ những chuyên gia đấm bóp, trong đó có một nhà thực hành phái nữ theo phương pháp ấn huyệt (shiatshu). Bà nói ông sẽ cảm thấy khó chịu sau khi được bà chữa trị, và quả đúng như thế. Một vài ngày sau, ông dậy sớm, và điều này quả là bất thường đối với ông, và cảm thấy bồn chồn. Ông đi bộ một lát và sau khi về nhà không lâu, ông bắt đầu cảm thấy ớn lạnh và lên cơn sốt đến 102 độ. Sáng hôm sau cơn sốt và cơn đau lưng biến mất, nhưng thay vào đó ông bị đau ở dây thần kinh hông bên phải. Ông trở lại khám bệnh với người chuyên viên nữ thực hành môn ấn huyệt.

Vào khoảng thời gian này, ông phải điều khiển một cuộc họp quan trọng kéo dài ba ngày bao gồm những nhóm người làm việc về chính sách cải tiến về ma túy. Tình cờ tôi lại là hội viên của nhóm và cảm thấy căng thẳng khi nhìn thấy có sự đau đớn rõ rệt nơi Ethan. Vào sáng thứ hai, ông nói cho tôi nghe là ông thức dậy và cảm thấy bắp chân phải đau nhói. Cơn đau cứ tiếp tục tăng lên. Ethan nói, "Tôi thức dậy nửa đêm mà nước mắt tràn trề." Vài ngày sau ông đến khám ở một bệnh viện địa phương, nơi đây ông được chích thuốc Demetrol, và thuốc làm cho ông ngủ một đêm yên ổn.

Khoa đấm bóp bây giờ chỉ cho kết quả tạm thời, và Ethan đi tới bác sĩ chỉnh hình để chiếu quang tuyến X và rọi máy MRI. Giờ đây ngay cả chuyện đứng thẳng ông cũng không làm được. Máy rọi MRI cho thấy ông có hai bánh xương bị bể ( disc), một trong hai bánh " nát vụn ra từng mảnh". Bác sĩ chỉnh hình khuyến cáo giải phẫu ngay và cho toa thuốc ngủ và an thần (valium).

Ethan gọi cho tôi xin lời hướng dẫn, nhưng vì ông đang quá đau và đang dùng thuốc ngủ và thuốc an thần với lượng cao nên tôi thấy khó mà đối thoại với ông được. Tự thân ông, ông cho biết là ông không nhớ những mẫu đối thoại trong thời gian này. Tôi nói ông nên đi xin ý kiến thứ hai trước khi đồng ý cho giải phẫu. Tôi cũng thúc giục ông đọc cuốn sách " Healing back pain" (Làm lành đau lưng) của Bác sĩ John Sarno, một bác sĩ ở New York thường nhấn mạnh rằng đa số chuyện đau lưng là do kết quả của sự dính líu của tâm trí với chức năng bình thường của thần kinh và sự lưu chuyển của máu tới những bắp thịt, một tình trạng mà ông gọi là chứng viêm cơ do sự căng thẳng (tension myositis syndrome, hay gọi là TMS. Ethan mặc dù đang bải hoải, ngất ngưỡng vì thuốc, vẫn khẳng định rõ ràng rằng ông không muốn nghe bất cứ những gì về vấn đề của ông là chứng tâm thần thân thể (psychosomatic ).

Sau đó không lâu, Ethan gọi điện thoại cho tôi và nói rằng ông đã xin được ý kiến thứ hai và nó cũng giống như ý kiến thứ nhất: lập tức giải pháp và cắt bỏ cái đĩa xương bị hư (shattered disc) và giảm bớt áp lực trên những giây thần kinh. Một lần nữa, tôi cảm thấy thật khó khăn để nói chuyện với ông ta. Ông nói ông đau quá đến nỗi ông nghĩ đến chuyện phải giải phẫu trong vòng vài ngày tới, tôi khuyên ông nên chần chờ đã, xem coi ông có thể đạt được sự yên lành tạm thời từ châm cứu hay thôi miên, và rán có một cuộc gặp gỡ với Bác sĩ Sarno.

Tôi có nhiều lý do để giới thiệu cuốn sách của Bác sĩ Sarno. Tôi đã từng gặp nhiều bệnh nhân đã thử nhiều phương cách có thể tưởng tượng được để trị bệnh đau lưng, nhưng họ không thành công cho đến khi họ đến gặp Bác sĩ Sarno mới lành bệnh. Cách chữa trị đơn giản bao gồm chuyện đọc cuốn sách của ông, gặp mặt khám bệnh riêng với ông một lần, và tham dự những buổi diễn thuyết ban chiều của ông trong đó ông giải thích tại sao tâm trí tạo nên sự đau đớn ở lưng. Điều này có vẻ quá lý tưởng để trở thành sự thật, nhưng tôi còn nhớ một trận đau lưng mà tôi từng bị; rõ ràng là nó có liên hệ đến trạng thái xúc cảm của tôi - sự đau buồn về sự mất mát cùng một lúc hai mối quan hệ thân thiết - và nó bất thình lình biến mất sau ba tuần. Nó không bao giờ trở lại. Rồi tôi còn thấy hai trường hợp bệnh nhân nam đau lưng kinh niên hạng nặng. Bệnh bỗng biến mất như trò ảo thuật khi hai người này bước vào chuyện yêu đương. Cuối cùng tôi vừa tham dự một hội nghị khoa học gọi là Hội đau nhức bắp thịt và xương Bắc Mỹ, tại đây tôi được mời để trình bày một bài tham luận căn bản nói lên ý nghĩa của sự đau đớn. Người diễn giả nói sau tôi trình bày một bài tham luận lý thú về sự thiếu sự liên hệ giữa kinh nghiệm chủ quan của chuyện đau lưng và những phương pháp điều trị khách quan của sự hoạt động khác thường về bắp thịt và xương như quang tuyến X và máy soi MRI. Ông chiếu phim quang tuyến X và hình soi của những bệnh nhân trong thật thê thảm đến nỗi bạn không thể tin nổi những người này có thể đứng hay đi được, cho tới giờ này thì họ không còn đau và đi đứng bình thường. Trong những trường hợp khác bệnh nhân đi đau đớn không di chuyển được trong khi xương sống họ vẫn bình thường. Theo sự suy nghĩ của tôi, tất cả những chuyện nói trên đều đúng với quan điểm của Bác sĩ Sarno.

Hơn nữa, tôi còn biết một lý do gì khác còn ác liệt hơn là những căng thẳng mà ông đang chịu đựng. Thêm vào những áp lực đang có, cuộc hôn nhân của ông đang gặp nhiều khó khăn và đứa con gái đang ở lứa tuổi đòi hỏi đủ thứ. Đối với tôi ông là ứng viên lý tưởng cho bệnh viêm cơ do sự căng thẳng (TMS)

Ethan không thăm viếng một chuyên viên thôi miên nào, cũng như ông không đi châm cứu, nhưng ông có đọc sách của Bác sĩ Sarno. Ông nói ông chú ý đến nó vì một vài lý do. Ông tâm sự, “Đầu tiên, tôi ý thức được là tôi bị căng thẳng nhiều quá. Hai là, sự kiện chuyện đau đớn bất thình lình nhảy từ lưng dưới vào chân của tôi trong có vẻ kỳ dị khác thường. Thứ ba là tôi nhớ lại kinh nghiệm của tôi năm 1983, khi một bác sĩ chỉnh hình bảo tôi là tôi phải khỏe ra trong vòng một tháng hay là phải đi giải phẫu, và tôi khỏe ra trong tháng đó thật. Và Bác sĩ Sarno trình bày những chi tiết đáng quí và những điều để thảo luận rất hay. "

Giờ đây vị bác sĩ giải phẫu thúc đẩy tôi nên giải phẫu, và ông đang nắm trong tay một hình soi của máy MRI cho thấy tôi có một đĩa xương bị bể nát ra trầm trọng. Ethan bị cái đau dày vò trong khi thần trí thì vất vưởng bởi ảnh hưởng của thuốc ngủ và an thần. Nhưng ông vẫn rán chống chỏi. Ông kể, "Tôi thấy có một bác sĩ khác chích cho tôi một mũi thuốc cortisone. Nó chỉ giúp cho tôi cảm thấy an bình chút xíu. Một đôi khi tắm nước nóng có giúp tôi, nhưng phần lớn sự đau nhức khổ sở nằm ở phần chân dưới." ông đọc thấy trong sách của Bác sĩ Sarno rằng những đĩa xương lồi (hemiated disc) tự chúng không gây ra sự đau đớn. Chúng có thể làm cho bắp thịt yếu đi và những triệu chứng khác của của sự rối loạn thần kinh, nhưng không phải sự đau đớn; sự đau đớn gây ra bởi tâm trí, dù cho nó nối kết nó tới khu vực bị tổn thương. Ethan xin một cái hẹn khám bệnh với Bác sĩ Sarno và rán lê chân tới New York để khám.

Ethan kể lại, " Bác sĩ Sarno có vẻ không thích thú mấy về cái máy soi MRI, ông chỉ đồng ý chuyện đo kết quả của bắp thịt chân đo bằng máy này, và nó chỉ rõ là tôi không có sự hoạt động khác thường của thần kinh. Ông ấy khám tổng quát thân thể tôi một cách mau chóng và nói tôi là một trường hợp rõ ràng của bệnh tâm trí ảnh hưởng và tôi nên bỏ đi những thuốc chống đau (painkillers) vì tôi không cần chúng. Và ông nói với tôi là chắc chắn tôi sẽ khá hơn và sẽ chơi được bóng rỗ trở lại. Tất cả những gì tôi cần phải làm là chấp nhận sự chẩn đoán của ông. Buổi diễn thuyết buổi chiều lại đúng vào chiều hôm đó nên tôi tham dự. Có chừng bốn mươi người tham dự hôm ấy, đa số là giới trung và thượng lưu. Tôi nghe nhiều câu chuyện của những người đến dự hôm ấy. Có ông kể chuyện lưng đau của ông suýt nữa thì bị nguy. Dù sao tôi ngồi đấy mà nghe tất cả những câu chuyện mà thấy cơn đau lưng của mình giảm hẳn. Sau cùng tôi đi ăn tối ở nhà người bạn. Cơn đau dường như không còn nữa.

“Sarno khuyên tôi rằng tôi không nên làm bất cứ cái gì với khoa chỉnh hình thân thể nữa (physical therapy). Ông nghĩ tất cả bất cứ những gì can thiệp trực tiếp đến cái lưng thì chỉ làm tăng thêm cái ý tưởng sai lầm rằng sự đau đớn phát xuất từ đấy. Thay vào đó ông muốn bạn tìm ra loại đau tâm lý gì ảnh hưởng đến thân thể. Vâng, tôi không thể hoàn toàn bỏ qua sự điều chỉnh về thể chất, nên sáng hôm sau tôi hẹn đi khám một bác sĩ thao tác trị liệu (osteopath). Ông nói với tôi là Sarno có phần nào đúng nhưng tôi vẫn cần phải điều trị về thể chất. Cơn đau có trở lại một chút ngày hôm ấy. Đêm ấy tôi mơ thấy chuyện Sarno cãi cọ với viên bác sĩ thao tác trị liệu về vấn đề thể chất trị liệu (physical therapy). Lúc tôi tỉnh dậy thì cơn đau có bớt đi, và tôi quyết định không đi trị liệu thể chất nữa. Tôi dùng vài loại thuốc nhẹ để giảm đi ảnh hưởng của thuốc ngủ khi tôi bỏ thuốc chống đau."

Ethan nói cơn đau chuyển sang một chiều hướng mới, "Nó thường thức tôi dậy sớm vào buổi sáng, rồi giảm dần và trở nên mờ nhạt trong ngày. Trong vòng sáu tuần sau đó nó hoàn toàn biến mất." Lúc đó ông mới tính toán kỹ càng về chuyện hôn nhân và nghĩ đến chuyện có thể chấm dứt cuộc hôn phối, ông đề ra một thời gian giới hạn để cố gắng cứu vãn nó lần cuối.

Một tháng sau Ethan trở lại tập thể dục cùng cử tạ và chơi bóng rỗ mà không lo lắng ưu tư gì cả. Một tháng sau nữa, ông có “một sự đột phá cá nhân" làm ông cảm thấy hăng hái phấn khởi và thân thể cũng gọn gàng hơn. Một năm sau, ông và vợ ông chia tay, và ông cảm thấy vừa ý đã đi đến sự giải quyết chuyện gia đình xong xuôi. Ông kể, "Nó là một sự đau đớn và kinh nghiệm lành lặn đã là nguồn động lực giúp tôi giải quyết nó."

Anh của Ethan là một bác sĩ, không đồng ý với cách giải thích của Ethan về những biến cố xảy ra. Ethan kể, "ông ấy nói với tôi chuyện lành lặn tốt đẹp là do thuốc chích cortisone gây ra. Nhưng tôi đọc sách và biết rằng hiệu quả của thuốc chích kéo dài từ ba tháng đến sáu tháng là tối đa, thế mà tôi không còn đau gần ba năm rồi, ngoại trừ thỉnh thoảng bắp thịt hơi ê ẩm do chuyện tôi tập thể dục. Có lần, tôi có một thời gian bị đau một bên hông, làm tôi cứ lo lắng và nghi nhiều về chuyện mình bị bệnh chảy máu bao tử. Và rồi tôi quyết định để cho tâm trí tôi tìm coi một nguyên nhân thể chất tập trung nào cho tới bây giờ gây nên chuyện đau ấy, và khi mà tôi làm như vậy thì cơn đau lại mất đi. Tôi đã từng gặp nhiều người có những thành công tương tự với phương pháp của Bác sĩ Sarno, những người này thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội. Bác sĩ Sarno là tổng hợp của một khoa học gia và của một người chữa trị bằng đức tin. Những sự bàn cãi có tính chất trí thức của ông cho tôi thấy có ý nghĩa; chúng có khuynh hướng hướng về sự thật. Tôi cũng có ít niềm tin vào giải pháp giải phẫu, vì đã thấy nhiều người giải phẫu lưng xong thì bệnh tật quay trở lại sau khi giải phẫu vài năm trước.

Tôi hỏi Ethan là ông sẽ nói gì với những người khổ sở vì bệnh đau lưng. Câu trả lời của ông là, "Hãy đọc cuốn sách của Bác sĩ Sarno và nó sẽ là sự thật cho bạn thấy. Người ta thường gặp khó khăn khi chấp nhận một lý thuyết cho đến khi họ quá mỏi mệt vì đã thử những cách chữa bệnh khác, hay là như tôi, đang đối diện với sự đau đớn thường trực."

Những Hình Thái Của Sự Lành Lặn: Eva

“Mười lăm năm đã qua rồi,“ Eva Forrester nhớ lại một cách tự hào. "Mười lăm năm. Hãy nhìn tôi đây ? Nếu tôi làm được thì bạn cũng làm được.” Eva làm việc như một thư ký tại một tiệm bán thực phẩm dành cho sức khỏe tại Tucson, Arizona, và điều trên là điều mà bà nói với đa số những khách hàng đến gặp bà để xin lời chỉ dẫn. Eva bị bệnh ung thư vú mười bốn năm trước đây. Ngày hôm nay bà là người đàn bà lành lặn và cố gắng tạo niềm hứng khởi cho những người khác vượt qua những chứng bệnh hiểm nghèo.

Vào năm 1979, vào lứa tuổi năm mươi, Eva Forrester tìm thấy một cục u trong ngực trái của bà. Đi chiếu quang tuyến X thì thấy không có gì phải báo động, và vị bác sĩ đầu tiên bà đến gặp nói bướu u của bà thuộc loại hiền. Khi một bác sĩ khác tìm cách dùng một cây kim để cạy cái bướu ra nhưng không thành công, một mảnh bướu u được cắt ra để làm thí nghiệm (biopsy). Eva kể lại, “Trước khi người y tá nói bất cứ điều gì về kết quả, tôi biết đó là ung thư. Họ muốn tôi cắt bỏ ngực (mastectomy). Tôi từ chối. Tôi hoang mang lo sợ. Tôi nói với họ là tôi muốn chờ đợi, dù tôi không biết tôi sẽ chờ đợi gì. Tôi mến ông bác sĩ giải phẩu chỉnh hình của tôi, ông nói, 'Chúng ta sẽ phải làm một cái gì đó'. Tôi quyết định bàn thảo thêm với gia đình tôi ở Mễ tây cơ."

Eva là một người Mỹ gốc Mễ, sinh ra tại Chihuahua, là con của một người mẹ Mễ và người cha Lebanon. Cô kể tiếp, " Cha tôi là một nha sĩ và cháu tôi là một bác sĩ, cho nên tôi sinh ra từ một gia đình có liên quan nhiều đến Y khoa. Tôi có một gia đình đông; và tôi cảm thấy được ban phước nhiều khi được như thế. Lúc tôi nói cho họ nghe về tin tức bệnh trạng của tôi, họ đều hoảng sợ. Nhưng tôi là một người Thiên chúa giáo - tôi tin tưởng vào Thượng đế, và tôi cũng có nghiên cứu tất cả những tôn giáo khác. Tôi tin rằng những chuyện gì dự tính sẽ xảy ra thì nó sẽ xảy ra. Cho nên cuối cùng tôi đồng ý giải phẫu." Vào năm 1980, Eva đi giải phẫu cắt vú. Cục u của bà lớn, và nó đã lan qua những tuyến bạch huyết gần đó, đặt bà trong một tình trạng nguy hiểm. Bà được gửi đến một chuyên gia trị ung thư (oncologist) tại một trung tâm Y khoa ở một trường đại học, và vị bác sĩ này muốn bắt đầu phương pháp chữa trị bằng hóa học cho bà (chemotherapy).

“Tôi không thể làm chuyện đó được,“ Eva nói "Trong tôi lên tiếng nói, 'Không !' Thật đáng buồn khi họ đối xử với tôi như vậy. Đầu tiên họ gửi một nữ bác sĩ đến thuyết phục tôi. Sau đó họ nói, “Bà sẽ không còn thì giờ để trở lại đây nữa và khi đó chúng tôi sẽ cho bà liều thuốc mạnh hơn." Tôi vẫn nói không. Bác sĩ riêng của tôi cuối cùng đồng ý tôn trọng lời yêu cầu của tôi. Như vậy là không có chuyện điều trị bằng hóa học hay quang tuyến.

Thay vào đó, Eva theo học một khóa lành lặn tự nhiên dưới sự hướng dẫn của một chuyên gia vừa là bác sĩ chỉnh xương vừa là chuyên gia về liệu pháp thiên nhiên (naturopath). Evan kể tiếp, "Tôi dùng tất cả những dược thảo vốn có công dụng chống ung thư, nhưng tôi biết rằng những gì tôi thực sự cần làm là thay đổi toàn bộ con người của tôi, và tôi nghĩ rằng tôi vẫn đang làm chuyện đó. Tôi thay đổi cách suy nghĩ, rán nhìn những điều tốt đẹp hơn, đến gần với chúa Giê Su hơn, gần gũi với cuộc sống hơn theo cách sống của người da đỏ (bạn biết không, tôi có máu của bộ lạc Aztec đó!). Tôi phấn đấu để biến tất cả những điều trên thành một kinh nghiệm tích cực, và từ đó có nhiều kết quả tốt đẹp. Chẳng hạn như tôi có thể có mối liên hệ tốt với người khá hơn trước đây."

Bảy năm sau cuộc giải phẫu, Eva đâm đơn ly dị. Cuộc hôn nhân của bà đã có vấn đề kể từ khi bà khám phá ra cục u trong ngực, và nó không tồn tại sau khi bà giải phẫu cắt vú. Bà nói, “Chồng tôi chỉ nhìn tôi như một cái gì đó không như một người toàn vẹn. Nhiều người đàn ông cũng không thoát ra ngoài suy nghĩ ấy. Nhưng tôi cũng trưởng thành từ kinh nghiệm ấy. Tôi cám ơn nguồn tâm linh tuyệt vời cho cuộc hành trình của tôi chứ không cay đắng vì nó. Tôi rất gần gũi với ba con của tôi, chúng bây giờ ở vào lứa tuổi bốn mươi rồi, và tôi cũng gần gũi với gia đình chú bác, cô dì của tôi."

Tôi hỏi Eva rằng bà có trở lại khám bác sĩ để thử nghiệm không. Bà trả lời, "Tôi có làm vài cuộc thử nghiệm, nhưng tôi không làm hết mọi chuyện. Tôi không thích chiếu quang tuyến X, nên tôi rán tránh nó. Một vài cuộc thử nghiệm máu ban đầu làm tôi sợ quá, nhưng tôi rán chịu khó theo những phương pháp thuần túy theo phương pháp tự nhiên. Giờ đây thì mọi chuyện coi như ổn thỏa cả rồi.

Bà kể tiếp, "Tuy thế tôi cũng có những ngày khó khăn - bạn biết như thế nào rồi chứ. Nhưng rồi tôi đến tiệm và nguồn tâm linh tuyệt vời gửi một người đến tôi và nói, 'Eva, những gì bạn cho tôi là sự làm việc,' và nó xứng đáng như thế. Có rất nhiều những người đàn bà trẻ đến tiệm của tôi có chung một điều giống nhau. Họ đều sợ hãi. Tôi biết nhiều người đã chết - nhiều lắm. Đó là chuyện riêng của tôi. Tôi đều quen biết với từng người một."

Một thực tế trong cuộc đời ở Mỹ vào thập niên chín mươi là những thư ký của những tiệm bán thực phẩm dành cho sức khỏe (health food) đã thay thế những dược sĩ như là những người ban phát lời chỉ dẫn thực hành tới cho những người đau yếu, đặc biệt là những người gặp những vấn đề khó khăn hay những bệnh đau không đáp ứng với phương cách chữa trị thông thường (conventional treatment). Sự thay đổi là một bằng chứng của sự vô cảm kéo dài với thuốc men. Tôi thường nhìn thấy Eva Fonester đóng vai trò này sau cái quày của trung tâm sức khỏe của đời sống mới. Bà ta đứng trước những quày thuốc vitamin cùng những thuốc phụ thuộc và tiếp những bệnh nhân với một cung cách cởi mở, không phê phán, và cởi mở. Bà giải thích một cách kiên nhẫn về những căn bản của chuyện lành lặn tự nhiên, giúp cho thân thể sống bằng nguồn tiềm lực của chính mình. Và bà thường xuyên ghé sát vào bệnh nhân và nói, "Hãy nhìn tôi đây! Mười lăm năm rồi! Nếu tôi có thể làm được chuyện đó, thì bạn cũng có thể làm được."

Eva giải thích, "Tôi xuất thân từ một nền văn hóa vốn quý trọng những người chữa lành lặn (healers). Mỗi một người trong nền văn hóa này biết cách đi tìm những người đàn ông và những người đàn bà có kiến thức chữa bệnh. Đó là con đường mà tôi đang đi. Tôi muốn trở thành một người chữa bệnh lành lặn."