Xin-ve bảo tôi:
-Nếu trước đây tôi đã cứu cậu thì vừa rồi cậu đã cứu lại tôi. Điều ấy tôi không bao giờ quên. Lúc nãy liếc mắt, tôi thấy bác sĩ bảo cậu trốn, và cậu đã lắc đầu không nghe. Cậu quả là người biết trọng danh dự. Từ khi tôi đánh đồn bị thất bại đến nay, cái cử chỉ khí khái của cậu thật là một tia sáng để tôi hy vọng. Cậu Dim! Bây giờ đây chúng ta phải đi tìm kho của. Việc này chẳng thích chút nào, vì lời bác sĩ dặn, tôi còn nhớ. Bây giờ tôi với cậu hai chúng ta phải sát cánh bên nhau để đề phòng mọi sự bất trắc nguy hiểm có thể xảy ra. Như thế chúng ta mới bảo toàn được tính mệnh. Lúc ấy, một tên đứng gần đống lửa gọi chúng tôi về ăn sáng.
Chẳng mấy chốc, cả bọn đã ngồi trên bãi cát trước nhà. Chúng đốt một đống lửa to tướng, nóng đến nỗi không lại gần được. Chẳng những củi mà ngay đến thức ăn, chúng cũng phung phí bừa bãi. Tất cả bọn chỉ ăn hết một phần ba thức ăn. Một đứa ném đồ ăn thừa vào lửa, nhe răng cười một cách ngô nghê. Trong đời tôi, thật chưa bao giờ tôi thấy một bọn người vô hậu đến thế. Chúng chỉ biết được bữa nào xào bữa ấy, không hề nghĩ đến ngày mai... Qua cách sống bừa bãi của chúng, tôi đã nhận thấy tuy chúng có thừa can đảm đánh nhau trong một trận nhưng chúng không thể đánh nhau lâu dài được. Ngay Xin-ve cũng ngồi điềm nhiên ăn, không có một lời khiển trách bọn chúng. Hắn nói:
-Các anh được thằng này lo việc cho, các anh sướng như tiên con! Bọn họ chiếm lại được chiếc tàu. Nhưng ta, ta sẽ tìm thấy của. Hễ của đã nắm chắc trong tay rồi, ta sẽ tìm cho ra tàu. Lúc đó phần thắng sẽ về ta! Hắn vừa nói vừa nhai nhồm nhoàm, miệng dính đầy mỡ. Hắn cố làm cho bọn kia tin tưởng và cũng để động viên mình. Hắn lại tiếp:
-Còn thằng bé "con tin" này, có lẽ lần này là lần cuối cùng nó được gặp bạn hữu của nó. Chính nhờ thế mà vừa rồi tôi đã biết được những điều tôi muốn biết. Thế là đủ rồi. Tôi sẽ dắt nó theo trong lúc đi tìm kho của. Vì chúng ta phải giữ nó để phòng lúc gặp nguy nan. Một khi vàng đã tải lên tàu rồi thì lúc ấy ta sẽ có cách nói chuyện với cu cậu! Bây giờ bọn giặc trông vui vẻ hơn trước, điều ấy không lấy gì làm lạ. Nhưng về phần tôi, tôi rất nghi ngại. Đối với một tên như Xin-ve, gió chiều nào xoay chiều ấy, hễ thấy vàng thì tối mắt, thật cũng khó mà tin hắn. Còn nếu hắn có giữ lời hứa thì khi xảy ra việc gì, hắn là một thằng thọt, tôi là một thằng bé, liệu chống đỡ làm sao được với năm tên lực lưỡng thế kia!
Lại còn bao nhiêu câu hỏi trong đầu óc về việc bọn tôi bỏ đồn, giao bức bản đồ... Ngay cái câu bác sĩ dặn Xin-ve "phải đề phòng khi đi tìm của" cũng làm tôi nát óc! Cho nên bữa cơm ấy, tôi ăn không thấy ngon, và khi bọn giặc rủ nhau đi tìm kho của, bụng tôi càng lo ngay ngáy... Bọn chúng ra đi mang theo khí giới đầy đủ. Xin-ve đeo hai khẩu súng trường, lại thêm con dao cài ở thắt lưng và hai khẩu súng lục trong hai túi áo. Trên vai hắn, con vẹt vẫn lảm nhảm nói những câu quái gở. Chúng nó lấy thừng buộc ngang lưng tôi, rồi Xin-ve dắt tôi đi. Khi thì hắn cầm đầu thừng, khi thì hắn cắn chặt vào hai hàm răng. Tôi bị dắt hệt như một con gấu của phường hát. Những đứa khác thì đứa vác cuốc, đứa vác xẻng, những vật ấy chúng đã lấy từ trước ở trên tàu. Vài đứa nữa khiêng thịt, bánh và rượu để ăn trưa. Cả tên giặc bị vỡ đầu, đáng lý phải nằm ở nhà, cũng cố gượng đi theo nốt. Tất cả kéo ra bờ biển. ở đấy đã có hai chiếc thuyền đợi sẵn. Cả bọn chia làm hai tốp, xuống thuyền. Trong khi đi thuyền, bọn chúng bàn tán với nhau về bức bản đồ. Cái gạch đỏ thì chỉ hướng không rõ. Còn những chữ ghi phía sau, không được rõ nghĩa cho lắm. Tôi nhớ những câu chữ ấy:
“Cây to. Đồi con, gò Vọng Viễn, mũi đất về phía B.B.Đ. "Đảo Hình Người Đ.Đ.N. "Mười mét..." Cái dấu quan trọng nhất để nhận đường là cây to. Nhưng ngay sát bến, trước mặt chúng tôi là một khu đồi cao, bắc giáp gò Vọng Viễn, nam giáp gò Cột Cái. Trên đỉnh đồi, thông mọc chi chít; có cây thấp, cây cao. Còn cái "cây to" mà lão Phơ-linh đã chỉ, thì phải đến nơi, đem địa bàn ra ngắm đúng hướng mới có thể biết được. Ngồi dưới thuyền, bọn giặc chỉ trỏ lung tung. Xin-ve thì so vai lên và bảo:
-Cứ đợi đến nơi hẵng hay! Đi một lúc lâu, chúng cho đỗ thuyền vào cửa sông dưới gò Vọng Viễn. Chúng bắt đầu trèo lên đồi về mé tay trái. Mới đầu gặp đất bùn nhão nhoẹt, nên đi rất chậm. Nhưng càng lên cao, đất càng rắn lại, cây cối bớt rậm rạp hơn. Đây là khu đẹp nhất trong đảo. Những dây rau rừng bò lan bên cạnh những khóm cây rừng có hoa nở, thơm ngát. Giữa những chòm đậu khấu xanh um, nổi bật lên những thân cây thông đỏ sậm, bóng lá rườm rà. Không khí trong mát, ánh nắng chói chang, mùi hoa rừng dịu hắc. Cả bọn vui cười nhảy nhót chạy tỏa khắp nơi. Chỉ còn tôi và Xin-ve đi sau cùng. Tôi bị trói ngang lưng, còn Xin-ve thì cứ ngoáy mãi đầu nạng xuống đất sỏi và thở phì phò. Thỉnh thoảng tôi phải đưa tay ra đỡ hắn để hắn khỏi trượt chân, ngã lăn xuống hố. Chúng tôi đi mãi đến nửa dặm mới tới chân đồi. Thình lình một tên đi đầu rú lên mấy tiếng khủng khiếp. Cả bọn cùng chạy ồ lên. Mo-gan ở phía đằng kia vừa chạy lại, vừa bảo:
-Nó ở tít trên cao kia. Của chôn đâu trên ấy mà rối rít lên thế! Quả nhiên, khi chúng tôi đến nơi, thì một cảnh tượng kinh khủng bày ra trước mắt. Dưới gốc một cây thông, một bộ xương người nằm dài, một vài mảnh áo quần còn lại lả tả trên đất. Cả bọn đứng nhìn, rợn tóc gáy. Giót bạo dạn hơn, tiến đến gần xem mấy mảnh vải rồi bảo:
-Chính thứ áo dạ của bọn thủy thủ! Xin-ve nói như gắt:
-Cái ấy đã hẳn! Anh không thể mong thấy ở đây một ông cố đạo được! Nhưng bộ xương nằm thế kia là nghĩa lý gì? Nhìn gần lại, bộ xương nằm quả không tự nhiên một chút nào. Hình người nằm thật ngay ngắn: hai chân duỗi thẳng, hai tay giơ thẳng lên quá đầu, cùng chỉ vào một hướng. Xin-ve bảo:
-ừ, có lẽ đấy! Kia là mũi đảo Hình Người, địa bàn đây, cứ nhìn theo hướng bộ xương thử nào... Mọi người nhìn vào địa bàn. Bộ xương chỉ thẳng hướng khu đảo, địa bàn chỉ đúng hướng đông -đông nam. Xin-ve kêu to:
-Thoạt trông, tôi đã ngờ bộ xương này lắm! Thôi, bộ xương này đúng là dấu chỉ hướng tìm của. Điều này làm tôi nghĩ tới Phơ-linh mà lạnh toát cả người! Khi xưa, lão lên đây với sáu thằng. Lão đã giết sạch, rồi lão kéo xác một thằng lại đây để thay cho địa bàn. Bộ xương này dài thườn thượt. Thôi, chính là thằng An rồi! Mo-gan, anh có nhớ thằng An không? Mo-gan đáp:
-Có chứ! Tôi nhớ hắn còn nợ tiền tôi. Ngay khi lên đảo, hắn còn mượn tôi con dao. Một đứa khác nói:
-Anh thử tìm bên cạnh hắn xem có còn con dao của anh thì lấy lại! Mo-gan tìm quanh đống xương, bảo:
-Chẳng còn vật gì cả! Ngay đến túi thuốc cũng chẳng còn. Thế này thì lạ thật! Xin-ve cũng gật đầu:
-ừ, lạ thật! Quả là một điều quái gở. Cái lão Phơ-linh kể cũng tai ác! Nếu lão còn sống thì... Mo-gan ngắt lời:
-Lão chết rồi! Một đứa khác bảo:
-Khi gần chết, lão vẫn còn gào rượu "rum". Có lúc lão hát:
“Mười lăm thằng..." Đời lão chỉ biết có bài hát ấy! Tiếng hát của lão nghe đến lạnh xương sống! Xin-ve cắt đứt câu chuyện:
-Thôi im đi! Nói mãi đến lão ta làm gì! Lão chết là hết. Người chết không hại được ai đâu! Các anh đừng sợ. Thôi, hãy đi đến đằng kia mà tìm của. Cả bọn lại đi lên. Tuy trời rất oi bức, nhưng cả bọn cứ xúm xít lại với nhau và thì thầm to nhỏ. Hình như chúng vẫn sợ cái hồn ma của tên chúa đảng vẫn còn lẩn quất đâu đây.