Đấu Trường Sinh Tử

Chương 23

Mọi bộ phận của cơ thể tôi như muốn vồ lấy món thịt hầm, vốc từng vốc mà ngấu nghiến. Nhưng tiếng Peeta ngăn tôi lại. “Tốt hơn mình nên ăn món thịt hầm từ từ thôi. Nhớ đêm đầu tiên trên tàu chứ? Ngốn đẫy thức ăn làm tớ quay cuồng, đến nỗi thậm chí sau đó không còn thấy thèm ăn nữa.”

“Cậu nói đúng. Và khi đó tớ chỉ còn biết hít hà những món còn lại!” Tôi tiếc rẻ lần đó. Nhưng bây giờ thì không. Chúng tôi biết phải làm gì. Mỗi người có một ổ bánh, nửa trái táo, một phần thịt hầm to bằng quả trứng cùng ít gạo.

Tôi nhấm nháp từng thìa thịt hầm nhỏ - họ cho chúng tôi cả thìa bạc và đĩa. Khi tất cả đã xong, tôi vẫn còn thèm thuồng nhìn vào đĩa. “Tớ muốn ăn nữa.”

“Tớ cũng thế. Hay là thế này. Chúng ta đợi một tiếng nữa. Nếu êm bụng chúng ta sẽ ăn thêm,” Peeta nói.

“Đồng ý,” tôi nói. “Trước mắt sẽ là một tiếng thật dài.”

“Không dài như cậu nghĩ đâu,” Peeta nói. “Trước khi đồ ăn đến cậu đã nói gì nhỉ? Một điều gì đó về tớ... không theo đuổi... điều tuyệt vời nhất từng xảy đến với cậu...”

“Tớ nhớ là đâu có cái ý cuối,” tôi nói, hy vọng là xung quanh đủ mờ để máy quay không ghi được hai má tôi đang ửng đỏ.

“Ồ, đúng rồi. Do tớ nghĩ lung tung,” cậu nói. “Chui vào thôi, tớ chết cóng rồi.”

Tôi chừa chỗ cho Peeta chui vào túi ngủ. Chúng tôi ngồi tựa vào vách hang, đầu tôi gục vào vai cậu, hai tay cậu ôm lấy tôi. Tôi có cảm giác như Haymitch đang thúc vào hông tôi, thúc giục. “Vậy là, từ lúc chúng ta năm tuổi, cậu chưa từng để ý đến người con gái nào khác?” tôi hỏi cậu ấy.

“Không, cô gái nào tớ cũng để ý, nhưng chưa có ai để lại ấn tượng sâu sắc như cậu,” cậu nói.

“Tớ dám chắc bố mẹ cậu sẽ giận run lên khi biết cậu thích một cô gái khu Vỉa than,” tôi nói.

“Chắc thế. Nhưng tớ không quan tâm lắm. Dù sao, nếu chúng ta sống sót trở về, cậu sẽ không còn là cô gái khu Vỉa than nữa, cậu sẽ là cô gái của Làng Chiến thắng,” cậu nói.

Điều đó đúng. Nếu thắng, mỗi chúng tôi sẽ được nhận một ngôi nhà trong khu dành cho những người chiến thắng của Đấu trường Sinh tử. Nhiều năm trước, khi Đấu trường mới bắt đầu, Capitol đã cho xây hàng tá ngôi nhà khang trang ở mỗi quận. Tất nhiên là ở quận chúng tôi, chỉ có một ngôi nhà có người ở. Hầu hết những căn còn lại chưa từng có ai đặt chân đến.

Bất chợt tôi nghĩ đến một điều phiền toái. “Nhưng nếu thế, chúng ta chỉ có Haymitch là hàng xóm!”

“À, chuyện đó sẽ ổn thôi,” Peeta nói, quàng chặt tay qua người tôi. “Cậu và tớ và Haymitch. Rất ấm cúng. Đi dã ngoại này, tiệc tùng sinh nhật này, rồi những đêm đông dài ngồi quanh đống lửa kể lại những giai thoại cũ về Đấu trường này.”

“Tớ nói rồi, ông ấy ghét tớ!” tôi nói, nhưng không thể không bật cười trước hình ảnh Haymitch trở thành người bạn mới.

“Chỉ thỉnh thoảng thôi. Tớ chưa bao giờ nghe ông ấy phàn nàn điều gì về cậu trong lúc tỉnh rượu,” Peeta nói.

“Ông ấy chưa bao giờ tỉnh rượu!” tôi phản đối.

“Điều đó đúng. Tớ đang định nói về ai nhỉ? Ồ, nhớ rồi. Cinna thì thích cậu hơn. Nhưng chủ yếu vì thấy cậu không phản đối khi anh ấy muốn đốt lửa trên người cậu,” Peeta nói. “Ngược lại, Haymitch thì... ừ, nếu tớ là cậu, gặp Haymitch là tớ trốn biệt. Ông ấy ghét cậu.”

“Tớ tưởng cậu vừa bảo tớ là mẫu người ông ấy thích,” tôi nói.

“Ông ấy còn ghét tớ hơn,” Peeta nói. “Tớ không nghĩ nhân loại nói chung là mẫu người ông ấy thích.”

Tôi biết rằng khán giả sẽ thích thú với màn đùa cợt của bọn tôi nhằm hạ thanh thế Haymitch. Người ta biết tiếng ông từ lâu, thực tế với một số người ông chẳng khác gì một người bạn chí cốt. Và sau cú ngã chỏng gọng khỏi sân khấu trong lễ chiêu quân, ai cũng biết đến ông. Người ta đã phải kéo ông khỏi khu vực kiểm soát để màn phỏng vấn chúng tôi diễn ra suôn sẻ. Ông bất lợi hơn người khác vì trong khi hầu hết người hướng dẫn đều có đồng nghiệp đi cùng, những người cũng từng chiến thắng ở quận đó để san sẻ công việc, thì Haymitch phải sẵn sàng vào việc bất cứ lúc nào. Cũng giống như tôi, từng đơn độc trong Đấu trường. Không biết với những cơn say bí tỉ ông làm thế nào giữ được sự tập trung và chịu được sức ép là phải giúp chúng tôi sống sót.

Thật khôi hài. Haymitch và tôi đúng là không hợp nhau lắm, nhưng hẳn Peeta có lý khi nói chúng tôi khá giống nhau, bởi hình như ông có thể truyền đạt suy nghĩ cho tôi qua những lần gửi quà. Chẳng hạn cái lần tôi biết chắc rằng mình đang ở rất gần nguồn nước khi ông không chịu gửi nước đến, hay lần khác, khi tôi biết chắc xi rô ngủ không đơn giản là thứ giúp Peeta giảm đau, hoặc khi tôi biết mình phải tiếp tục với trò tình cảm như lúc này. Ông thực sự không bận tâm lắm đến việc liên lạc với Peeta. Có lẽ ông nghĩ rằng với Peeta một tô nước xúp chỉ là một tô nước xúp, trong khi tôi sẽ nhìn thấy mối liên hệ gắn với nó.

Một ý nghĩ nảy ra trong đầu, và tôi lấy làm lạ là đến bây giờ mình mới thắc mắc. Có thể vì tôi chỉ mới tò mò về Haymitch gần đây. “Cậu nghĩ ông ấy làm bằng cách nào?”

“Ai? Làm gì cơ?” Peeta hỏi.

“Haymitch. Cậu nghĩ làm thế nào ông ấy chiến thắng trong Đấu trường?” tôi nói.

Peeta nghĩ ngợi một lúc lâu trước khi trả lời. Haymitch khá săn chắc, nhưng không vạm vỡ như Cato hay Thresh. Ông cũng không đặc biệt ưa nhìn. Không phải theo cách có thể dễ dàng nhận được quà tài trợ. Haymitch cũng quá cục súc, đến nỗi thật khó tưởng tượng có người nào muốn lập đội với ông. Chỉ có một lý do giúp ông chiến thắng, và tôi nghĩ đến điều ấy cùng lúc Peeta nói ra.

“Ông ấy thông minh hơn đối thủ,” Peeta nói.

Tôi gật đầu, cả hai cùng im lặng. Tuy vậy, trong thâm tâm tôi lại tự hỏi, liệu có phải vì ông cho rằng Peeta và tôi có khả năng sống sót nên đã luôn giữ mình tỉnh táo để giúp chúng tôi. Có thể không phải lúc nào ông cũng say. Có thể ban đầu ông cũng đã cố gắng giúp những đấu thủ. Nhưng rồi việc ấy trở nên quá sức chịu đựng. Làm người hướng dẫn cho hai đứa trẻ rồi nhìn chúng chết thì khác nào địa ngục. Năm này qua năm khác. Tôi nhận ra nếu mình ra khỏi được chỗ này, tôi cũng sẽ làm công việc đó. Hướng dẫn một cô bé từ Quận 12. Tôi cố đẩy cái ý nghĩ kinh khủng ấy ra khỏi đầu.

Nửa giờ sau, tôi quyết định ăn tiếp. Bản thân Peeta cũng quá đói nên chẳng buồn tranh cãi. Trong khi tôi lấy ra đĩa hai phần nhỏ thịt cừu hầm và gạo, tiếng quốc ca cất lên. Peeta dán mắt vào khe hở trên hốc đá để nhìn bầu trời.

“Tối nay chắc không có gì,” tôi nói, để tâm vào món thịt hơn là chuyện diễn ra trên bầu trời. “Nếu không thì chúng ta đã nghe thấy tiếng pháo.”

“Katniss này,” Peeta thì thầm.

“Gì cơ? Chúng ta có nên chia nửa ổ bánh mì nữa không nhỉ?” tôi hỏi.

“Katniss,” cậu lặp lại, nhưng tôi chỉ muốn phớt lờ.

“Tớ sẽ cắt một ổ. Nhưng tớ để dành pho mát cho ngày mai,” tôi nói. Peeta đang nhìn tôi chằm chằm. “Gì cơ?”

“Thresh chết rồi,” Peeta nói.

“Cậu ấy không thể chết được,” tôi nói.

“Hẳn đã có tiếng pháo trong cơn bão và chúng ta không để ý,” Peeta nói.

“Cậu chắc chứ? Ngoài kia đang mưa như trút nước cơ mà. Sao cậu có thể nhìn thấy được,” tôi nói. Tôi đẩy cậu khỏi hốc đá và ghé mắt nhìn bầu trời đang tối tăm mưa gió. Sau khoảng mười giây, tôi nhận ra hình ảnh mập mờ của Thresh. Thresh đã chết. Chỉ có thế.

Tôi ngồi sụp xuống, dựa vào vách đá, tạm thời quên đi việc trước mắt. Thresh đã chết. Tôi nên vui mới phải chứ? Bớt đi một đối thủ. Và là kẻ mạnh nữa. Nhưng tôi không thấy vui. Tôi chỉ nghĩ đến việc Thresh đã thả tôi, để tôi chạy trốn chỉ vì Rue, vì một cô bé bỏ mạng với mũi giáo trên người.

“Cậu ổn chứ?” Peeta hỏi.

Tôi miễn cưỡng nhún vai, hai cánh tay ôm sát vào người. Tôi buộc phải chôn chặt nỗi đau, bởi rồi ai sẽ dám đánh cược vào một đấu thủ đang thương cảm cho cái chết của kẻ thù? Rue là chuyện khác. Chúng tôi là đồng đội. Nó lại còn quá nhỏ. Nhưng sẽ không ai hiểu vì sao tôi buồn trước việc Thresh bị sát hại. Nghĩ đến đó tim tôi khẽ nhói lên. Sát hại! May mắn là tôi không nói to cái từ đó. Điều đó sẽ chỉ làm tôi mất điểm. Và tôi nói với Peeta, “Chỉ là... nếu chúng ta không thắng... tớ muốn người thắng là Thresh. Bởi vì hắn đã thả tớ đi. Và vì Rue.”

“Ừ, tớ biết,” Peeta nói. “Nhưng điều này cũng rút ngắn con đường trở về Quận 12 của chúng ta.” Cậu dúi đĩa thức ăn vào tay tôi. “Ăn đi. Vẫn còn nóng đấy.”

Cố cắn một miếng thịt hầm để chứng tỏ mình không quan tâm đến chuyện vừa rồi, nhưng tôi nhai như thể đang nhằn một miếng băng keo phải cố lắm mới nuốt trôi được. “Nó cũng có nghĩa là Cato sẽ quay trở lại săn tìm chúng ta.”

“Và Cato đã lấy lại thứ hắn cần,” Peeta nói.

“Tớ cá là hắn phải bị thương,” tôi nói.

“Sao cậu lại nghĩ thế?” Peeta hỏi.

“Bởi Thresh sẽ không ngã xuống mà chưa đánh nhau. Hắn mạnh lắm mà, ý tớ là khi hắn còn sống ấy. Và đó còn là lãnh địa của hắn nữa,” tôi nói.

“Tốt thôi,” Peeta nói. “Cato bị thương càng nặng càng tốt. Không biết con Mặt cáo sẽ làm gì.”

“Ôi, kệ nó đi,” tôi cáu kỉnh. Tôi vẫn còn cáu tiết việc nó đã nghĩ ra mẹo núp ở Cornucopia, trong khi tôi lại chẳng nghĩ ra. “Có lẽ chúng ta dễ đụng Cato hơn nó.”

“Biết đâu chúng sẽ đụng độ nhau và chúng ta chỉ việc về nhà,” Peeta nói. “Nhưng tốt nhất mình nên canh gác cẩn thận hơn. Tớ đã ngủ gật mấy lần.”

“Tớ cũng vậy,” tôi thừa nhận. “Nhưng đêm nay thì không đâu.”

Chúng tôi lặng lẽ chén hết bữa ăn và Peeta nhận canh gác trước. Tôi rúc vào trong túi ngủ, nằm cạnh cậu ấy, kéo chiếc mũ trùm đầu qua mặt để tránh máy quay. Tôi chỉ cần một chút riêng tư, để có thể thoải mái biểu lộ nét mặt mà không bị phát hiện. Dưới lớp mũ, tôi khẽ nói lời từ biệt và cảm ơn với Thresh. Tôi hứa sẽ không quên anh và nếu thắng, tôi sẽ làm điều gì đó để giúp gia đình anh và Rue. Rồi tôi chìm vào giấc ngủ, khoan khoái với cái bụng no và hơi ấm của Peeta bên cạnh.

Khi Peeta đánh thức tôi dậy, tôi ngửi thấy mùi pho mát dê đầu tiên. Trên tay cậu là nửa ổ bánh được phết thứ pho mát màu trắng, trên là mấy lát táo. “Đừng nổi sùng chứ,” cậu nói. “Tớ phải ăn thêm. Nửa của cậu đây.”

“Ồ, tuyệt,” tôi nói, cắn ngay một miếng to. Pho mát béo ngậy như thứ Prim làm ở nhà. Táo ngọt và giòn. “Ừm.”

“Tiệm bánh nhà tớ cũng làm pho mát dê và bánh nhân táo,” cậu nói.

“Hẳn là đắt lắm,” tôi nói.

“Đắt chứ. Nhà tớ làm gì có tiền mà ăn. Trừ khi nó bị mốc. Tất nhiên, thực tế thì nhà tớ toàn ăn đồ mốc,” Peeta nói, kéo chiếc túi ngủ lên người. Chưa đầy một phút sau cậu đã ngáy khò khò. Hừm. Tôi luôn cho rằng những ông chủ cửa hàng đều có một cuộc sống êm ả. Và điều đó đúng, Peeta bao giờ cũng có đủ ăn. Nhưng cuộc sống với những ổ bánh mì mốc, khô khốc không ai thèm thì quả là thảm. Còn ở nhà, bởi vì mỗi ngày tôi đều đem thức ăn về nên hầu hết mọi thứ đều tươi sống, chúng tôi chẳng bao giờ phải lo chuyện đồ ăn ôi thiu.

Trong phiên gác của tôi, trời đã tạnh mưa, không phải theo cách ngớt dần vốn có mà tạnh gần như ngay lập tức. Nước đã thôi chảy thành dòng, chỉ còn một ít đọng trên những cành cây rơi nhỏ giọt, thay vào đó là dòng suối đang chảy cuồn cuộn phía dưới. Mặt trăng tròn vành vạnh tuyệt đẹp xuất hiện, và không cần kính tôi vẫn có thể nhìn thấy bên ngoài. Tôi không rõ đó là mặt trăng thật hay thứ gì đó được Ban Tổ chức chiếu lên. Chỉ biết gần trước ngày tôi xa nhà, trăng cũng tròn như thế. Gale và tôi ngắm nó nhô lên trong một lần mải đi săn đến đêm.

Tôi đã xa nhà bao lâu rồi nhỉ? Hình như tôi đã ở Đấu trường trong khoảng hai tuần, và còn một tuần chuẩn bị ở Capitol. Có lẽ đã hết một kỳ trăng. Bỗng nhiên tôi lại muốn nó là của mình, cái mặt trăng mà tôi đã thấy từ trong cánh rừng của Quận 12. Tôi muốn có nó để bám lấy cái thế giới siêu thực của đấu trường này, nơi không có gì là chắc chắn có thực.

Còn lại bốn chúng tôi.

Lần đầu tiên tôi nghĩ nghiêm túc về khả năng trở về nhà của mình. Có tiếng thơm. Có của cải. Có một ngôi nhà riêng ở Làng Chiến thắng. Mẹ và Prim sẽ sống với tôi ở đó. Không còn nỗi sợ bị đói. Cũng là một thứ tự do. Nhưng sau đó… rồi thì sao? Cuộc sống hàng ngày của tôi sẽ ra sao? Hầu hết tháng ngày trước đây của tôi là nỗi lo cơm áo. Tách khỏi những điều đó, tôi không chắc mình là ai, con người của tôi là gì. Ý nghĩ đó khiến tôi sợ hãi. Tôi nghĩ về Haymitch cùng tất cả số tiền ông có. Cuộc sống của ông đã trở nên như thế nào? Ông sống một mình, không vợ không con, hầu như lúc nào cũng ngật ngưỡng trong cơn say túy lúy. Tôi không muốn cuộc đời mình trở thành như thế.

“Nhưng mày sẽ không cô độc,” tôi khẽ nhủ. Tôi có mẹ và Prim. Phải, ít nhất là bây giờ. Còn sau đó... Tôi không muốn nghĩ về lúc đó, khi Prim lớn lên, khi mẹ tôi mất. Tôi biết mình sẽ không bao giờ lấy chồng, không bao giờ dám sinh một đứa con rồi thả nó vào cái thế giới này. Bởi vì có một thứ mà người chiến thắng không thể chắc chắn: sự an toàn của lũ trẻ. Tên con tôi cũng sẽ nằm trong chiếc lồng cầu chiêu quân như bao đứa khác. Và tôi thề là tôi sẽ không bao giờ để chuyện đó xảy ra.

Mặt trời cuối cùng cũng ló dạng, ánh nắng len lỏi qua những khe hở và rọi sáng khuôn mặt Peeta. Cậu sẽ biến thành một người như thế nào nếu chúng tôi được trở về nhà? Chàng trai tốt bụng nhưng khó hiểu này đã thuyết phục toàn dân Panem rằng cậu đang yêu tôi trong vô vọng, và sẽ phải thừa nhận rằng, cũng có những lúc tôi tin vào điều đó? Ít nhất, chúng tôi cũng vẫn là bạn, tôi nghĩ. Một sự thực không thay đổi là chúng tôi đã cứu mạng sống của nhau tại nơi này. Và trên hết, cậu ấy sẽ luôn là cậu bé đã đưa tôi ổ bánh mì. Những người bạn tốt của nhau. Mặc dù vậy, ngoài những điều kể trên... rồi tôi cảm thấy đôi mắt xám của Gale đang nhìn tôi, nhìn Peeta, mọi lúc mọi nơi.

Nỗi bồn chồn làm tôi không thể ngồi yên. Tôi chồm sang lay vai Peeta. Cậu mơ màng mở mắt, và trong khi nhìn tôi chăm chăm, cậu kéo tôi xuống và trao một nụ hôn dài.

“Chúng ta đang phí thời gian đi săn,” cuối cùng tôi là người lên tiếng.

“Tớ không nghĩ đó là lãng phí,” cậu nói, sau đó ngồi dậy và vươn vai thật dài. “Vậy chúng ta đi săn trong khi chưa ăn gì sao?”

“Không,” tôi nói. “Chúng ta ăn trước để lấy sức.”

“Phải thế chứ,” Peeta nói. Nhưng có thể thấy cậu ngạc nhiên thế nào khi tôi chia nửa phần thịt hầm và gạo còn lại và đưa cho cậu một đĩa đầy. “Ăn hết ư?”

“Hôm nay chúng ta sẽ kiếm bù lại,” tôi nói, và cả hai cùng ăn ngấu nghiến. Dù đồ ăn nguội tanh nguội ngắt, đây là một trong những bữa ngon nhất mà tôi từng có. Tôi bỏ nĩa và lấy tay vét tới chỗ nước xốt cuối cùng. “Bà Effie Trinket chắc sởn gai ốc vì tớ mất.”

“Bà Effie ơi, hãy nhìn này!” Peeta nói. Cậu ném chiếc nĩa ra sau lưng và liếm chiếc đĩa sạch bóng, kéo theo những tiếng chóp chép thỏa mãn. Rồi cậu làm động tác hôn gió và kêu rõ to, “Chúng cháu nhớ bà, Effie!”

Tôi bịt miệng cậu lại nhưng cũng không nhịn được cười. “Suỵt! Cato có thể ở ngay ngoài hang đấy.”

Peeta gỡ tay tôi. “Việc gì phải quan tâm chứ? Lúc này có cậu bảo vệ tớ rồi,” Peeta nói, kéo tôi lại bên mình.

“Thôi nào,” tôi cáu tiết, vùng người khỏi vòng tay cậu, nhưng cậu cũng kịp hôn tôi thêm lần nữa.

Chuẩn bị xong xuôi mọi thứ và đứng trước cửa hang, bỗng tâm trạng cả hai trở nên nặng nề. Có cảm giác như những ngày qua, những ngày náu mình trong hang đá tránh mưa, tránh sự truy sát của Cato với Thresh đã đem lại cho chúng tôi một dịp giải lao, hay đại loại như một kỳ nghỉ vậy. Lúc này, mặc dù ngày nắng và ấm áp, cả hai đều có cảm giác mình vừa thực sự trở lại Đấu trường. Tôi đưa Peeta con dao của mình bởi cậu đã mất hết vũ khí từ đời nào, và cậu gài nó vào thắt lưng. Sau khi mất ba mũi tên trong vụ nổ, hai mũi ở bữa phá cỗ, mười hai mũi tên của tôi giờ chỉ còn lại bảy, lúc lắc trong cái bao tên đã lỏng. Tôi không thể để mất thêm mũi tên nào nữa.

“Từ lúc này hắn sẽ săn tìm chúng ta,” Peeta nói. “Cato không bao giờ đợi con mồi đi qua trước mũi.”

“Giả sử hắn bị thương thì...” tôi gợi ý.

“Cũng vậy thôi,” Peeta ngắt lời. “Hắn còn đi được nghĩa là hắn sẽ tới.”

Sau cơn mưa, dòng suối lấn vào hai bên bờ khoảng một mét. Chúng tôi ngừng chân để tiếp nước. Tôi kiểm tra mấy chiếc bẫy đặt cách đây vài ngày nhưng không có gì. Cũng chẳng đáng ngạc nhiên trong điều kiện thời tiết mưa gió như thế. Với lại, tôi chưa từng thấy con thú nào hay dấu hiệu nào của chúng quanh khu vực này.

“Để kiếm thức ăn, tốt hơn chúng ta nên quay lại nơi tớ đi săn mấy hôm trước,” tôi nói.

“Tùy cậu thôi. Chỉ cần cho tớ biết là phải làm gì,” Peeta nói.

“Để ý xung quanh,” tôi nói. “Cố mọi cách bước trên mấy hòn đá, đừng để dấu vết lại cho hắn. Và lắng tai nghe giùm tớ.” Tới lúc này thì có thể nói, vụ nổ đã làm điếc hẳn tai trái của tôi.

Tôi bước dưới lòng suối tránh không để lại dấu vết, nhưng không chắc chân của Peeta có làm được như mình không. Mặc dù thuốc đã sát trùng vết thương, cậu vẫn còn rất yếu. Sau ba ngày, vết dao cắt trên trán tôi đã ngừng rỉ máu. Dù vậy tôi vẫn băng quanh đầu để tránh việc vận động mạnh làm chảy máu trở lại.

Lội ngược dòng suối, cả hai băng qua nơi tôi tìm thấy Peeta ngụy trang dưới lớp cỏ cây và bùn lầy. May mắn thay, sau cơn mưa xối xả hôm trước, giờ bờ suối đã ngập nước, xóa sạch toàn bộ dấu vết nơi cậu ấy giấu mình. Điều đó có nghĩa là chúng tôi có thể trở về hang của mình khi cần; còn nếu không, tôi đã không dám mạo hiểm khi Cato có thể theo đuôi bất cứ lúc nào.

Những hòn đá đọc đưòng nhỏ lại dần thành đá cuội rồi thành sỏi, một lúc sau thì tôi thở phào khi đặt chân trở lại thảm lá thông và mặt đất mềm mại của thềm rừng. Lần đầu tiên tôi nhận ra rắc rối. Vượt qua địa hình lởm chởm với cái chân đau thì việc phát ra tiếng động là chuyện thường. Nhưng ngay cả trên thảm lá thông nhẵn nhụi, tiếng sột soạt dưới chân Peeta vẫn khá lớn. Ý tôi là lớn thật đấy, như thể cậu đang dậm chân chứ không phải bước. Tôi quay lại nhìn cậu.

“Gì thế?” Peeta hỏi.

“Cậu cần bước khẽ hơn nữa,” tôi nói. “Chưa nói đến Cato, cậu đang xua hết thỏ trong khoảng cách mười lăm cây số đấy.”

“Thật à?” cậu nói. “Xin lỗi, tớ không biết.”

Rồi chúng tôi đi tiếp. Peeta có nhẹ chân hơn một chút, nhưng ngay cả khi chỉ với một tai nghe rõ, tôi vẫn phải dựng người lên.

“Cậu tháo ủng ra được không?” tôi gợi ý.

“Ở đây à?” Peeta bán tín bán nghi, như thể tôi bắt cậu đi chân đất trên than hồng hay đại loại vậy. Tôi phải tự nhủ rằng cậu vẫn chưa quen đi trong rừng, vốn là một nơi đáng sợ, bất khả xâm phạm nằm bên ngoài tường rào của Quận 12. Tôi nghĩ về Gale và cách anh nhấc chân thật khẽ khàng. Anh bước quá đỗi tài tình, ngay cả khi mặt đất phủ đầy lá khô và chỉ riêng việc nhấc chân mà không đánh động con mồi cũng đã là khó. Chắc anh đang cười ha hả ở nhà.

“Ừ,” tôi kiên nhẫn nói. “Tớ cũng tháo luôn. Như vậy sẽ bớt tiếng động của cả hai.” Tôi nói như thể mình cũng gây ra tiếng. Thế là cả hai cởi hết tất ủng và dù có đỡ hơn một chút, tôi thề là Peeta đạp gãy không sót một cành nào dưới chân.

Không cần phải nói, tôi chẳng bắn được con thú nào dù phải mất vài giờ mới đến được chốn cũ của tôi và Rue. Nếu dòng suối êm trở lại, chúng tôi có thể bắt cá, nhưng vấn đề là nước chảy rất xiết. Trong lúc dừng chân uống nước, tôi cố tìm một cách khác. Hay nhất là tôi dụ Peeta ở lại đây với công việc nhặt lá hái củ vặt vãnh, nhưng cậu chỉ có một con dao tự vệ trước Cato, mà hắn thì mạnh hơn và có cả lao. Tôi thì rất muốn giấu Peeta ở chỗ nào đó thật an toàn rồi mới đi săn, sau đó quay trở lại đón cậu. Nhưng hẳn với lòng tự trọng của mình, Peeta không đời nào chấp thuận.

“Katniss,” cậu nói. “Chúng ta cần tách ra. Tớ biết là tớ đang đuổi hết con mồi.”

“Chỉ vì chân cậu bị thương,” tôi an ủi, bởi thực ra, đó chỉ là một phần rất nhỏ của vấn đề.

“Tớ biết,” cậu nói. “Vậy thì, cậu cứ tiếp tục đi. Chỉ cho tớ phải hái thứ cây nào là ổn, như thế cả hai cùng được việc.”

“Không được, Cato sẽ tới và giết cậu mất.” Tuy cố nói giảm đi, nhưng tôi vẫn có ý như thể đang nghĩ cậu ấy là đồ yếu đuối.

Ngạc nhiên thay, Peeta chỉ cười. “Nghe này, tớ có thể đối phó với Cato. Chẳng phải tớ từng đánh với hắn một trận sao?”

Ồ, nghe thật hoành tráng. Và cậu kết thúc bằng việc nằm bẹp dưới bùn. Tôi định nói thế, nhưng không thể. Suy cho cùng Peeta đã cứu mạng tôi bằng cách ngăn cản Cato. Tôi thử cách khác. “Sao cậu không leo lên một ngọn cây và canh chừng trong lúc tớ săn?” Tôi cố nói như thể việc đấy quan trọng lắm.

“Sao cậu không chỉ tớ thứ cây nào ăn được ở quanh đây và đi săn một ít thịt về cho cả hai?” cậu nhại lại tôi. “Miễn là đừng đi quá xa, nếu cần tớ giúp.”

Tôi thở dài và chỉ cậu mấy thứ rễ củ để đào. Chúng tôi cần thức ăn, không phải bàn cãi. Một quả táo, hai ổ bánh mì và một mẩu pho mát to bằng quả mận không giúp gì nhiều. Tôi sẽ chỉ đi gần đây và mong Cato còn ở xa.

Tôi chỉ cho cậu cách hót tiếng chim - không phải cả bài như của Rue mà chỉ là hai nốt huýt sáo - để làm dấu hiệu chứng tỏ cả hai đều an toàn. May mắn thay, Peeta khá về khoản này. Để túi đồ lại cho cậu, tôi lên đường đi săn.

Tôi thấy như trở lại năm mười một tuổi khi chỉ cho phép mình đi săn cách xa hai mươi, có thể là ba mươi mét, khỏi cái hàng rào, tuy lần này thay vào bằng Peeta. Mặc dù vậy, tách khỏi cậu, tôi nghe thấy tiếng thú rừng lao xao trở lại. Yên tâm bởi tiếng huýt sáo của cậu, tôi cho phép mình tiến thêm một chút nữa, đổi lại tôi nhanh chóng săn được hai con thỏ và một con chồn béo ú. Thế là đủ. Tôi có thể đặt bẫy và bắt thêm mấy con cá. Cộng thêm rễ củ của Peeta, thế là vừa phải cho hôm nay.

Ngay khi vừa quay về một chút, tôi nhận ra từ nãy giờ không nghe thấy tiếng huýt sáo. Khi huýt lại mà không thấy tiếng phản hồi, tôi liền chạy. Ngay sau đó, tôi tìm thấy chiếc túi và bên cạnh là đống rễ củ. Tấm bạt nhựa được trải ra, bên trên là một lớp trái dâu nằm phơi nắng. Nhưng Peeta đâu?

“Peeta!” Tôi gọi trong sợ hãi. “Peeta!” Tôi quay về hướng có tiếng lá cây lạo xạo và suýt nữa thì bắn mũi tên trúng cậu. May mắn thay, tôi chếch cây cung trong tích tắc nên mũi tên chỉ cắm vào thân cây sồi ngay bên trái cậu. Peeta nhảy ngược về sau, thảy một nắm dâu vào bụi.

Tôi từ sợ hãi chuyển sang giận dữ. “Cậu đang làm gì thế? Tớ đã bảo cậu ở đây, không được lăng xăng trong rừng mà!”

“Tớ tìm thấy ít dâu cạnh dòng suối,” cậu nói, hoàn toàn ngơ ngác trước cơn giận dữ của tôi.

“Tớ huýt sáo, sao không thấy cậu huýt lại?” tôi mắng.

“Tớ không nghe thấy. Chắc là tiếng nước chảy lớn quá,” cậu nói. Cậu lại gần đặt tay lên vai tôi. Ngay lúc đó tôi thấy mình đang run lên.

“Tớ cứ nghĩ là Cato đã giết cậu!” tôi nói như la lên.

“Không, tớ ổn mà.” Peeta choàng tay qua người tôi, nhưng tôi không phản ứng. “Sao thế Katniss?”

Tôi đẩy cậu ra, co gắng định hình cảm xúc của mình. “Đã quy ước ám hiệu với nhau thì phải ở gần chứ. Chỉ cần một người không đáp là cả hai sẽ gặp rắc rối, cậu hiểu không?”

“Hiểu!” cậu đáp.

“Vậy thì tốt. Chuyện đó đã xảy ra với Rue, và tớ đã nhìn con bé chết!” tôi nói. Tôi quay đi, đến chiếc túi và mở một chai nước mới, dù chai của tôi vẫn còn. Nhưng tôi chưa định tha thứ cậu. Tôi để ý chỗ đồ ăn. Bánh mì và táo còn nguyên, nhưng rõ ràng có ai đó đã lấy miếng pho mát. “Và cậu còn ăn trong lúc không có tớ nữa!” Thực sự thì việc này chẳng đáng để tâm, nhưng tôi chỉ muốn có gì đó để trút nỗi bực dọc.

“Cái gì? Không, tớ không hề,” Peeta nói.

“Ồ, vậy chắc là mấy quả táo đã chén mất miếng pho mát,” tôi nói.

“Tớ không biết cái gì chén mất miếng pho mát,” Peeta nói chậm rãi và rành rọt, như đang cố không nổi giận, “nhưng không phải tớ. Nãy giờ tớ ở dưới suối hái dâu. Cậu có muốn xem không?”

Tất nhiên là muốn, nhưng tôi chưa sẵn sàng làm lành sớm như vậy. Tôi lại gần ngó chúng. Tôi chưa từng thấy loại này bao giờ. À không, có chứ. Nhưng không phải trong Đấu trường. Đây không phải loại dâu mà Rue từng hái, dù chúng khá giống nhau. Chúng cũng không trùng bất kỳ loại nào tôi được học trong lúc luyện tập. Tôi cúi xuống, bốc lấy vài trái, xoay chúng trong tay.

Giọng cha trở lại văng vẳng trong đầu tôi. “Không phải chúng, Katniss. Đừng bao giờ thử. Chúng là trái tắc-tị. Con sẽ chết trước khi nuốt xuống dạ dày.”

Ngay lúc đó, tiếng pháo hiệu vang lên. Tôi giật mình quay lại, tưởng rằng Peeta đã gục xuống đất, nhưng cậu chỉ đang nhướng mày. Chiếc phi thuyền xuất hiện cách chỗ chúng tôi khoảng một trăm mét. Thi thể gầy gò của Mặt cáo được nhấc bổng lên. Tôi thấy mái tóc của nó lấp lánh dưới ánh mặt trời.

Lẽ ra tôi phải nghĩ đến điều này khi nhìn thấy miếng pho mát bị mất.

Peeta nắm cánh tay tôi, đẩy tôi đến một cây. “Trèo lên đi. Hắn sẽ đến đây trong tích tắc. Chúng ta sẽ có cơ hội tốt hơn hắn khi ở trên cao.”

Tôi ngăn cậu lại, bất ngờ hạ giọng. “Không đâu, Peeta, con bé là do cậu giết, không phải Cato.”

“Cái gì? Tớ còn chưa từng thấy nó kể từ ngày đầu tiên,” cậu nói. “Làm sao tớ giết con bé được?”

Thay vì trả lời, tôi đưa nắm dâu trước mặt cậu.