Đắm Đuối

Chương 5

Tiếng chuông điện thoại ray rứt khiến tôi phải thức dậy. Tôi vươn tay cầm lấy ống nghe rồi vứt nó xuống nệm, kề tai tôi.

“Vâng, tôi đây. Có chuyện gì thế?” Tôi chán chường hỏi.

Ở đầu dây bên kia là cái giọng nói dịu dàng quen thuộc của con người có học đó:

“Chào trung úy!”

“Lại ông nữa! Lần này thì chuyện gì đây?”

“Tôi muốn truyền đạt cho trung úy một điều… Trung úy có chịu nghe tôi không?”

Tôi tức tối nói ngay:

“Thôi, ông hãy để cho tôi yên giùm đi! … Tôi không còn muốn nghe ông nữa…”

Cái giọng vẫn nhã nhặn:

“Này Trung úy, tôi từ lâu vốn là kẻ mến phục trung úy! Và như trung úy thấy đó, để làm sáng tỏ một vụ án, trung úy đã được tiếp tay một cách rất thoải mái.:.”

Càng tức tối, tôi gào lên:

“Tôi biết chứ, quả đúng là như thế John ạ!”

Một thoáng im lặng và khi nói tiếp, giọng nói đã có đôi chút thay đổi:

“Chà, chà, thế là trung úy đã biết tên của tôi rồi… Hay lắm!”

“Anh hiểu chứ? Đối với tôi anh chỉ là một nhân vật của truyện bằng tranh và tôi khuyên anh không nên vượt ra khỏi phạm vi đó.”

Hắn dịu dàng tuyên bố:

“Thưa trung úy, tôi chỉ muốn giúp đỡ trung úy và làm đúng bổn phận của một người công dân gương mẫu bằng cách thông báo về đôi điều mà tôi được biết.”

Tôi vặn lại:

“Là một công dân gương mẫu thì anh chẳng thể nào biết quá nhiều chuyện như thế. Bây giờ, anh muốn truyền đạt cho tôi điều gì nữa đây?”

Hắn vội vã nói:

“Lần này tôi muốn đề cập đến Jonathan Blake, một tay cự phách trong bộ môn săn thú và là chồng trước đây của Prudence Calthorpe. Trái hẳn với điều mà người ta vẫn nghĩ, giờ đây hắn ta không còn ở Phi Châu để tiêu diệt thú rừng quí hiếm của cái lục địa này…”

Tôi ngạc nhiên:

“Blake không còn ở Phi châu nữa à?”

“Không, thưa Trung úy! Hắn ta đang có mặt cách Pin City sau mươi lăm cây số, trong khu du lịch “E1 Rancho de Los Toros”, một nơi được xây dựng theo lối nông trang thuở trước. Có lẽ chủ nhân của nó đã từng sống ở Tijuana và có máu mê đấu bò… Theo như người ta cho tôi biết thì Blake đã có mặt ở đây từ tám ngày nay.”

Tôi bực tức:

“Như thế thì sao chứ?”

Giọng nói vẫn bình thản, không chút nao núng:

“Theo tôi nghĩ thì đó hẳn là điều mà trung úy quan tâm. Ý đồ của Blake là kết hôn với cô Calthorpe em, nhưng theo tôi nghĩ thì chắc trung úy đã biết chuyện này rồi…”

“Biết cái gì?”

“Chuyện Blake sắp sửa kết hôn với Pénélope Calthorpe.” Giọng nói thoáng chút ngạc nhiên. “Bộ trung úy không biết à?”

Nói đến đó, hắn đột ngột gác máy.

Một lúc sau - có lẽ đã hơi muộn - tôi mới nhớ ra rằng tôi đã tự hứa là sẽ đột ngột gác máy như thế khi có dịp nói chuyện với hắn….

Tôi liếc nhìn đồng hồ và biết rằng đã chín giờ rưỡi. Buổi sáng trong như thủy tinh với nắng trời rực rỡ. Tôi đã về nhà vào lúc bốn giờ rưỡi sau khi rời khỏi căn hộ nhìn ra sân thượng của Calthorpe.

Một giấc ngủ kéo dài suốt sáu tiếng đồng hồ hẳn là quá đủ đối với bất cứ ai, nhưng riêng tôi thì xem chừng vẫn còn thiếu bởi khi nhìn vào gương soi, tôi thấy mắt mình vẫn còn đỏ ngầu dưới một mái tóc bù xù trông không lành mạnh chút nào.

Tắm, cạo mặt và cà phê đen, tất cả những thứ này đã làm tôi mất trọn ba mươi phút. Xong xuôi đâu đó, tôi châm một điếu thuốc và nhủ thầm mình cần phải lao ngay vào công việc. Nếu không thì sẽ mất trắng cả buổi sáng.

Tôi gọi điện về sở và nhận ra ngay cái giọng càu nhàu của cô thư ký. Tôi yêu cầu được tiếp xúc với trung sĩ Polnik. Một lúc sau, cái giọng ồ ồ đượm mùi rượu vang lên bên tai tôi.

Tôi hỏi ngay:

“San Francisco đã cho cậu biết gì về Thelma Davis chưa?”

Giọng trả lời nghe thật kiêu hãnh:

“Thưa trung úy, rồi ạ. Trước mắt tôi đây là bản báo cáo đầy đủ.”

“Có gì lạ không?”

“Tôi đọc cho trung úy nghe nhé?”

Tôi chán chường đáp:

“Thôi khỏi, cậu hãy tóm lược cũng đủ rồi.”

Tôi có cảm tưởng như mọi chuyện đã bắt đầu trơn tru và buổi sáng sẽ không còn bị lãng phí nữa.

Polnik chậm rãi đọc:

“Bà ấy sống tại nhà riêng nhưng từ hai ngày nay không thấy về và đồng thời cũng chẳng ai trông thấy bà trong khoảng thời gian này. Tại sở làm người ta cũng cho biết là Thelma đã vắng mặt từ hai hôm nay.”

Tôi nêu lên ý kiến:.

“Như thế có lẽ Thelma đã đến Pin City để bám theo đức lang quân… Được, thế thì cậu hãy tiếp tục rà soát tất cả các khách sạn lớn và nhỏ cho!”

Polnik thở dài thườn thượt:

“Khổ thật, cứ khách sạn này khách sạn họ mãi thế này chắc tiêu đời! Vậy thì, bao giờ tôi mới được vui đùa với các em đây, trung úy?”

Tôi tỏ vẻ rộng lượng:

“Cậu cứ an tâm, hãy tìm cho ra Thelma Davis rồi tôi sẽ giới thiệu cho cậu một em. Chịu chưa?”

Giọng hắn nhẫn nhục:

“Vâng, trung úy. Vậy thì, nếu tìm thấy Thelma Davis, tôi sẽ liên lạc với trung úy ở đâu?”

Tôi bình thản đáp:

“Thì cứ tìm tôi ở trong thiên nhiên, nơi con người phải trần truồng như một con thú và nơi con thú có thể chồm đến để xơi tái con người.”

Hẳn là không muốn làm tôi bực mình vì những câu hỏi nên Polnik đáp ngay:

“Vâng, trung úy. Nhưng ở nơi hoang dã đó có điện thoại không chứ?”

“Cậu khỏi lo. Tôi sẽ gọi cho cậu.”

Và tôi gác máy.

***

Khu du lịch El Rancho de Los Toros là một ốc đảo tươi vui mượt mà nằm kề cận sa mạc. Sự mượt mà của ốc đảo này không xuất phát từ những cây chà là hay những hàng cọ xanh um mà xuất phát từ những chiếc Cadillac màu đen và vô số những xe hơi sang trọng khác đậu theo từng hàng lấp lánh ở bãi xe trước khu du lịch được xây dụng theo lối trang trại miền Viễn Tây.

Vào khoảng một giờ trưa, tôi lái chiếc Austin Healey vào bãi và đậu ở giữa hai chiếc du lịch sang trọng. Trưa nóng bỏng làm tôi thấy khát ran cả cổ. Tuy vậy tôi vẫn cảm thấy ngần ngại để tìm nơi giải khát vì biết cái lối ăn mặc như thế này của tôi - complet xanh đậm và cà vạt chỉnh tề - là không mấy thích hợp với khu du lịch này. Theo lẽ thì tôi phải mặc quần Jean và chụp lên đầu một chiếc mũ rộng vành hoặc, mặc một bộ đồ đấu bò và dắt bên hông một thanh kiếm để khua lẻng kẻng theo từng bước đi.

Trong khi ngang qua những đám nam thanh nữ tú ăn diện theo lối cao bồi miền Viễn Tây, tôi thầm vái cho sự xuất hiện của mình không làm ai quan tâm. Và ước nguyện của tôi đã được đáp ứng bởi đám du khách trẻ trung này đang bận bàn cãi rằng họ nên vào nhà ăn rồi sau đó ngồi trong xe máy lạnh tham quan ốc đảo hay uống thêm vài ly Martini nữa rồi hẳn đi ăn.

Tôi bước về khu giải khát. Quán được trang trí rập khuôn theo kiểu quán rượu miền Viễn Tây thuở trước, y hệt như một quán mà ta thường trông thấy trong các phim cao bồi, không thiếu một chi tiết nào, kể cả sàn nhà cũng được rải bởi một lớp mạt cưa! Tôi bắt đầu cảm thấy thích hợp với cái không khí này và đảo mắt tìm cái ống nhổ quen thuộc của dân cao bồi.

Sau khi ngồi ở quầy và uống cạn một ly, tôi đi về phòng tiếp tân. Vừa trông thấy gã nhân viên tiếp tân là tôi đã có cảm tưởng gã là một nhân vật có tầm cỡ ở khu du lịch này và tôi cố moi trí nhớ để biết rõ gã là ai nhưng cuối cùng đành chịu. Gã lùn tịt và béo phệ, đã thế lại còn mặc một chiếc quần bó sát bên trên đôi ủng màu vàng đánh bóng. Kè kè bên hông là một khẩu 45 - loại đồ chơi trẻ em - với báng súng bằng xà cừ giả.

Tôi đưa mắt nhìn ngôi sao cảnh sát trưởng đang lấp lánh trên ngực áo ca rô của gã và thầm nghĩ mình có mơ hay không. Nhưng không, khi nhìn kỹ tôi thấy bên trên ngôi sao đó có ghi chữ: Tiếp Tân.

Gã chào tôi bằng một nụ cười thân thiện và chìa tay qua quầy để bắt tay tôi:

“Chào ông bạn: Trung tâm du lịch “Rancho de Los Toros” hân hạnh được tiếp đón ông bạn.”

Tôi thọc tay vào túi, cầm lấy huy hiệu cảnh sát và đặt vào lòng tay của gã.

Sau khi há hốc mồm nhìn nó một hồi, gã ngước mắt nhìn tôi và hỏi với một giọng nghi ngờ:

“Chỉ là chuyện đùa chứ?”

“Không, tôi không đùa đâu! Ông có biết ở đây có ai tên Jonathan Blake?”

Nghe đến đó, khuôn mặt gã sững sờ:

“Vậy trung úy là bạn của ông ấy? Vâng, ông Blake đang đăng ký phòng tại đây! Và nếu được trung úy cho phép thì tôi có thể nói thêm rằng trung tâm du lịch chúng tôi rất hân hạnh được tiếp đón trung úy.”

“Vâng, xin cảm ơn ông.”

Gã chớp chớp mắt và vội vã xác định ngay:

“Nếu tôi không lầm thì ông Blake đã đi vắng. Ông vừa rời khỏi nông trang của chúng tôi cách đây khoảng hai tiếng.”

“Nông trang à?” Tuy biết rõ đây là một khu du lịch được dàn dựng theo lối trang trại Viễn Tây nhưng tôi vẫn ngạc nhiên khi nghe hắn xài hai chữ “nông trang”. “Thế thì các ông chăn nuôi thứ gì ở đây, chắc không phải là ngỗng đực rồi…”

“Thưa, tôi mong trung úy thông cảm cho và chớ có đùa bỡn như thế nữa.”

Tôi gật đầu:

“Được, thế thì tôi phải cố giữ mồm giữ miệng vậy. À, theo anh thì liệu tôi có thể tìm thấy ông Blake ở đâu?”

“Tôi không chắc lắm nhưng có thể ông ấy đã về Vực Quỉ Sứ để tập tác xạ.”

“Vực Quỉ Sứ là đâu?”

Gã chậm rãi giải thích:

“Này nhé, trung úy lái xe ra đường và đi về hướng Đông; khoảng năm cây số, trung úy sẽ gặp một con đường đất ở phía tay phải và cứ thế đi thẳng” gã nhăn mặt. “Cuối con đường này là Vực Quỉ Sứ.”

“Như thế phòng tập tác xạ ở đây hẳn có máy lạnh và âm nhạc các thứ?”

Gã nhân viên tiếp tân chưng hửng:

“Làm gì có chuyện đó. Thưa trung úy, Vực Quỉ Sứ là một vùng hoang địa. Một vùng đất không người lui tới!”

“Được, thế thì tôi phải đến đó để xem ông Blake đang làm cái trò gì.”

Với nụ cười e dè, gã nhân viên hỏi:

“Trung úy có mang nón theo đó không?”

Tôi nhướng mắt:

“Để làm gì chứ?”

“Giờ này mà ra vực thì rất nóng… Bốn mươi độ dưới bóng râm và ở đó thì hoàn toàn không có bóng râm…”

“Cảm ơn anh, tôi sẽ không quên đội nón.”

“Xin chào trung úy!”

Tôi thấy khuôn mặt gã có vẻ nhẹ nhõm khi được chào từ biệt tôi. Tôi quay ra xe và phải chờ một lúc mới có thể nổ máy. Chắn ngang đầu xe của tôi là một cô tóc vàng đang ngồi trên mình ngựa và dẫu cô ta có la hét thế nào đi nữa thì con ngựa vẫn cứ đứng đó im lìm. Cuối cùng, một nhân viên của khu du lịch phải chạy đến và kéo con ngựa lì lợm đi nơi khác.

Ra khỏi nông trang khoảng năm cây số, tôi trông thấy ngã rẽ đường như lời của gã nhân viên tiếp tân. Tôi cho xe chạy theo con đường đất chữ chi này và cứ thế khi tôi vượt qua khoảng mười cây số thì tôi bỗng sững sờ nghĩ rằng phải chăng tay này đã chơi khăm mình. Con đường đất cứ quanh co như thế và kéo dài mãi, dài mãi… Và rồi sau một khúc quanh, tôi mới biết rằng gã ta đã chỉ đúng chỗ.

Con đường không có điểm kết thúc nhưng xem chừng nó bỗng tan loãng trên hoang địa, thế thôi! Trước mắt tôi giờ chỉ còn là vùng đất lổn nhổn đá, xương rồng và những đống sụt lở khổng lồ. Tôi dựng chiếc Austin Healey bên cạnh chiếc du lịch màu nâu, và xuống xe để quan sát rõ hơn.

Hẻm vực chạy dọc theo hai vách núi sừng sững và hắt ra một thứ hơi nóng của hỏa lò. Đến đây tôi mới thấy là gã nhân viên tiếp tân đã không dối gạt tôi một điều gì: quả đúng là nóng bốn mươi độ và không hề có một bóng râm nào.

Tôi cố mở cửa chiếc du lịch nhưng nó đã được khóa chặt. Nhìn vào bên trong, tôi thấy có một cái giá đựng đầy súng - đúng là một kho vũ khí lưu động. Tôi biết chắc đây là xe của Jonathan Blake bởi ngoài hắn ra thì ai có đủ đam mê săn bắn để mà dấn thân trong cái hỏa lò này chứ? Nhưng rồi khi dõi mắt nhìn vào hẻm vực sâu hun hút phía trước, tôi buộc lòng phải thốt lên nho nhỏ, “Thế thì hắn ta đâu rồi?”

Nếu còn chờ thêm ít phút nữa dưới cái mặt trời chói chang này thì chắc tôi sẽ ngã gục và sau đó, khi tìm được xác tôi, hẳn người ta sẽ nghĩ rằng tôi là một thằng mọi đen nào đó…

Tôi châm một điếu thuốc và thầm nghĩ liệu mình có cần phải hét lớn để gọi Blake ra hay không. Thế rồi, bỗng chốc có tiếng súng trường khô khốc xé tan bầu không khí nóng bỏng và tĩnh mịch này. Tiếng súng phát ra từ hẻm vực phía trước mặt tôi và tôi tiến về phía đó.

Di chuyển trên sỏi đá càng lúc càng khó khăn, nhất là sau khi tôi đã vượt qua được một đoạn dài khoảng hai trăm thước. Tôi tưởng chừng như mình không còn bước đi nữa mà bì bõm lội trong cái chói chang nóng bỏng. Mồ hôi tôi giờ đây vã ra như tắm, dán chặt chiếc sơ mi vào thân và ướt đẫm bộ complet. Tôi dừng lại để rút khăn lau mặt và ngay lúc đó từ hẻm vực lại vang lên một tiếng nổ thứ hai, lần này ở phía tay phải và gần tôi hơn. Tôi tiến thêm năm chục bước nữa và phát hiện ra cái điều bí ẩn đã làm tôi thắc mắc: ở phía phải của hẻm vực có một cái rãnh ăn sâu một cái rãnh ăn sâu vào vách núi, dài khoảng ba trăm thước.

Đứng ở đó, quay lưng về phía tôi là một gã, đúng là hiện thân của một “kẻ săn thú lừng danh”. Y đang lắp đạn vào khẩu súng trường với nòng khá lớn.

Trên một mõm đá cách chỗ y đứng khoảng hai trăm thước, tôi trông thấy hai chấm đen nho nhỏ, hẳn đây là những vỏ đồ hộp. Blake đưa súng lên vai, ngắm kỹ và nổ. Một trong hai mục tiêu nát tan trong tiếng sắt vỡ vụn.

Tôi lên tiếng một cách rất lịch sự:

“Thưa, có phải anh là Blake?”

Y chậm rãi quay lại, nhìn chăm chăm vào mặt tôi; quả đúng là tôi không lầm. Hắn xứng đáng để được gọi là “người săn thú lừng danh của Phi Châu”. Blake không khác gì với bức ảnh mà tôi đã trông thấy trong căn hộ của Prudence.

Tôi cao một thước tám mươi ba vậy mà Blake cũng phải hơn tôi mười phân với đôi vai lực lượng, tưởng chừng như ngoại khổ với tấm thân to lớn đó. Với làn da rạm nắng, đôi mắt xanh của y trông càng xanh biếc hơn và tôi bỗng thấy lạnh ở sống lưng khi ánh mắt đó chiếu thẳng vào tôi.

Blake điềm đạm nói:

“Vâng, chính tôi đây. Ông có điều gì cần tôi?”

“Tôi muốn nói chút chuyện với anh.”

Tôi tự giới thiệu và cho y biết tôi là một trung úy cảnh sát. Điều này làm cho y cau mày và lạnh lùng nói:

“Chắc trung úy bực mình vì chiếc xe của tôi đậu ngoài kia. Vâng, tôi có giấy phép sử dụng vũ khí mà!”

“Tôi không đến đây vì chuyện xe cộ hay súng ống, nhưng vì một trọng án. Tôi đến gặp anh để hỏi về cái chết của Howard Davis.”

“Davis à?” Giọng nói của y thoáng chút ngạc nhiên. “Hắn chết rồi sao?”

Tôi thản nhiên nói:

“Nếu Davis không chết thì bộ thiên hạ điên hết hay sao mà phải đem anh ta đi chôn vào ngày mai?”

“Chuyện xảy ra từ bao giờ vậy trung úy?”

“Anh không biết gì hết à?”

Blake nhướng mắt:

“Làm sao tôi có thể biết được chứ?”

“Vậy anh không đọc báo sao?”

Y đáp khô khốc:

“Tôi không đọc báo.”

Tôi nói ngay:

“Nếu vậy thì hẳn cô Pénélope Calthorpe cũng cho anh hay…”

Y nhún vai:

“Từ ba hôm nay, tôi chưa gặp cô ấy” Giọng nói của y thật lạnh lùng. “Phải chăng trung úy nghĩ rằng tôi đang nói láo?”

“Không, tôi chỉ muốn biết xem trí nhớ của anh có tốt không, thế thôi.”

“Tôi luôn tự hào là người có bộ nhớ rất tốt. Này trung úy, nếu chúng ta còn phải nói chuyện dông dài như thế này thì tôi thấy tốt hơn là chúng ta nên ra xe.”

Y cúi nhìn khẩu súng sàn trên tay, mỉm cười với tôi rồi tiếp:

“Trung úy có thích không? Nào, hãy thử một phát xem trước khi chúng ta rời khỏi đây.”

“Được thôi!”

Tôi cầm lấy khẩu súng trường, đưa lên vai và dán một mắt vào ống ngắm: cái vỏ đồ hộp trơ trọi trên mõm đá đập rõ vào mắt tôi.

Tôi thốt lên:

“Anh có cái ống ngắm tuyệt thật!”

“Của hãng Bausch Lomb, với độ phóng lớn gấp hai mươi bốn lần.”

Tôi cẩn thận ngắm mục tiêu và nhấn cò. Ngay sau đó, tôi bị hất ngược ra sau, lưng và bả vai đập mạnh vào một tảng đá. Trong khi cây súng rơi xuống cách tôi vài bước.

Tôi đứng dậy, đưa tay xoa xoa bả vai đau nhói, trong khi Blake điềm đạm nói, không giấu được vẻ thích thú:

“Tôi rất tiếc, đáng lẽ tôi phải dặn trung úy trước… Cây Winchester 458 này thật là kinh khủng nếu ta không quen sử dụng!”

Tôi lạnh lùng nói:

“Dẫu sao tôi cũng cảm ơn anh vì đã cho tôi sử dụng qua.”

Blake lượm cây súng lên và chúng tôi rời khỏi hẻm vực. Đi được một quãng, y lên tiếng hỏi:

“Trung úy à, tôi muốn được biết về cái chết của Davis! Theo tôi nghĩ thì hắn ta đâu có gì là quan trọng đến nỗi phải bị sát hại!” Y đưa tay vỗ vỗ lên báng súng. “Giết Davis là một điều chẳng có nghĩa gì, tương tự như dùng cây súng này để giết một con sóc…”

Tôi kể cho y nghe về cái xác của Davis được phát hiện trong quan tài của đài truyền hình và Blake mỉm cười sau khi nghe hết câu chuyện.

Y nhận xét:

“Theo tôi nghĩ thì hẳn tên sát nhân cũng có chút máu tiếu lâm!”

Tôi gật đầu:

“Một tên kỳ cục. Mai đây nếu tóm cổ được hắn, tôi với hắn sẽ có dịp để mà tiếu lâm với nhau!”

Lấy lại vẻ nghiêm nghị, Blake nói:

“Theo tôi nghĩ thì trung úy muốn tra vấn tôi chứ gì? Nào, trung úy cứ hỏi đi.”

Tôi nêu lên ngay cái thắc mắc của tôi:

“Tại sao anh phải đến sống ở cái nông trang kệch cỡm của Pin City này?”

“Trung úy phải hiểu cho rằng Pénélope Calthorpe là một người rất thân thiết với tôi và chúng tôi sắp sửa kết hôn với nhau. Vì nàng mơ ước được trở thành một diễn viên truyền hình nên tôi quyết định theo nàng về đây để, nếu có thể được, giúp đỡ nàng đôi chút và nâng đỡ tinh thần nàng. Nhưng, vì tôi không quen cái không khí tù túng của một căn phòng khách sạn nên tôi đã đến thuê phòng ở khu du lịch này” Y cười khẩy. “Nếu nói đây là một nông trang thì không phải! Đúng ra đây là một ổ điếm hạng sang. Nhưng tôi không quan tâm đến chuyện đó vì ít ra tôi có thể đến đây để tập tác xạ.”

Bước đến bên chiếc du lịch, y mở cửa và chúng tôi vào ngồi ở băng trước. Ở trong này còn nóng hơn cả bên ngoài.

Tôi hỏi:

“Tối hôm kia anh ở đâu?”

“Ở nông trang. Hôm đó tôi đi ngủ sớm bởi tôi quá chán những người ở chung quanh. Thành thật mà nói, họ không phải là hạng người cùng giai cấp với tôi. Vì vậy, tôi ăn tối thật sớm, uống một ly rượu trước khi lên phòng và ngủ vào lúc chín giờ.”

“Anh mướn hẳn một căn nhà trong khu du lịch?”

“Vâng, một căn nhà gỗ. Ở đây họ gọi là “căn lều”. Ít ra tôi cũng được sống một mình, êm ả, không bị ai quấy rầy. Suốt đêm, cho đến gần sáng, văng vẳng vẫn là tiếng đàn bà đùa giỡn nhưng dẫu sao, so với trong rừng rậm thì khá yên ổn hơn!”

Tôi đột ngột chuyển sang vấn đề khác:

“Hình như trước đây anh có kết hôn với Prudence Calthorpe thì phải?”

“Vâng, đúng thế.”

Y nói lên điều này bằng một giọng lạnh lùng. Rõ ràng là y ít khi đề cập đến chuyện này trong giới thượng lưu của y và đương nhiên chưa từng thổ lộ đời tư cho một nhân viên cảnh sát.

Tôi hỏi tiếp:

“Như thế là anh đã quen biết với Pénélope khi cô ấy còn là vợ của Howard Davis?”

“Vâng.”

“Phải chăng có một kẻ nào đó hẳn phải thù hận Davis đến nỗi đã ra tay ám hại ông ấy như thế?”

Blake nhún vai:

“Khi bị chích bởi một con muỗi thì ta chỉ cảm thấy ngứa ngáy qua loa và thế là ta đập chết nó. Nhưng chuyện rắc rối mà Davis có thể gây ra cho thiên hạ chẳng khác gì là sự ngứa ngáy qua loa… Tuy vậy, tôi không nghĩ rằng có ai nỡ dang tay đập chết…”

Y cau mày, nghĩ ngợi một lúc.

“Xác chết của Davis đã được phát hiện ngay trong buổi diễn xuất của Pénélope. Đây là một trò chơi có đôi chút âm hưởng của Prudence… Hẳn cô ấy cho như thế là ngồ ngộ!…”

Tôi mời Blake điếu thuốc. Y nhận lấy và rút cái hộp quẹt Dunhill vàng ra để mồi.

Sau khi từ tốn hút một hơi thuốc, y hỏi:

“Trung úy có cần biết thêm điều gì nữa không?”

Tôi quay đầu lại để nhìn bảng sưu tập vũ khí để ở sau xe và thốt lên:

“Quả là một bộ sưu tập tuyệt đẹp!”

Blake mỉm cười thích thú:

“Đây là cái gia đình nho nhỏ của tôi. Khẩu Winchester này là món mà tôi mới tậu gần đây nhất. Ông thấy đó, cạnh nó là khẩu Weatherbu Magnum và kề bên là ba khẩu súng trường hai nòng mà tôi đã giữ từ nhiều năm nay. Còn hai cây kia thì một cây là Marlin 455 và cây kế đó là Higgins 270.”

“Sức công phá có mạnh không?”

“Có thể giết chết một con sơn dương, nhưng với một con voi thì không nên đâu… nếu không có tôi ở bên cạnh!”

“Anh có mang theo súng ngắn không?”

Y vươn tay ra sau và mở nắp chiếc hộp gỗ:

“Tuyệt vời không trung úy? Trung úy hãy nhìn kỹ đi. Đây là khẩu Luger 357, một món để ta mang theo phòng thân khi đi săn. Nó có đủ cỡ nòng kể cả nòng dài 22. Tha hồ mà chọn!”

“Thế anh có khẩu 38 nào không?”

Blake mỉm cười với vẻ khôi hài.

“Trung úy muốn bẫy tôi chứ gì? Theo tôi nghĩ thì Davis đã bị sát hại bởi một viên 38 và nếu tôi bảo rằng tôi không hề sử dụng loại súng đó thì ông sẽ nghi ngờ tôi ngay. Có phải thế không?”

“Anh khôn thật! Nhưng anh có muốn trả lời tôi hay không chứ?”

“Vâng, tôi có một khẩu 38.”

Y cầm lấy khẩu súng ngắn đang treo trên giá và trao cho tôi. Đây là một khẩu Smith Wesson còn mới toanh.

Tôi hỏi:

“Anh mua cây này đã lâu chưa?”

“Khoảng ba tháng nay. Tôi vẫn chưa sử dụng nó. Chắc có lúc tôi phải mang nó ra bắn thử mới được…”

Tôi trả lại cây súng cho y:

“Trông còn ngon lành lắm.”

Blake quay lui bỏ nó ở phía sau rồi lại nhìn tôi. Ánh mắt của y thoáng vẻ nôn nóng.

Y nhận xét:

“Ở trong này nóng quá. Thưa trung úy, như thế là đủ rồi chứ?”

“Còn một câu nữa mà tôi muốn hỏi anh. Anh có quen biết hay nghe ai nói đến một gã tên là John Kẻ Đưa Tin?”

Blake giật mình rồi, như để lấy lại bình tĩnh, y cầm lấy khẩu Winchester 450 và đặt lên đùi. Y lơ đễnh mân mê báng súng.

Một lúc sau, y điềm đạm nói:

“Vâng, tôi có nghe thiên hạ nói về John Kẻ Đưa Tin, không lẽ hắn ta có dính dáng đến vụ án?”

“Ồ, tôi nghĩ là thế! Nhưng có điều là tôi không tóm được hắn. Hắn liên tục gọi điện cho tôi, kể hết điều này đến điều nọ nhưng tôi không tài nào gặp được hắn. Tôi thầm nghĩ phải chăng hắn là một tên nhút nhát?”

Blake quả quyết:

“Nếu trung úy tóm được hắn thì tôi không ngần ngại để nói rằng thế là trung úy đã bắt được tên sát nhân.”

Tôi thắc mắc:

“Anh có biết hắn ta?”

“Vâng, tôi biết khá rõ về hắn.”

Ánh mắt Blake trong có vẻ xa vắng và nham hiểm.

Rồi sau một lúc ngẫm nghĩ, y quay sang hỏi tôi:

“À, trung úy có biết tại sao Prudence đã ly dị tôi không?”

Tôi đáp chung chung:

“Tôi cũng có nghe người ta nói này nọ nhưng miệng lưỡi thiên hạ thì hơi đâu mà tin!”

“Chính John Kẻ Đưa Tin là người đã đưa đẩy chúng tôi đến chỗ đổ vỡ. Như trung úy đã biết, cả hai chúng tôi đều có khuyết điểm và John đã lợi dụng điều đó.”

“Thế à?”

“Biệt tài của hắn là phát hiện điểm yếu của kẻ khác. Và thế là tôi không tránh khỏi… hơn nữa, hắn đã biết khôn khéo khai thác điều này.”

Tôi dè dặt hỏi:

“Liệu anh có thể cho tôi biết rõ hơn?”

“Sở dĩ xảy ra chuyện đó là vì tôi đã từng sống trong một vùng bán khai nhất thế giới. Có điều lạ là một khi ta được nổi danh như là một nhà săn thú tài ba thì thiên hạ đương nhiên nghĩ rằng ta chuyên săn thú ở Phi Châu. Dĩ nhiên là tôi biết quá rõ Phi Châu nhưng ngoài ra tôi còn săn thú ở nhiều vùng khác trên thế giới và tôi có thể đảm bảo với ông rằng ngoài Phi Châu ra, tôi còn biết nhiều vùng man dã hơn nhiều.”

Tôi chưng hửng:

“Không lẽ sự hiểu biết đó chính là khuyết điểm của anh?”

“Không, nhưng sự việc này có thể giải thích một số điều. Như trung úy đã biết, một người đàn ông mà thiếu đàn bà thì phiền lắm, nếu không muốn nói là hầu như không thể chịu đựng nổi. Vì thế vấn đề là phải kiếm cho ra một người đàn bà. Tôi đã từng đi săn trong những vùng hoàn toàn không thể kiếm ra đàn bà da trắng.”

“Thế thì sao?”

Blake đáp ngay, không chút ngại ngùng:

“Thế thì tôi đành phải yêu mấy cô da vàng. Hẳn trung úy cũng thông cảm cho tôi chứ? Là một nhân viên cảnh sát chắc trung úy cũng am hiểu nhiều và không như những kẻ “chăm chỉ hạt bột” vẫn tưởng rằng đời sống là một tiểu thuyết mộng mơ.”

Tôi vội vã gật đầu:

“Vâng, tôi hiểu.”

Blake nhắc lại với một sự khoái trá:

“Ồ! Trung úy biết không… đàn bà da màu. Họ thu hút tôi bởi một vẻ duyên dáng cá biệt. Phụ nữ người Hoa, Nhật Bản, Indonesia… bất kể họ là dân nước nào… Điều quan trọng là màu da của họ… Nếu trình bày vấn đề này với một bác sĩ tâm lý thì ông ta có thể giải thích được cho tôi, nhưng tôi chắc muốn hỏi han làm gì. Tôi chỉ đơn giản là thế đó, tôi ăn khi đói và nếu có một thằng ngốc nào muốn giải thích cho tôi hiểu rằng sở dĩ tôi đói là tại vì tôi chưa ăn thì liệu điều đó có giúp tôi được gì chứ? Tôi…”

Tôi nhắc khéo y:

“Lúc nãy anh bắt đầu kể cho tôi nghe về chuyện của John Kẻ Đưa Tin.”

Blake gật gù:

“Vâng, tôi biết chứ! Từ nãy đến giờ, tôi chưa đi lệch ra khỏi vấn đề. John chính là người đã am hiểu cái thói xấu của tôi và đương nhiên Prudence cũng là kẻ đã toa rập với hắn. Thế là nàng đã viện cớ đi xa trong vòng tám ngày, để tôi ở nhà một mình với đám người làm, nhưng nếu chỉ thế thôi thì làm gì có chuyện. Vào tối thứ tư sau khi nàng vắng nhà, một cô bé người Hoa thật đẹp, tưởng chừng vừa thoát ra từ cõi mộng, đã gọi cửa nhà tôi. Sau này tôi mới biết nàng là một vũ công chuyên múa thoát y trong một hộp đêm ở Chinatown, San Francisco. Hôm đó trời đã về khuya, hẳn là quá nửa đêm và những người giúp việc của tôi đều ngủ cả vì vậy chính tôi là người đã đích thân ra mở cửa. Xe cô nàng bị chết máy” đây là điều mà nàng nói với tôi, nhưng nhìn qua ánh mắt thì tôi biết là không phải như thế… Xem chừng cô ta ưa thích mẫu người như tôi (Blake đằng hắng với vẻ nhún nhường). Phải nói rằng tôi là mẫu người vốn được phụ nữ mến mộ…

Tôi góp ý:

“Mặc cảm tự tôn của phụ nữ sẽ được thỏa mãn hơn nếu họ có thể chinh phục một tay săn thú lừng danh như anh! Hay có thể là họ cảm thấy say mê những cơ bắp của anh.”

“Tôi chẳng hiểu nữa… Nói tóm lại, đúng vào cái lúc hấp dẫn nhất thì John Kẻ Đưa Tin bất thần xuất hiện đi kèm với hai nhiếp ảnh viên cực kỳ xông xáo… (Blake lạnh lùng liếc nhìn tôi). Trung úy phải hiểu là tôi rất ghét cái chuyện này… và lúc đó tôi rất bực mình! Trung úy biết không, cả hai chúng tôi đều trần truồng, hoàn toàn chết cứng dưới ánh flash liên tục nhá lên khắp nơi.”

Ở trong tủ của tôi có một khẩu súng săn, cây súng mà tôi cưng nhất và đã nạp sẵn đạn. Như ban nãy tôi đã nói, tôi rất bực mình vì cái chuyện này vì vậy tôi đã chụp lấy cây súng với mục đích là dạy cho chúng một bài học về phép sống lịch sự nhưng trước khi tôi kịp nã đạn thì John đã giựt tay và… (nhớ đến đó, Blake suýt nghẹn họng vì tức tối)… bẻ đôi nó lại! Sau đó, hắn trơ tráo trao lại cho tôi!

Tôi nói với một vẻ cảm thông:

“Chà, khó nuốt dữ! Như thế là Prudence đã có thể ly dị với anh mà không mất một xu teng nào?”

“Tôi đâu thèm cái thứ tiền dơ bẩn của cô ấy! Bản thân tôi cũng có đủ mọi thứ. Nhưng điều mà tôi không thể tha thứ cho John là hắn đã xem tôi như là một thằng ngốc! Tôi cần bắt hắn phải trả món nợ này.”

Một lần nữa Blake đắc ý vỗ vào vào báng súng Winchester của y.

Tôi hỏi:

“John là người như thế nào?”

“Đúng là một tên khổng lồ. Hắn còn to cao hơn cả tôi với mái tóc dài, quá dài và quăn thành từng lọn ở gáy, đúng theo model của những thằng vai u thịt bắp biểu diễn trên truyền hình. Tóc của John vàng óng, dịu dàng. Tuy vậy hắn không phải là một gã hiền hòa! Hắn là một người nguy hiểm, không còn chút lương tri. Đối với hắn, chỉ có tiền là tất cả và nếu được trả đúng mức thì hắn có thể làm bất cứ điều gì, kể cả giết người.”

“Phải chăng có kẻ đã mướn hắn giết Howard Davis?”

Blake gật đầu, dứt khoát:

“Tôi nghi đây là chuyện đương nhiên rồi. John luôn ra tay với một điều kiện nào đó. Hắn không biết đùa và mục tiêu của hắn là tiền!”