Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Napoleon Bonaparte

Chương XVII

Trên Đảo Saint Helena

1

Đầu thế kỷ thứ XVI, Vasco da Gama, một trong những người Bồ Đào Nha thám hiểm vùng bờ biển phía Nam Đại Tây Dương đã tìm thấy một hòn đảo nhỏ bé, hoang vu ở vĩ tuyến Nam 15 độ rưỡi. Ngày ấy là ngày 21 tháng 5 năm 1501, theo lịch của nhà thờ Thiên Chúa Giáo là ngày Đức Saint Helena. Do đó tên ấy đã được dùng để đặt tên cho đảo. Vào thế kỷ thứ XVII, đảo thuộc người Hà Lan, nhưng đến năm 1673 đã bị người Anh vĩnh viễn cướp đoạt. Công ty Phương Đông của Anh đã dùng đảo làm một chặng đường dừng tàu trên đường Anh - Ấn.

Ngay sau khi được tin Napoléon đã ở trên tàu Bellerophon, Chính Phủ Anh bèn quyết đày Napoléon ra đảo. Bờ biển Châu Phi là nơi gần nhất cũng cách đảo ngót 2.000km; từ nước Anh đến đảo Saint Helena, tàu buồm của thời đó phải đi từ hai tháng rưỡi tới ba tháng. Vị trí địa dư ấy của đảo đã ảnh hưởng quyết định đến nghị quyết của chính phủ Anh. Sau Một Trăm Ngày, hình như Napoléon còn đáng sợ hơn cả trước khi diễn ra hành động cuối cùng của thiên hùng ca của ông. Nếu như ông lại xuất hiện trên đất Pháp thì lại một lần nữa đế chế có thể tái sinh và một cuộc chiến tranh mới ở Châu Âu lại có thể nổ ra.

Nằm chơi vơi giữa biển cả mênh mông, xa xôi với mọi khu vực đất liền, đảo Saint Helena đã là một đảm bảo để Napoléon không trở về. Những nhà thơ lãng mạn và khuynh hướng viết sử dân tộc chủ nghĩa của Pháp đã coi hòn đảo là nơi mà người Anh lựa chọn dành riêng vào việc đày đọa cho người tù binh của họ chóng chết. Sự thật không phải thế. Khí hậu ở đảo Helena rất tốt lành. Vào tháng nóng nhất, nhiệt độ trung bình ban ngày khoảng 24 độ, tháng lạnh nhất là 18 độ rưỡi. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 21 độ. Ngày nay, ở đó chỉ còn ít những cánh rừng lớn, nhưng trước đây một thế kỷ, đảo còn rất rậm rạp. Nước ăn trong lành thơm tho, mưa nhiều nên đất đai ẩm ướt, cây cỏ um tùm tươi tốt, chim muông ríu rít. Đảo rộng 122km vuông, vách đá dựng đứng, xanh ngắt dường như trong lòng biển cả mọc ra.

Khi người ta báo Napoléon rằng sẽ bị đưa ra tàu buồm Northumberland đi Saint Helena, ông đã phản đối rằng người ta không có quyền coi ông ta là tù binh. Sau hai tháng rưỡi lênh đênh trên mặt biển, ngày 15/10/1815, chiếc tàu đã đưa Napoléon đến đảo và ông đã sống những ngày cuối cùng ở đó.

Số người theo Napoléon đi đày rất ít, vì phần lớn những người xin đi theo Napoléon ra đảo Helena đã bị Chính Phủ Anh từ chối. Cùng đi với ông chỉ có vợ chồng Thống Chế Bertrand, vợ chồng tướng Montholon, tướng Gourgaud, Las Cases và con trai. Ngoài ra còn có người hầu phòng Marchand và vài người hầu phòng khác, trong đó có Santini, người đảo Corsica. Đầu tiên Napoléon ở một ngôi nhà không tốt lắm, sau đó đến một ngôi rộng rãi hơn một chút thuộc quyền cai trị của đô đốc Corbière, từ tháng tư năm 1816 cho tới khi Napoléon chết thì đặt dưới quyền cai trị của viên toàn quyền Hudson Lowe. Lowe là một quân nhân cục cằn, đần độn và thiển cận. Hắn sợ mọi thứ trên đời và sợ nhất là người tù của hắn. Sợ trách nhiệm, chỉ lo Napoléon trốn mất nên hắn sống trong lo lắng khủng khiếp. Trong khi ấy, theo chỉ thị của Chính Phủ Anh thì Napoléon được tự do, đi đâu, muốn đi bộ, hoặc cưỡi ngựa, muốn tiếp ai hay không là tuỳ Napoléon. Ngay từ đầu, Napoléon đã không ưa Hudson Lowe. Napoléon thường không tiếp Lowe, không dự tiệc do Lowe mời ”tướng Bonaparte” (nước Anh tuyên chiến với Napoléon từ năm 1803, từ thời Napoléon chưa lên ngôi Hoàng Đế). Trên đảo cũng có đại diện của các cường quốc: Pháp, Nga, Áo. Đôi khi Napoléon tiếp các hành khách người Anh hay người nước khác, khi họ dừng lại ở Helena, trên đường đi Ấn Độ, hay Châu Phi, hoặc khi họ quay trở về.

Một đội quân được phái đến bảo vệ đảo, đóng ở Jamestown, cái thị trấn nhỏ độc nhất ở Helena, cách Longwood khá xa. Đáng chú ý là các sĩ quan và binh lính của đội quân bảo vệ này không những chỉ tỏ vẻ kính trọng Napoléon, mà đôi khi còn bộc lộ chút tình cảm có tính chất sùng bái. Binh lính thường gửi hoa tặng Napoléon và xin những người hầu cận cho họ được trộm xem mặt Napoléon. Lâu về sau, khi nói đến người tù đã làm họ phải sống nhiều năm trên một hòn đảo hoang vu, cô quạnh, không phải các sĩ quan đã không tỏ ra có thiện cảm. Những mối cảm tình ấy đã không thoát khỏi sự chú ý của các nhân viên những cường quốc có nhiệm vụ giám sát Napoléon ở Helena. Bá tước Balmain, đại diện cho Aleksandr đệ nhất tuyên bố: ”Điều lạ lùng nhất là người tù binh bị mất ngôi, bị canh gác bốn bề vẫn dội ảnh hưởng đến tất cả những ai đến gần ông ta...Những người Pháp thì run lên trước con mắt ông ta và họ coi rằng được phục vụ ông ta là một niềm hạnh phúc thực sự... Những người Anh thì tỏ thái độ sùng kính khi đến gần ông ta. Ngay cả những người canh gác ông ta cũng cầu mong được ông ta nhìn họ, tìm cách để được ông ta nói với họ, dù chỉ là một đôi tiếng. Không một ai dám cư xử ngang hàng với ông ta”.

Cái triều đình bé nhỏ của Napoléon, đã theo ông ta đảo Saint Helena và đóng đô với ông ở Longwood, cũng cãi cọ, đối phó với nhau đúng như khi còn ở Paris, trong cung điện Tuileries. Las Cases, Montholon, Gourgaud thì tôn sùng Napoléon, coi Napoléon là Thượng Đế của họ, và ghen tị lẫn nhau. Gourgaud đã đi tới chỗ đòi đánh nhau với Montholon, chỉ đến khi ông Hoàng Đế nổi giận can thiệp vào mới chấm dứt được cuộc cãi lộn. Ba năm sau, Napoléon đã viện nhiều cớ để trả Gourgaud về Châu Âu, thật ra chỉ vì Napoléon đã quá mệt do đầu óc mê tín dị đoan và tính nết kỳ cục của Gourgaud. Napoléon cũng đã phải chia tay với Las Cases, người mà Hudson Lowe đã bức phải rời đảo vào năm 1818. Las Cases đã ghi lại những cuộc chuyện trò với Napoléon, thường do chính Napoléon đọc cho viết, và trong số những bút ký viết về Helena thì chắc hẳn những ghi chép ấy là một công trình đáng chú ý nhất. Khi Las Cases phải đi, Napoléon đã không tìm được người thư ký nào làm tròn nhiệm vụ và có học thức như vậy để thay thế. Vì vậy, chúng ta được biết rất ít về những năm cuối cùng của ông Hoàng Đế.

2

Tuy không hề thổ lộ với cái triều đình bé nhỏ của ông, nhưng tất cả đều nhận thấy Napoléon sầu muộn u uất. Đâu phải vì những sự quấy nhiễu của Hudson Lowe, bởi chung những sự quấy nhiễu ấy dù có ti tiện và khó chịu đến đâu cũng không thể làm Napoléon bị tổn thương sâu sắc, vả chăng với Napoléon, có bao giờ ông thừa nhận Hudson Lowe là viên toàn quyền cai trị ông. Cũng không phải vì khí hậu ở đảo, một thứ khí hậu điều hòa và trong lành. Cũng không phải vì đời sống vật chất của ông, chẳng hề kém viên quan toàn quyền. Cái đã giết ông chính là sự ăn không ngồi rồi. Napoléon đọc sách rất nhiều, đi chơi, bách bộ, cưỡi ngựa, đọc cho Las Cases viết. Nhưng lúc cuộc sống đã thu hẹp lại như vậy, sau khi sống cả cuộc đời với những ngày làm việc 15, thậm chí 18 tiếng đồng hồ, thì sự nhàn rỗi ấy đối với Napoléon là điều không sao chịu đựng nổi.

Napoléon che giấu tâm trạng của mình, cố gắng trò chuyện và tỏ ra vui vẻ với mọi người xung quanh và hình như cũng có lúc làm ông khuây khoả đôi chút. Ông đã kiên trì chịu đựng hoàn cảnh của ông. Suốt cuộc đi biển trong con tàu ”Northumberland”, Napoléon đã bắt đầu đọc cho Las Cases, với Montholon, với Gourgaud, những bức thư viết từ đảo cho tới khi người thư ký ấy ra đi. Những cuộc đàm luận với Las Cases, với Montholon, Gourgaud, những ”Bức thư viết từ đảo” do Napoléon đọc và duyệt lại, mà sau này Las Cases xuất bản theo chỉ thị của Napoléon nhưng không ký tên Napoléon, những nguồn tài liệu đó đã không nói lên được sự thật lịch sử của các sự kiện, mà chỉ nêu lên những hình ảnh bên ngoài của chúng như Napoléon mong muốn để lại cho đời sau.

Trong tất cả những ghi chép về những cuộc gặp gỡ ấy với Napoléon, trong tất cả những tập hồi ký đáng tin cậy đôi chút ấy (Hồi ký của Las Cases, của Montholon và của Gourgaud, của Antommarchi và của O’Meara thì chẳng có giá trị gì), người ta có thể rút ra nhiều điều cho tập ”Truyền Kỳ Napoléon”, nhưng rút ra được rất ít chất liệu có giá trị và chân thật giúp cho sự xác định tính chất của chính con người Napoléon và lịch sử triều đại của ông. Thiên ”Truyền Kỳ Napoléon” sau này đã được dùng để đóng một vai trò lịch sử rất tích cực, đã biết tự  sáng tạo trước của Victor Hugo và Heine, Goethe và Schiller, Pushkin và Lermontov, Balzac và Beranger, Mickievic và Tovianski; nó đã bắt đầu sự sáng tạo cùng đội ngũ của các nhà thơ, nhà báo, nhà chính trị và nhà sử học mà tư tưởng và tâm hồn họ, nhất là trí tưởng tượng của họ, đã gắn bó từ sâu sắc rất lâu với nhân vật vĩ đại đó, nhân vật mà sau trận Jena, Hegel cho là hiện thân của lịch sử nhân loại. Thiên truyền kỳ ấy đã bắt đầu tự sáng tạo ở đảo Saint Helena.

Nhưng trong cuốn sách này, chúng ta chỉ nói về Napoléon và tuyệt nhiên không nói về truyện ”Truyền Kỳ Napoléon”.

Do đó, những tài liệu viết trong thời gian ông Hoàng Đế ở đảo cung cấp cho chúng ta rất ít vấn đề. Ông ”Thượng Đế” đọc những lời lẽ khẳng định, và những tín đồ của ông đã ghi chép lại, Sự sùng bái, tin yêu, tôn thờ không phải là những tình cảm thuận lợi cho việc phân tích phê phán. Napoléon nói với những người thân cận của ông không phải là cho họ nghe, mà cho hậu thế, cho lịch sử. Phải chẳng lúc đó Napoléon vẫn tin chắc rằng triều đại của ông sẽ được triệu về để trị vì nước Pháp một lần nữa? Chúng ta không biết điều đó, nhưng Napoléon đã nói với các cận thần tựa hồ như ông đã đoán trước được việc ấy. Cũng đã có lần Napoléon quyết đoán rằng con trai ông sẽ trị vì.

Tất cả những nhận xét và những lời bình luận, do Napoléon đọc ra, nói về các cuộc chiến tranh của ông, về tài thao lược của các danh tướng khác và về nghệ thuật chiến tranh nói chung, những điều đặc biệt bổ ích. Trong mỗi lời, người ta đều cảm thấy Napoléon quả là bậc thầy, là người am hiếu và là người say mê nghề nghiệp của mình. Có lần Napoléon nói: ”Nghệ thuật chiến tranh thật là lạ lùng, tôi đã chiến đấu trong 60 trận, và tôi cam đoan rằng tôi chẳng học được gì cả ngoài những điều mà tôi đã học được từ những trận đầu tiên”. Napoléon đánh giá cao tướng Turenne và tướng Condé. Rõ ràng Napoléon đã coi mình là một viên tướng tài nhất của các thời đại, mặc dầu người ta chưa bao giờ nghe Napoléon nói rõ điều đó. Napoléon hãnh diện đặc biệt về trận Austerlitz, trận sông Moscow, trận chiến dịch nước Pháp năm 1796 - 1797, và chiến dịch cuối cùng, tức là chiến dịch 1814. Ông coi trận thất bại của quân Áo ở Wagram là một trong những thắng lợi lớn nhất của ông về mặt chiến lược. Nếu lúc đó, Turenne và Condé có mặt ở Wagram thì ắt hẳn họ đã thấy ngay nơi hiểm yếu của trận địa cũng như ông và ông nói thêm rằng, ”nhưng còn Caesar và Hannibal thì không thể thấy được”. Napoléon khẳng định rằng: ”Nếu có Turenne bên tôi để giúp đỡ tôi tác chiến, hẳn tôi đã làm bá chủ thế giới”. Theo Napoléon, một quân đội giỏi phải có những sĩ quan biết xử trí đúng với tình huống.

Có lần, Napoléon đã tỏ ý tiếc rằng ông đã không chết ở bên sông Moscow hay ở điện Kremlin. Nhưng cũng có lúc, khi trở về với ý nghĩ trên. Napoléon lại muốn chết ở Dresden hay tốt hơn nữa, ở Waterloo;Napoléon tự hào nhắc lại giai đoạn Một Trăm Ngày và lòng tin yêu của nhân dân đối với cá nhân ông khi ông đổ bộ lên vịnh Juan và sau trận Waterloo.

Napoléon tiếc mãi việc bỏ Ai Cập và việc lui quân từ Syria về, sau khi không vây Saint Jean d’Acre, vào năm 1799. Theo ý Napoléon đáng lẽ phải ở lại Phương Đông, chinh phục các nước Ả Rập, Ấn Độ, làm Hoàng Đế Phương Đông chứ không phải là Phương Tây. ”Nếu tôi hạ thành Acre thì tôi đã tới vùng Constantinople và nước Ấn Độ”. Napoléon nhắc lại rằng ai chiếm được Ai Cập sẽ làm chủ được Ấn Độ (ta nên chú ý là điều này hoàn toàn nhất trí với chiến lược hiện đại). Về việc người Anh thống trị nước Ấn Độ, Napoléon nói rằng ông chỉ cần đưa đến đó một dúm người là đã có thể tống cổ được người Anh. Napoléon thường nói nhiều đến trận Waterloo, và cho rằng nếu không xảy ra những sự bất ngờ không thể lường trước được, và nếu bên cạnh ông có những tướng như như Bessières, Lannes (đã chết trong những chiến dịch trước), nếu có Murat thì trận đánh đã kết thúc khác. Mỗi khi nghĩ đến thắng lợi của trận đánh cuối cùng ấy lại thuộc về người Anh, Napoléon lấy làm vô cùng buồn bực.

Việc xâm chiếm Tây Ban Nha đã là sai lầm đầu tiên của ông (cái ung thư Tây Ban Nha) và khi nói đến ”sự hiểu lầm” đã đưa ông tiến vào Moscow, thì hồi ấy chưa thật nghiêm khắc với mình, song ông cũng nhận ra chiến dịch nước Nga là sai lầm thứ hai, nặng nề, tai hại hơn cả chiến dịch Tây Ban Nha. Nhưng không phải Napoléon chỉ nhận trách nhiệm của mình đến như vậy mà thôi, ông còn cho rằng năm 1812, đến Dresden, khi nhận được Bernadotte - lúc đó đã trở thành thái tử nước Thụy Điển - không có ý giúp mình đánh bại nước Nga, và nhà vua Thổ Nhĩ Kỳ đã ký hòa ước với Nga, thì đáng lẽ ông phải bỏ cuộc xâm lăng. Khi vào Moscow đáng lẽ phải rút ngay khỏi và rượt theo Kutuzov để tiêu diệt quân Nga. ”Cuộc chiến tranh đau đớn ấy với nước Nga đã đến với tôi do sự sai lầm; cái thủy thổ ác nghiệt ấy đã tàn phá cả một đạo quân... Rồi thì, cả thế giới chống lại tôi... Tôi đã chống cự lâu dài được như vậy, đã nhiều lần tôi tức khắc vượt qua được hết thảy và tôi đã ra khỏi đống hỗn độn ấy một cách oai hùng hơn bao giờ hết, phải chăng đó là một điều kỳ diệu?”.

Napoléon còn cho rằng khi ở Tilsit ông đã không xoá bỏ nước Phổ trên bản đồ thế giới cũng là một sai lầm. Napoléon cũng thú nhận rằng năm 1809 ông đã muốn thủ tiêu nước Áo, nhưng trận thất bại Essling của ông đã không cho phép ông làm điều đó, vì thế sau trận Wagram, mặc dầu nước Áo đã bị tổn thất vô cùng nặng nề, nó vẫn tiếp tục tồn tại.

Napoléon nhiều lần nhắc đến cái chết của công tước Enghien, tỏ ra không mảy may hối hận về việc đó nếu phải làm lại. Cũng không phải là không bổ ích khi nhận xét rằng cuộc tàn sát khủng khiếp - đã diễn ra trên chiến trường Châu Âu ròng rã hai mươi năm mà chính Napoléon cho rằng ông đã đóng vai trò quyết định - đã không hề bao giờ gợi cho Napoléon một chút u sầu, một cảm giác nặng nề và tâm hồn buồn bã, dù rằng đã thoáng qua chốc lát. Rõ ràng Napoléon thèm khát xâm chiếm, song trước hết là ”lòng quá say mê chiến tranh” đã chiếm lĩnh con người Napoléon.

Cô bé Betsy Balcombe, con một nhà thầu khoán người Anh sinh cơ lập nghiệp ở đảo, được Napoléon đặc biệt chú ý - muốn dạy cô bé tiếng Pháp, cô bé được ra vào nơi Hoàng Đế ở, được phép trò chuyện với Hoàng Đế. Và sau khi đã quen dạn, có lần Betsy và Jane, chị của cô bé đã hỏi rằng có thật Napoléon ăn thịt người không - chả vì lũ trẻ được nghe người ta nói vậy ở Anh - Hoàng Đế phá lên cười, nói rằng có ăn thịt người thật và vẫn sống bằng cách ấy. Napoléon khuây khoả khi các cô bé hoàn toàn nghĩ theo nghĩa đen của cái danh từ mà người lớn dùng để gọi mình: Con quỷ sứ đảo Corsica. Những tiếng đó với nghĩa bóng của chúng, đã đến tai Napoléon từ lâu trước khi quen cô bé Balcombe và chỉ làm cho Napoléon nhún vai khinh bỉ.

Sau khi li dị Joséphine, sau cái chết của Lannes ở Essling và Duroc ở Markersdorf, ở đời chỉ còn một người được Napoléon yêu dấu, đứa con trai ông, vua thành Roma, từ năm 1814 sống với mẹ là Marie Louise. Với những thời gian đầu ở đảo Helena, Napoléon tỏ ra tin tưởng rằng con mình sẽ trị vì, bởi từ này trở đi, ở Pháp người ta chỉ có thể dựa vào ”quần chúng bình dân”. Và triều đại bình dân đó chỉ có thể là triều đại của dòng họ Bonaparte, do nhân dân bầu cử.

Chính sự không nhất trí giữa tư tưởng và hành động ấy của Napoléon đã không cho phép ông, vào năm 1815, cầm đầu một phong trào quần chúng rộng rãi chống lại bọn Bourbon, bọn quý tộc và thầy tu, nhưng ngay ở đảo Helena, Napoléon vẫn còn cho rằng năm 1815 ông đã hành động đúng.

Ở đây, chỉ có một mâu thuẫn hiển nhiên, bắt đầu tự sự hiểu vấn đề không chính xác: Nền quân chủ của Napoléon không phải là nền quân chủ bình dân mà là ”tư sản” và Napoléon vẫn mơ ước cho con ông một chính quyền không dựa vào ý chí và quyền lợi của đông đảo quần chúng nhân dân và của các giai cấp lao động, nhưng dựa vào ý chí và quyền lợi của giai cấp tư sản. Sau trận Waterloo khi quần chúng vây quanh lâu đài của Napoléon yêu cầu Napoléon tiếp tục ở ngôi vua, Napoléon nói: ”Họ chịu ơn gì tôi? Tôi đã gặp gỡ họ, nhưng tôi đã để họ nghèo khổ”.

Và hồi đó ở Paris, cũng như sau này ở đảo Saint Helena, Napoléon nhắc lại với bá tước Montholon rằng năm 1815, sau khi đổ bộ ông đã gặp ở Pháp lòng căm thù cách mạng chống lại giai cấp quý tộc và tầng lớp tăng lữ, nếu ông muốn lợi dụng nó thì ông đã về Paris với ”hai triệu nông dân” đi theo; nhưng ông lại không muốn đứng đầu ”đám dân chúng ấy” vì ”chỉ nghĩ đến việc đó cũng không chịu nổi”. Rất rõ ràng là Napoléon vẫn giữ những khuynh hướng mà nhiều lần chúng ta đã nói tới. Nhưng bất thình lình, cuối cùng, do ảnh hưởng cụ thể của những tin tức trên báo chí và truyền miệng từ Châu Âu dội đến đảo Helena báo tin phong trào cách mạng sôi sục ở Đức...v.v. Ông Hoàng Đế bỗng nhiên thay đổi trận tuyến, và năm 1819, đã tuyên bố, cũng với Montholon, nhưng điều ngược hẳn lại những lời từ trước tới nay; ”Đáng lẽ tôi phải xây dựng đế chế với sự ủng hộ của những người Jacobin”. Cuộc cách mạng Jacobin thực tế là một núi lửa, nhờ nó người ta có thể dễ dàng đánh đổ nước Phổ. Và trong tư tưởng của Napoléon, nếu cách mạng thắng lợi ở Phổ, thì Phổ sẽ hoàn toàn thuộc về quyền ông ngay, và toàn Châu Âu sẽ rơi vào tay ông ta bằng ”vũ khí của tôi là lực lượng Jacobin”. Thực tế là khi nói đến một cuộc cách mạng tương lai hay có thể xẩy ra, tư tưởng của Napoléon không vượt quá phạm vi ”chủ nghĩa Jacobin” tiểu tư sản và không tính đến một sự đảo lộn hẳn lại xã hội. Đối với Napoléon đã có lúc cuộc cách mạng Jacobin bắt đầu hiện ra như một bạn đồng minh mà ông đã lầm lẫn cự tuyệt.

3

Cuộc nói chuyện cuối cùng và quan trọng ấy với Montholon về những người Jacobin và cách mạng là vào ngày 10/3/1819, và đã là một trong những cuộc gặp gỡ cuối cùng của Napoléon với những người thân cận của ông.

Sau đó những tức về ông Hoàng Đế ngày càng ít ỏi, mơ hồ và đứt đoạn. Las Cases không còn ở đấy nữa, vì đã bị Hudson Lowe đuổi đi, cả Gourgaud cũng không, người mà chính Hoàng Đế đã cho về. Việc bác sĩ người Ireland là O’Meara còn ở lại với Napoléon một thời gian, lợi dụng công việc để do thám và báo cáo với viên toàn quyền tình hình ở Longwood. Trong số những người khác, có bác sĩ Antommarchi, do gia đình Napoléon gửi từ Châu Âu sang, một viên thầy thuốc dốt nát và một người viết hồi ký không trung thực, mà Napoléon đã không cho giáp mặt. Chỉ còn Bertrand, Montholon và người hầu hạ là những người đã hiểu biết về Napoléon nhiều nhất trong hai năm cuối cùng của đời ông.

Từ 1819, Napoléon càng ngày càng đau ốm luôn. Đến năm 1820, bệnh càng nặng thêm, và đến đầu năm 1821, viên thầy thuốc người Anh là Arnott, được Napoléon cho phép đến thăm bệnh, đã thấy bệnh tình khá nghiêm trọng. Tuy vậy, người ta nói cũng có lúc bệnh tình thuyên giảm trong một thời gian dài mà Hoàng Đế đi dạo chơi ở ngoài được. Đến cuối năm 1820 những ý kiến và những ký ức của Napoléon về triều đại của mình - do ông ta kể lại cho hai người thân tín là Las Cases và bá tước Montholon chép; Las Cases chép về những năm trước cho đến năm 1818, còn Montholon chép một phần về những năm ấy và một phần từ năm 1818 đến hết năm 1820 - chiếm hai cuốn đồ sộ trong văn tập của Las Cases (những lần xuất bản cuối cùng) và 8 cuốn trong văn tập Montholon (lần xuất bản năm 1847), đó là chưa kể đến hai tập hồi ký do Montholon viết dành riêng về thời gian Hoàng Đế ở đảo Saint Helena. Cuối năm 1820, Napoléon thôi không đi dạo chơi trên xe nữa. Còn cưỡi ngựa thì ông đã thôi từ lâu.

Tháng 3/1821, những cơn đau ghê gớm, mà Napoléon đã âm thầm chịu đựng, luôn luôn diễn ra. Từ lâu, Hoàng Đế đã đoán chắc rằng mình bị bệnh ung thư, một bệnh gia truyền đã làm cho ông là Carlo Bonaparte chết năm 40 tuổi.

Vấn đề này, cũng nên nhắc lại rằng khoảng mười lăm hay hai mươi năm gần đây, trong các tập san y tế Pháp và Đức, đã nhiều lần người ta đưa giả thuyết là căn bệnh đã giết Napoléon không phải là ung thư, mà là một bệnh đặc biệt ở vùng nhiệt đới. Họ cho rằng Napoléon đã nhiễm bệnh này từ hồi còn trẻ, trong chiến dịch Ai Cập và Syria và khi ông trở lại vùng nhiệt đới thì bệnh lại đã phát triển.

Ngày 5/4, bác sĩ Arnott đã thông báo cho những người bạn đồng hành của Napoléon, Thống Chế Bertrand và bá tước Montholon, rằng bệnh tình của Napoléon cực kỳ trầm trọng. Khi cơn đau dịu đi, Napoléon cố giữ tinh thần cho những người chung quanh mình. Hoàng Đế pha trò về bệnh của mình: “Ung thư này chính là Waterloo đã nhiễm vào bên trong phủ tạng”.

Ngày 13/4, Napoléon đọc cho bá tước Montholon viết chúc thư, sau đó ông ta tự tay viết và ký vào, ngày ấy là 15/4. Trong chúc thư ấy người ta đã đọc được những dòng chữ (hiện khắc vào tấm đá cẩm thạch đặt trên mộ Napoléon trong điện Invalides): ”Tôi muốn hài cốt của tôi sẽ được đặt bên bờ sông Seine, giữa lòng nhân dân Pháp mà tôi xiết bao yêu mến”. Trong chúc thư, Napoléon đã liệt Marmont, Augereau, Talleyrand, Lafayette vào tội phản bội, đã hai lần giúp cho kẻ thù của nước Pháp chiến thắng; hiển nhiên là vì Augereau đã to tiếng cãi lộn với Napoléon vào hồi tháng 4/1814, Lafayette thì vì đã phản đối Hoàng Đế ở Hạ Nghị Viện vào tháng 6 năm 1815. Sau này, hai nhận xét khắc nghiệt đó không được ai thừa nhận, ngay cả những người ở phe với Hoàng Đế, nhưng Hoàng Đế đã xác nhận sự nhơ nhuốc xấu xa của Talleyrand và Marmont. Trong chúc thư Napoléon còn định đoạt cả việc chia tài sản của mình: Cho Bertrand 50 vạn, hầu phòng Marchand 40 vạn francs, cho mỗi người hầu hạ ông ở đảo 10 vạn francs, cũng như cho Las Cases và các tướng lĩnh, quan chức khác hiện còn trên đất Pháp mà ông biết là họ vẫn trung thành với ông. Nhưng Napoléon đã dành phần lớn gia tài của mình, tới 200 triệu francs vàng, một nửa cho những binh lính, sĩ quan đã từng chiến đấu dưới quyền ông, một nửa cho các địa phương ở Pháp đã bị tổn thất vì cuộc xâm lăng năm 1814 và 1815. Trong chúc thư, người ta cũng tìm được một câu dành cho người Anh và Hudson Lowe: “Tôi chết sớm vì bọn tài phiệt Anh và kẻ thích khách của chúng ám sát tôi. Sớm muộn nhân dân Anh sẽ trả thù cho tôi”. Napoléon căn dặn con trai ông không bao giờ chống lại nước Pháp và phải nhớ rằng: ”Con sinh ra đã là hoàng tử của nước Pháp”.

Napoléon rất bình tâm đọc những ý muốn cuối cùng của mình rồi tự tay viết lại. Ba ngày sau Napoléon còn đọc cho Montholon viết một bức thư gửi cho viên toàn quyền đòi người Anh phải cho tất cả những người tuỳ tùng và phục vụ ông hồi hương về Châu Âu sau khi ông chết đi.

Trong đêm 21/4, vào hồi 4 giờ sáng, bất thần Napoléon nghĩ đến việc đọc cho Montholon viết một dự án cải tổ quân đội quốc gia Pháp để có thể sử dụng hợp lý quân đội trong công cuộc bảo vệ đất nước chống lại ngoại xâm.

Ngày 2/5, các bác sĩ Arnott, Shortt và Michaels báo cho mọi người biết là Hoàng Đế sắp mất. Cơn đau kịch liệt đến nỗi trong đêm ngày 5/5, Napoléon như mê sảng, lăn xuống đất, ghì chặt Montholon với sức mạnh phi thường và cả hai đều lăn lộn trên nền nhà. Người ta đặt lại Napoléon lên giường, ông mê man nằm im trong mấy giờ liền. Mắt mở mà không hề kêu rên. Vả chăng, trong suốt những cơn đau ghê gớm nhất, Napoléon hầu như không hề kêu rên, tuy cựa quậy rất nhiều. Kẻ đứng đầu giường, người đứng trên ngưỡng cửa, những người thân cận và những người hầu hạ Napoléon tề tựu bên cạnh người sắp từ trần, Napoléon mấp máy đôi môi, nhưng hầu như không ai nghe rõ được điều gì, vì hôm ấy một trận bão khủng khiếp bốc trên đại dương, lay tung cây cối, cuốn mất một số nhà cửa ở đảo và làm chấn động cả vùng Longwood.

Ngay khi được tin báo rằng Napoléon hấp hối, Hudson Lowe và các sĩ quan quân đội Anh đồn trú ở đảo vội vàng tới nơi và trú ở những phòng bên. Những người đứng ở đầu giường Napoléon nghe được lời cuối cùng sau đây: ”Nước Pháp... đứng đầu quân đội...”. 6 giờ chiều ngày 5/5/1821, Napoléon trút hơi thở cuối cùng.

Marchand vừa khóc vừa đắp lên thi hài Napoléon tấm áo choàng mà ông mặc ngày 14/7/1800 ở Marengo. Viên toàn quyền và các sĩ quan vào, kính cẩn nghiêng mình chào người quá cố. Lúc này Bertrand mới để cho đại diện các cường quốc vào phòng Napoléon lần đầu tiên, kể từ khi họ đến đây, vì trước đây, Napoléon không bao giờ cho phép họ đến gần ông.

Bốn ngày sau, linh cữu rời khỏi khu Longwood. Ngoài đoàn tuỳ tùng và những người hầu của Napoléon ra, toàn thể đơn vị canh gác đảo, tất cả lính thủy và sĩ quan hải quân có mặt trên đảo, tất cả những viên chức hành chính, do viên toàn quyền dẫn đầu, và hầu hết nhân dân đảo Saint Helena đều đi đưa đám. Khi hạ huyệt, một loạt đại bác vang rền: Người Anh dùng nghi lễ quân đội để vĩnh biệt ông Hoàng Đế quá cố.