Đắm Đuối

Chương 2

Thả một hơi thuốc, cảnh sát trưởng Lavers khoan khoái ngả người ra sau ghế. Ông hài lòng nói với tôi:

“Này Wheeler, bây giờ chúng ta bàn sang phần đầu của sự việc. Cậu đồng ý với tôi chứ?”

Tôi đáp ngay:

“Đây là một ý kiến rất hay. Tuy nó không đưa đến đâu cả nhưng dẫu sao thì chúng ta cũng không thể bỏ qua.”

Cảnh sát trưởng Lavers gật gù:

“Ban đầu là chuyện mất tử thi ở nhà xác. Rồi cậu đến đó và có một cú điện thoại nặc danh chỉ cho cậu biết là cái tử thi đó hiện đang ở đâu. Cậu đã làm theo lời chỉ dẫn và tìm thấy cái xác…”

“Ở trong một studio truyền hình, đúng vậy. Nhưng theo tôi nghĩ thì cái xác đó chẳng là gì với chúng ta cả.”

“Xin lỗi, trung úy nói như thế là bậy đấy! Đối với thân nhân kẻ mất tích thì đây là một điều rất quan trọng!”

Tôi gật đầu, đành phải công nhận điều ông Lavers nói là rất phải và đương nhiên là người ta có khuynh hướng quan tâm đến cái xác vô thừa nhận.

Lavers nói thêm bằng một giọng gay gắt:

“Cậu chớ quên rằng ngoài chuyện mất xác vừa kể, bọn chúng còn đánh gục nhân viên bảo vệ nhà xác nữa!”

“Vâng, ông ấy đã bị đánh vào đầu đến hôn mê. Nhưng điều đó đâu có nói lên gì? Tất cả mọi người khi gặp Charlie đều muốn giáng cho ông một phát. Ngay cả tôi cũng thế, cứ gặp ông ta là tôi muốn đấm vào mặt.”

Lavers ngạc nhiên:

“Cậu không thích Charlie à?”

“Thú thật là tôi chưa bao giờ thắc mắc là mình có thích lão hay không và tất cả những gì mà tôi biết đó là mỗi khi có dịp tiếp xúc với ông ấy là tôi cảm thấy ngứa ngáy chân tay… Có thể đây là một phản xạ có điều kiện… Nhưng này, thưa ông cảnh sát trưởng, tôi phải công nhận rằng Charlie là ông vua gây hấn!”

“Chuyện đó không hề gì! Chúng ta cần phải nhớ rằng Charlie là một nhân viên nhà nước và chính sở cảnh sát đã bổ nhiệm ông sang đó để làm trưởng ban bảo vệ. Riêng tôi, tôi thấy rằng cái xác đầu tiên là của người chết một cách tự nhiên” cảnh sát không có gì phải can dự vào chuyện này. Cái xác thứ hai thì lãnh một viên 38 vào ngực và đây chính là điều mà chúng ta cần phải điều tra. Vậy chúng ta đã biết tung tích của cái xác sau này chưa?

Tôi lắc đầu:

“Hình như chẳng có ai quen biết với nạn nhân. Người ta chỉ đơn giản biết rằng đó là một người đàn ông trạc độ ba mươi lăm tuổi và đã bị bắn chết. Cũng may là tôi chưa bị buộc phải viết một báo cáo đầy đủ về người bị nạn!”

Lavers cay cú nhận xét:

“Các nhật báo sáng nay đều đăng bản tin đó, và đăng ngay trang đầu nữa chứ! Vậy thì suốt đêm qua cậu làm gì? Ngủ à?”

“Thưa, ông muốn nói là từ tảng sáng đến giờ? Xác chết được phát hiện vào lúc một giờ mười và vào lúc ba giờ rưỡi tôi đã rời hiện trường để về nhà. Bây giờ là chín giờ rưỡi của cùng một buổi sáng và… vâng, tôi đã ngủ.”

Lavers rút cái ống vố ra khỏi miệng, nhìn nó một lúc với vẻ khinh tởm rồi liệng nó lên bàn giấy. Chỉ mười giây sau là cảnh sát trưởng Lavers đã mồi một điếu xì gà khác.

Lavers làu bàu:

“Không lẽ hắn ta tự động nằm vào trong quan tài à!”

“Có kẻ nào đó đã chơi trò xỏ lá… Nửa tiếng đồng hồ trước buổi trình diễn, quan tài vẫn còn nằm trong kho đạo cụ, với bên trong là một con quỉ nhỏ bằng bìa vậy mà khi mở nắp quan tài ra thì đó lại là một xác chết. Còn thằng quỉ nhỏ thì sau đó người ta đã tìm thấy trong một chiếc rương cũ!”

Vẻ nhẫn nại, Lavers gật gù:

“Được, vậy thì ai là kẻ đã hoán chuyển như thế? Ai là người có khả năng làm điều đó?”

“Tất cả những người hiện diện trong các studio đều có thể xâm nhập vào đấy một cách dễ dàng! Tôi nghĩ như vậy và chúng ta không cần phải tìm kiếm đâu xa. Toán làm việc ca đêm không có bao nhiêu người; ở cổng chính thì chỉ có một nhân viên bảo vệ trong khi những cửa ở phía sau không được khóa, hơn nữa cái kho chứa đạo cụ ở cuối tòa nhà nên bất cứ ai cũng có thể vào đó để vứt một cái xác.”

“Theo cậu, động cơ chính của vụ án này là gì?”

“Làm sao tôi có thể hiểu được khi chưa rõ tung tích nạn nhân?”

Lavers gừ lên một tiếng và thả khói xì gà vào mặt tôi:

“Wheeler à, theo tôi nghĩ, cậu chẳng chút tiến bộ gì!”

Tôi ngạc nhiên trước câu nói này:

“Thưa, sao ạ?”

“Cậu không nên ngồi đó mà than với thở. Cậu phải làm gì đi chứ!”

“Thế thì tôi phải chạy ra ngoài đường để kêu cứu mọi người giúp đỡ vậy.”

Lavers bực tức:

“Đây là chuyện của riêng chúng ta!”

“Điều đó không ngăn chúng ta yêu cầu sự trợ giúp của Biệt Đội Hình Sự.”

“Này Wheeler, tôi hết biết cậu rồi!”

“Thưa ông, tại sao ạ? Chúng ta có thiệt thòi gì đâu. Theo như sự việc xảy ra thì họ chỉ mất khoảng một tuần là biết rõ tung tích nạn nhân. Với chúng ta thì phải mất khoảng từ một, hai năm…”

Lavers cau mày:

“Được rồi, tôi sẽ đưa trung sĩ Polnik sang tiếp tay với cậu.”

Tôi cay đắng nói:

“Ồ! Nếu được sự trợ giúp của trung sĩ Polnik thì ta sẽ mất khoảng năm năm để phá án. Thưa ông, tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên nhờ đến Biệt Đội Hình Sự.”

Cảnh sát trưởng Lavers gừ lên một tiếng và ngả người ra sau với vẻ thoải mái. Ông xếp hai tay trước bụng và chăm chú nhìn tôi, không nói năng gì. Tôi thấy trong ánh mắt ông lóe lên một thứ ánh sáng tinh quái, nhưng tôi chẳng thể đoán được điều gì.

Một lúc sau, ông vui vẻ nói:

“Cậu nói nghe lạ quá! Nếu tôi không lầm thì vào dạo trước, cứ mỗi lần tôi muốn nhờ đến Biệt Đội Hình Sự thì cậu luôn luôn ngăn cản và hầu như không muốn nghe nhắc đến họ! Tôi còn nhớ là cậu vẫn hay nói, “Chúng ta không cần phải nhờ đến họ”. Và cậu hiểu dạo đó tôi phải khổ sở biết bao để thu xếp với những chính khách, dân biểu và các viên chức chính phủ để họ làm ngơ cho cậu mặc sức tung hoành!”

Tôi vội vã gật đầu:

“Vâng, tôi biết điều đó chứ.”

Cảnh sát trưởng Lavers cười khẩy; nụ cười này báo cho tôi biết rằng sẽ chẳng có gì là tốt đẹp. Lúc này, bộ mặt của Lavers trông chẳng khác gì là một công tước.

Ông nói bằng một vẻ lịch sự lạnh lùng:

“Này Wheeler, hình như cậu đã quên một điều gì đó rồi. Trước khi được chuyển sang công tác với tôi thì cậu là một trung úy của Biệt Đội Hình Sự mà?”

“Thưa ông, đúng vậy.”

“Sở dĩ tôi đã yêu cầu cấp trên chuyển cậu sang đây là để cậu đặc trách về những vụ trọng án trong vùng này. Vậy thì điều gì đã xảy ra để cậu phải ăn nói như thế? Bộ cậu không muốn lãnh lương nữa à?”

“Thưa ông, nếu có thể kiếm được một công việc nào khác thì có lẽ tôi cũng xin thôi việc, nhưng vì tôi chưa tìm thấy một công việc hợp ý nên…”

Lavers mỉm cười đầy vẻ khó chịu:

“Wheeler à, thế thì tôi xin tặng cho cậu cái vụ án đó! Cậu phải khổ nhọc vì nó để cho tôi được ngồi đây và hút xì gà…”

Rồi mắt ông lóe lên ánh hy vọng và ông nói tiếp, giọng mộng mơ:

“Và biết đâu trong thời gian này tôi sẽ có dịp quen biết với một em tóc vàng!”

“Muốn vậy thì ông phải ăn kiêng mới được chứ người cứ béo phệ như ông thì không em nào dám đâu! Thưa ông, vậy tôi có phải viết báo cáo cho ông mỗi ngày?”

Ông trở nên rộng lượng:

“Tôi cho cậu toàn quyền quyết định!”

Tôi đáp khi đứng dậy:

“Vâng, thế thì tôi làm theo ý ông vậy.”

Lavers cười khẩy:

“Cậu chớ có phiền phức để nặn óc mà viết báo cáo. Chuyện đó có thể gác lại sau này cũng được… Điều quan trọng là cậu làm sao để áp giải tên sát nhân về đây. Tôi mong được cậu dành cho tôi cái ngạc nhiên đó.”

Tôi trố mắt:

“Tại sao lại phải như thế, thưa ông cảnh sát trưởng? Thú thật mà nói thì ông đã làm tôi phải bồn chồn lo lắng!”

Với một vẻ hài lòng, Lavers nói:

“Riêng lần này, đây là một vụ án không trực tiếp can dự gì đến tôi. Tôi không bị ai đặt vấn đề trong vụ này cả. Báo chí không thể nêu tên tôi để phỉ báng và cáo buộc rằng tôi là kẻ tham ô, đồng lõa này nọ và không ai có thể thúc hối tôi phải đưa ra lời giải đáp cho cái bí ẩn này. Cậu có biết tại sao như thế không? Bởi vì không ai quen biết với nạn nhân nên cũng chẳng có ai thưa kiện này nọ! Nhưng, nếu trong vài ngày tới đây, tôi chuyển vụ này sang cho Biệt Đội Hình Sự với lý do là cậu không đủ khả năng để tiến hành cuộc điều tra thì thử hỏi ai sẽ là người lãnh đủ?”

“Thì tôi… nhưng với tôi, đây là lần đầu tiên trong khi ông thì đã nhờ vả đến họ rất nhiều lần.”

Lavers vẫn tiếp tục mỉm cười một cách trịch thượng:

“Nhưng từ lâu nay người ta vẫn đồn rằng cậu là một trung úy tài ba trong việc phá án và như thế thì còn đâu cái huyền thoại của cậu.”

Nói đến đó, ông bỗng cười lớn vì thích thú.

Tôi bẻ lại:

“Xin cảm ơn cái huyền thoại đó. Nhưng, trái với điều ông tiên liệu, bây giờ người ta không cần đến một trung úy như tôi nữa, bởi đây không phải là chuyện vụ án đơn thuần mà còn là chuyện đối đầu với chị em nhà Calthorpe.”

“Tại sao có chuyện đó?”

“Nhắc đến chị em nhà này là tôi không quên cái vụ đùa bỡn kinh khiếp của Prudence Calthorpe. Cái trò quái gở này đã diễn ra trong một khách sạn sang trọng ở Miami. Tôi không hiểu ai là người đã đứng ra thuê mướn gian “Thượng Tầng” của khách sạn này để tổ chức dạ vũ, nhưng hôm đó Prudence không phải là khách mời, tuy nàng có thuê phòng tại đây. Nàng chờ đến giữa đêm và liệng nửa tá lựu đạn khói, món đồ chơi ưa thích của nàng, vào hành lang. Sau đó nàng chụp lên đầu một mái tóc giả rồi đốt cháy mái tóc, nàng chạy ào vào phòng dạ vũ miệng la inh ỏi: “Cháy! Cháy! Cứu tôi!”.”

“Và thế là chấm dứt buổi dạ vũ?”

“Vâng và đồng thời cũng chấm dứt hai mạng người. Trông thấy khói bốc lên, hai vị khách đã quá hoảng sợ và nhảy bừa ra cửa sổ.”

Lavers không còn giữ vẻ xấc xược.

“Thú thật với cậu là tôi đã quên mất cái vụ này” Ông trầm ngâm nói. “Theo cậu thì chị em nhà Calthorpe có dính dáng gì đến án mạng hồi đêm?”

Tôi chăm chú nhìn ông ta một hồi rồi nói bằng một giọng rất đứng đắn:

“Vào lúc này, tôi đang tự hỏi chẳng hay ông có phải là cảnh sát trưởng Lavers hay phải chăng chỉ là Prudence Calthorpe hóa trang thành cảnh sát trưởng Lavers.” Tôi nhún vai. “Hiển nhiên, ông đang để lộ…”

Lavers hét lớn:

“Cút đi mau!”

Tôi bước ra khỏi phòng và để cửa mở, nhằm cho ông ta phải đứng dậy và đóng cửa lại. Phòng sát bên là bàn giấy của tôi và một cô thư ký mà theo tôi nghĩ thì có thể xuất hiện trong chương trình của Bruno mà không cần phải hóa trang gì nữa. Tôi dừng lại trước bàn làm việc của cô và lấy hết can đảm, tôi nhìn thẳng vào mặt cô và nói bằng giọng nghiêm nghị:

“Hoa Phương Nam đâu rồi?”

“Thưa, nếu trung úy muốn hỏi về Cành Hồng Texas thì cô ấy đã nghỉ phép rồi” nàng ta trả lời bằng một giọng vịt đực.

“Annabelle Jackson nghỉ phép rồi à? Sao chẳng ai cho tôi hay vậy?”

“Vâng, tôi là người thay thế công việc cho cô ấy trong ba tuần.”

Tôi buồn bã bước về bàn giấy của mình và thầm nghĩ, những ngày làm việc ở đây mà thiếu vắng Annabelle thì tẻ nhạt biết dường nào. Và đời sống lại càng buồn chán hơn khi phải điều tra về một xác chết vô thừa nhận và viễn cảnh phải làm việc với trung sĩ Polnik… Rồi nghĩ đến cô bé tóc vàng đêm qua, tôi lại càng nản hơn: khi trở về căn hộ vào lúc tờ mờ sáng tôi biết nàng đã bỏ đi và trên bàn ngủ chỉ là một mảnh giấy với ba chữ vỏn vẹn, “Em yêu anh” - một dòng chữ mà tôi nghĩ là còn tệ hại hơn là nàng lớn tiếng nguyền rủa tôi.

Tôi quay sang hỏi cô thư ký:

“Hôm nay là chủ nhật, vậy tại sao cô không nghỉ mà còn làm việc ở đây?”

“Bởi vì ông cảnh sát trưởng có việc khẩn cấp cần phải giải quyết. Vào lúc này tôi ăn lương phụ trội vậy yêu cầu trung úy chớ có quấy rầy tôi, như thế tốn kém cho ngân sách lắm!”

Có tiếng chuông điện thoại reo lên và tôi vươn tay cầm lấy ống nghe.

Ở đầu dây bên kia là giọng nói lịch sự của một người có văn hóa:

“Xin lỗi, tôi có thể nói chuyện với trung úy Wheeler được chứ?”

“Vâng, tôi nghe đây!”

Giọng nói nhã nhặn ngỏ lời:

“Thưa trung úy, tôi muốn báo cho trung úy một tin. Tôi rất bực…”

“Thì tôi cũng thế! Xin lỗi, ông là ai?”

“Tôi là người vốn muốn mọi vật phải được đặt ở đúng chỗ của nó. Mọi việc phải đâu vào đấy, vậy mà giờ đây có một điều tôi không hiểu nổi. Thưa trung úy, phải chăng trên đời này có những người đàn bà có thể quên đi rất nhanh người chồng của họ?”

Tôi lầu nhầu:

“Thế thì tôi đề nghị ông nên biên thư đến mục giải đáp tâm tình của các báo và họ sẽ trả lời cho ông ngay.”

Giọng nói vẫn tiếp tục, không chút tức tối:

“Tuy cô ấy đã ly dị chồng nhưng dẫu sao thì cô cũng phải nhận ra ông ta ngay chứ. Đồng ý rằng ông ta không phải là danh thủ quần vợt nhưng dẫu sao chăng nữa thì cô ấy không thể quên hẳn cả tên tuổi, cả dáng dấp, cả khuôn mặt. Cô ấy cứ làm như ông ta không là gì cả! … Tôi thấy đây là một điều quái lạ.”

“Vâng, tôi hiểu. Ông cứ việc nói tiếp đi.”

“Thưa trung úy, tôi không muốn làm ông phải mất thì giờ. Cứ theo như tin tức đăng trên báo thì hẳn lúc này ông đang bận lắm. Vậy tôi xin đơn giản trình bày với ông ràng: cái xác dễ thương nằm trong quan tài chính là một người mang tên Howard Davis, một tay chơi quần vợt chuyên nghiệp tuy không mấy nổi tiếng vì ít tranh tài. Tôi muốn nói Davis là một huấn luyện viên cho các bà, các cô của một câu lạc bộ…”

Tôi hỏi ngay, tuy không chút hy vọng được làm sáng tỏ:

“Còn ông, ông là ai?”

“Thưa trung úy, theo tôi nghĩ thì điều này chẳng có gì là quan trọng. Trung úy có thể xem tôi như là một người bạn, nếu muốn. Và, nếu chịu xem tôi như bạn thì tôi xin đề nghị với trung úy một điều này: trung úy hãy hỏi cô Pénélope Calthorpe là lại sao cô không thể nhận ra người chồng cũ của cô ấy?”

Tiếng gác máy đột ngột làm tôi tá hỏa trong khi tôi đang chực hỏi han thêm đôi điều.

Tôi đặt ống nghe xuống và đứng đó một lúc, sững sờ với những ý nghĩ xám xịt. Nhưng, dẫu có cân nhắc, suy tính gì đi nữa thì tôi chẳng biết phải làm gì khác hơn là tuân theo lời khuyên của người giấu tên đó. Nếu “ông bạn” này còn gọi đến để thông báo cho tôi một tin tức gì nữa thì lần đó hẳn tôi phải dùng tiếng “Thưa Ngài” một cách lịch sự bởi chính “ông bạn” này mới là kẻ đang định đoạt công việc của tôi.