Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Napoleon Bonaparte

Chương XV

Chiến Dịch Nước Pháp Sự Thoái Vị Lần Thứ Nhất

1

Trong năm 1814, cũng như trong suốt cuộc đấu tranh của Napoléon với Châu Âu năm 1813, Napoléon chỉ huy hoàn toàn và trông cậy vào lực lượng vũ trang. Tuy nhiên Napoléonn cũng nhận thấy rằng, sau trận Leipzig và trước ngày quân Liên Minh xâm lược nước Pháp thì không thể hành động như hồi tháng 7 và tháng 8 năm 1813 được nữa, hồi Napoléon cố tình phá hoại Hội Nghị Prague. Ngoài nước Pháp ra, lúc bấy giờ người ta còn đồng ý để lại cho Napoléon tất cả những đất đai đã chiếm được, trừ vùng Illyria, các thành phố đồng minh thương nghiệp ở miền Tây Bắc nước Đức và một vài vị trí ở nước Đức cùng với tất cả các danh vị và quyền đặc lợi, trừ danh vị và quyền lợi của người bảo hộ Liên Bang Sông Rhine. Nhưng Napoléon đã phá vỡ các cuộc đàm phán, những mong thanh toán gọn Khối Liên Minh bằng một trận đánh. Những điều kiện mà hiện nay người ta đưa ra với Napoléon chắc chắn là tệ hơn, Nhưng Napoléon biết rằng nông dân và thợ thuyền, tư sản thương nghiệp và công nghiệp và tầng lợp công chức đông đảo mà Napoléon đã tạo nên, và điều quan trọng nhất là Bộ Tư Lệnh Tối Cao của quân đội đứng đầu là các Thống Chế, nói tóm lại, toàn thể nhân dân bao gồm mọi giai cấp, trừ một số rất ít trường hợp ngoại lệ, đều đã mệt lả vì chiến tranh và khao khát hòa bình. Cho nên Napoléon không trắng trợn từ chối cuộc đàm phán do Saint Aignan chuyển đạt, đồng thời còn làm ra vẻ mong muốn hòa bình, nhưng Napoléon đã kéo dài công việc trong gần hai tháng trời (kể từ ngày 15 tháng 11 năm 1813, ngày Napoléon nhận được những điều kiện giảng hòa). Không phải vô cớ mà Napoléon hy vọng quân Liên Minh sẽ vi phạm những điều kiện do chính họ đã đưa ra và như vậy họ sẽ phải chịu trách nhiệm về việc chiến tranh tiếp diễn. Napoléon biết rằng trừ nước Áo ra thì không một nước nào hiện đang chiến tranh với ông lại mong muốn triều đại của ông tồn tại lâu dài và đặc biệt là nước Anh ắt sẽ không hài lòng chừng nào tỉnh Antwerp còn nằm trong tay ông. Nhưng, theo những điều kiện từ Frankfurt gửi đến cho Napoléon thì toàn bộ nước Bỉ (chứ không riêng gì tỉnh Antwerp) vẫn sẽ tiếp tục nằm trong đế quốc Pháp. Napoléon còn biết rằng càng làm trì trệ công việc thì càng tạo cơ hội tốt cho Castlereagh, Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Anh, bác bỏ những điều kiệm mà Thượng Nghị Sĩ Aberdeen đã ưng thuận ở Frankfurt hồi đầu tháng 11, dưới áp lực của Metternich. Nhưng trong khi chờ đợi, Napoléon cần phải làm ra vẻ rằng hiện nay ông ta không hề gây trở ngại gì cho cuộc đàm phán hòa bình và nếu như Napoléon có trưng binh một lần nữa thì không phải để chiến tranh mà chỉ để làm hậu thuẫn cho thiện chí hòa bình của ông ta. “Tôi không phản đối gì việc lập lại hòa bình - đó là lời của Napoléon trong bài diễn văn khai mạc khoá họp của Thượng Nghị Viện ngày 19 tháng 12 năm 1813 - Tôi rất hiểu và rất thông cảm với quan niệm của người Pháp, tôi nói người Pháp bởi vì không một người Pháp nào muốn đổi danh dự lấy hòa bình. Rất tiếc tôi phải đòi hỏi ở nhân dân hào hiệp này những hy sinh mới; nhưng những hy sinh ấy đều do những quyền lợi cao cả và quý báu nhất của họ đòi hỏi. Tôi đã phải tăng cường quân đội của tôi bằng nhiều cuộc động viên mới; các quốc gia chỉ có thể yên ổn thương thuyết bằng cách tung hết lực lượng của mình ra”. Rõ ràng Napoléon không muốn hòa bình. “Sao cho những thế hệ mai sau đừng nói về chúng ta rằng: Họ đã hy sinh những quyền lợi căn bản của đất nước; họ đã phục tùng những quyền lực mà từ bốn thế kỷ nay nước Anh đã không bắt nổi nước Pháp phải theo”. Diễn từ của Napoléon kết thúc như vậy để đáp lại cuộc đàm phán hòa bình của các cường quốc đã khai mạc từ hơn một tháng nay. Tháng 1 năm 1814, 11 vạn tân binh được gọi nhập ngũ. Một cuộc động viên mới được quyết định. Napoléon phái một số Thượng Nghị Sĩ đi khắp nước Pháp để động viên nhiệt tình của các cấp chính quyền địa phương trong việc tuyển quân và thu các thứ thuế thường lệ và bất thường để nuôi quân đội. Ngay từ tháng 1 năm 1814, người ta được tin rằng cuối cùng quân đội địch đã vượt qua sông Rhine và làn sóng xâm lược đã tràn vào Alsace và Franche Comté, rằng Wellington đã vượt qua rặng Pyrenées và đang tiến vào miền Nam nước Pháp... “Tôi không sợ phải thú nhận việc đó, - đó là lời Hoàng Đế nói với các Thượng Nghị Sĩ được phái đi các tỉnh - tôi đã chiến tranh quá nhiều, tôi đã có những dự án lớn lao, tôi đã muốn bảo đảm cho nước Pháp quyền bá chủ trên thế giới. Tôi đã nhầm, những dự án đó không tương xứng với lực lượng dân số của dân chúng nước ta. Đáng lẽ phải gọi toàn dân nhập ngũ, và tôi đã nhận thấy được điều đó, nhưng những yêu cầu cả tiến bộ xã hội và cả sự thuần hoá phong tục đã không cho phép biến cả một quốc gia thành toàn dân vi binh”. Nếu các Thượng Nghị Sĩ không muốn mất khẩu khiếu trong suốt thời gian trị vì của Napoléon thì ắt họ đã có thể trả lời ông Hoàng Đế rằng Hoàng Đế đã quá khiêm tốn và rõ ràng là Hoàng Đế đã biến cả nước thành binh lính, trừ đàn bà, con trẻ và người già. “Tôi phải chịu lỗi vì quá tin vào vận hội của tôi, và tôi sẽ chịu... tôi mắc sai lầm thì chính tôi phải chịu - Hoàng Đế nói tiếp - chứ không phải là nước Pháp. Nước Pháp không mắc sai lầm, nước Pháp đã không tiếc cho tôi máu, đã không từ chối một sự hy sinh nào đối với tôi...”. Napoléon coi việc ký kết hòa bình là một sự hy sinh mà cá nhân ông phải chịu. Napoléon nói: “Còn tôi, tôi chỉ dành lại cho tôi cái vinh dự là phải can đảm phi thường, tức là can đảm từ bỏ cái tham vọng cao quý nhất chưa từng có, và vì hạnh phúc của dân chúng, tôi can đảm hy sinh những dự kiến lớn lao chỉ có thể thực hiện được bằng những cố gắng mà tôi không muốn đòi hỏi nữa”. Rất ít khi Napoléon nói thành thật như trong dịp này. Nhưng Napoléon không tín nhiệm gì mấy các Thượng Nghị Sĩ. Người ta có thể tóm tắt ý kiến của Napoléon về các Thượng Nghị Sĩ như thế này: Hôm nay là nô lệ, ngày mai là kẻ phản bội. Napoléon không còn nghi ngờ gì nữa về sự phản bội của Talleyrand. Vừa mới trở về đến Paris sau trận Leipzig vào tháng 11 năm 1813, trong một cuộc đại trào, Napoléon đã dừng lại trước mặt Talleyrand, lớn tiếng hỏi: “Ông đến đây làm gì? Tôi biết là ông tin rằng ông sẽ làm thủ lĩnh nếu như vừa rồi tôi chết đi. Hãy coi chừng, thưa ông, chống lại quyền lực của tôi, không được đâu. Xin báo để ông biết rằng nếu tôi ốm nguy kịch thì ông sẽ chết trước tôi!”. Tuy vậy, Napoléon cũng không cho xử bắn Talleyrand, như đã có lúc con cáo già ấy lo sợ, mà tháng 1 năm 1814, Napoléon lại còn yêu cầu Talleyrand cùng đi với Caulaincourt để tiến hành đàm phán với quân Liên Minh, và đã giơ nắm đấm dọa khi Talleyrand từ chối. Napoléon không còn tin Fouché, cũng như các Thống Chế của ông ta; ông ta chỉ còn tin vào binh lính, nhưng chỉ tin các cựu chiến binh, chứ không phải những binh lính chưa đến tuổi thành niên mà trong hai năm sau cùng, ông ta đã bức họ phải lìa bỏ gia đình. Song số cựu chiến binh chẳng còn là bao: Ở vùng thôn quê La Mã, trên cao nguyên Madrid, ở những vùng lân cận Jerusalem, trên con đường từ Moscow về đến sông Berezina, trên khắp cánh đồng Leipzig, xương cốt của họ còn phơi trắng ngổn ngang. Napoléon đã phải cấp tốc gọi về những người còn sống sót trong số những đám quân cũ ở Tây Ban Nha, ở Hà Lan và ở Ý. Tuy nhiên, Napoléon vẫn muốn chiến tranh, không muốn nói đến hòa bình. Vả lại, sau hai tháng lần lữa và sau khi đã chà đạp lên đất nước Pháp thì quân Liên Minh, tin vào việc nước Pháp đã mệt mỏi rã rời và vào tỷ lệ đảo ngũ ngày càng nhiều trong các tầng lớp binh lính mới gọi nhập ngũ của quân đội Pháp, đã xác định trong tư tưởng rằng sẽ chỉ để lại cho Napoléon những đường biên giới cũ của nước Pháp vào năm 1790, nghĩa là không bao gồm nước Bỉ, nước Hà Lan, xứ Savoy và tả ngạn sông Rhine chiếm được từ thời kỳ Cách Mạng. Như vậy là vẫn còn ít hơn so với những đề nghị hồi tháng 11 năm 1813, nhưng lần này phe Liên Minh đều đồng ý, kể cả thượng nghị sĩ Castlereagh, người đã thân chinh đến tận tổng hành dinh của quân Liên Minh.

Hội nghị hòa bình đã họp ở Châtillon, nhưng các cuộc đàm phán đã không mang lại kết quả gì. “Trước bản đề nghị nhục nhã mà ông đã gửi cho tôi, tôi bị kích động đến nỗi thấy rằng dù chỉ đặt tôi vào cái thế mà người ta đã đề nghị với ông cũng đã là mất hết danh dự rồi...”. Napoléon viết như vậy cho Caulaincourt, đại diện của ông ta ở hội nghị, khi Caulaincourt báo cho Napoléon biết đó là sự hy vọng cuối cùng để giữ được ngai vàng và ngăn ngừa sự phục hưng của dòng họ Bourbon được quân đội Liên minh giúp đỡ. “Lúc nào ông cũng nói đến bọn Bourbon. Chẳng thà tôi đành thấy bọn Bourbon phục hưng ở nước Pháp hơn là tôi phải chịu nhận những đề nghị nhục nhã mà ông gửi”. Chiến tranh, chiến tranh phải định đoạt tất cả. Hội nghị giải tán, không làm nên được trò gì, nhưng cũng đã ở vào giai đoạn giữa cuộc chiến tranh tuyệt vọng của Napoléon chống Khối Liên Minh. Đêm 24 rạng ngày 25 tháng 1 năm 1814, Napoléon lên đường chinh chiến. Ông giao quyền nhiếp chính cho vợ là Marie Louise. Trường hợp Hoàng Đế chết thì đứa con trai của Hoàng Đế, ông vua nhỏ thành Roma, lên ba tuổi, sẽ được đặt lên ngôi ngay, và Marie Louise vẫn giữ quyền nhiếp chính.

Trong đời mình, Napoléon chưa hề yêu ai như đứa trẻ này. Những người biết rõ Hoàng Đế đã không thể ngờ được rằng Hoàng Đế lại có thể quyến luyến với đứa bé đến như vậy, hơn với bất cứ ai. Khi Hoàng Đế ngồi làm việc trong phòng của mình, bên cạnh lò sưởi, đang viết hoặc đọc sách, đứa bé không rời khỏi đầu gối của Hoàng Đế, đứa bé không muốn rời khỏi gian phòng và đòi bố phải chơi lính chì với nó, Meneval, một trong những thư ký riêng của Napoléon đã kể lại như vậy. So với tất cả mọi người ở trong triều, chú bé này là người duy nhất không e sợ Hoàng Đế chút nào và chú ta cảm thấy mình hoàn toàn làm chủ trong phòng làm việc của Hoàng Đế. Suốt cả ngày 24 tháng 1, Napoléon ngồi trong phòng làm việc, bận giải quyết gấp các công việc khẩn cấp trước khi lên đường đi đánh trận quyết định này, cuộc đọ gươm đáng sợ với toàn thể Châu Âu đứng lên chống Napoléon. Chú bé với con ngựa gỗ vẫn quẩn quanh bên bố như thường lệ, và cuối cùng lấy làm khó chịu khi thấy bố miệt mài trên đống giấy tờ, nó kéo áo bố để bắt phải chú ý tới nó. Hoàng Đế nhấc bỗng đứa con tung lên không rồi lại bắt lấy để nô đùa với nó. Thích thú, chú vua nhỏ thành Roma cuống quýt hôn bố. Tối đến, người ta ẵm nó đi ngủ. Vào hồi ba giờ sáng, người vú, đêm ấy đến phiên trực trong phòng của thái tử, bất chợt thấy Napoléon “rón rén bước vào”, còn Napoléon thì không biết người vú đang nhìn mình. Napoléon đến đứng bên cạnh cái nôi của đứa con đang ngủ say sưa, chăm chú ngắm nghía hồi lâu. Lát sau, Napoléon đã lên xe và đến với quân đội. Từ đó, không bao giờ còn gặp lại đứa con trai của ông ta nữa.

2

Việc huấn luyện tân binh chưa xong, việc trưng binh vẫn tiếp tục, Hoàng Đế và các Thống Chế mới chỉ có 4 vạn 7 nghìn quân sẵn sàng chiến đấu được, còn Liên Minh đã dàn ra 23 vạn quân và một số quân gần bằng thế nữa đang cấp tốc kéo đến tăng cường trên nhiều ngả đường khác nhau. Hầu hết các Thống Chế, kể cả Ney, đều ngã lòng. Napoléon là người duy nhất còn đầy hăng say và khí thế, và ông ta cố gắng truyền lại cho các Thống Chế tinh thần lạc quan ấy. “Napoléon tỏ ra cương nghị và như trẻ lại”, những người chứng kiến đã kể lại như vậy. Đến Vittoria ngày hôm trước thì ngày hôm sau, 26 tháng 1, Napoléon cho tập trung hết lực lượng và đã đánh bật được Blücher ra khỏi Saint Dizier. Từ Saint Dizier, sau khi đã quan sát được hành động của quân Phổ, Napoléon tiến đánh quân Phổ và đánh quân đoàn Nga của Osten Sacken. Ngày 29 tháng 1, ở Brienne, Napoléon đã đánh thắng một trận mới vô cùng gay go, và trận này đã khôi phục tinh thần cho binh sĩ, lúc đó đang bạc nhược lên rất nhiều. Blücher bị đánh bại, vội vã lui về Bar Sur Aube, nơi mà chủ lực quân của Schwarzenberg đã đến tập trung. Quân Liên Minh điều động một khối 12 vạn 2 nghìn quân ở khoảng giữa Saumon và Bar Sur Aube. Trong tay chỉ còn hơn 3 vạn quân, nhưng Napoléon quyết tâm nghênh chiến, không lui. Trận Rothière đã diễn ra từ tinh mơ ngày 1 tháng 2, kéo dài đến 10 giờ. Sau đó, Napoléon vượt sông Aube không bị địch truy kích và tới Troyes vào ngày 3 tháng 2. Ở Rothière, quân Pháp có thể tin rằng mình sắp thắng lợi hoàn toàn; thắng lợi của Napoléon trong việc chống lại được những lực lượng đông gấp bốn, gấp năm lần thật vô cùng to lớn. Nhưng không phải vì thế mà tình hình không còn cực kỳ nguy hiểm, quân đội nhận được viện binh rất ít và rất chậm. Ney, MacDonald, Berthier, Marmont đều cho rằng biện pháp duy nhất để cứu vãn ngai vàng là đàm phán hòa bình và khi Hội Nghị Châtillon bị thất bại thì họ tỏ ra buồn bực. Nhưng nghị lực của Napoléon ngày càng lớn mạnh song song với sự hiểm nghèo. Ngay từ năm 1812, các Thống Chế đã nhận xét thấy ở Napoléon có những biểu hiện trì trệ, mệt mỏi, hình như thiên tài quân sự của Napoléon bị giảm sút. Nhưng vào tháng 2 và tháng 3 năm 1814, các Thống Chế không còn tin vào con mắt của mình nữa và thấy trước mặt họ vẫn là tướng Bonaparte, người anh hùng trẻ tuổi ở Ý và ở Ai Cập tựa hồ như Napoléon đã trút bỏ được cái gánh nặng của 15 năm trị vì, 15 năm chiến tranh đẫm máu, 15 năm cai trị một cách độc đoán cái đế quốc rộng lớn của ông và Châu Âu chư hầu. Napoléon giữ vững tinh thần cho các Thống Chế và binh lính, làm yên lòng cho các Bộ Trưởng còn lại ở Paris. Ngày 10 tháng 2, sau vài cuộc hành quân mau lẹ, Napoléon tiến công vào quân đoàn Olssufiev đóng ở Champaubert và đánh cho nó thất bại tan tành. Hơn 1 nghìn 5 năm trăm quân Nga bị giết chết, bị bắt làm tù binh chừng 3 nghìn, trong đó có cả viên tướng chỉ huy, số còn lại bỏ chạy. Chiều tối, Napoléon nói với các sĩ quan thân cận: “Nếu ngày mai ta cũng gặp may mắn như hôm nay thì 15 ngày nữa, ta sẽ đánh bật quân địch về đến sông Rhine, và từ sông Rhine đến sông Vistula chỉ còn một bước chân”.

Ngày hôm sau, Napoléon tiến từ Champaubert về Montmirail, nơi quân Nga và quân Phổ đang trú quân. Trận Montmirail diễn ra ngày 11 tháng 2, đã kết thúc bằng một thắng lợi mới và rực rỡ của Napoléon. Trong số 2 vạn quân chiến đấu dưới cờ của Liên Minh thì họ bị tổn thất gần 8 nghìn người, còn Napoléon mất chưa đầy 1 nghìn người. Quân Liên Minh vội vã rút khỏi chiến trường. Hoàng Đế lập tức tiến về Château Thierry, ở đó còn khoảng 1 vạn 8 nghìn quân Phổ và 1 vạn quân Nga. Sau này, Napoléon nói là mình đã lại tìm thấy đôi hài trong chiến dịch nước Ý. Những nhà bình luận quân sự đánh giá chiến dịch nước Pháp năm 1814 như một trong những chiến dịch đặc sắc nhất của thiên hùng ca Napoléon và là một chiến dịch trong đó thiên tài chiến lược của Hoàng Đế đã lên tới điểm tột cùng. Trận Château Thierry (ngày 12 tháng 2) là một chiến thắng mới của Napoléon. Nếu MacDonald hành quân không mắc phải sai lầm và chậm trễ thì có lẽ quân Liên Minh đã bị tiêu diệt.

Ban do 16

Ngày 13 tháng 2, Blücher đánh và đã đuổi lui được Marmont nhưng ngày hôm sau, Napoléon đến ứng cứu và đã đánh bại được Blücher ở Vauchamps gần Étoges. Trong trận này, tướng Phổ mất 9 nghìn quân. Tuy Napoléon đã nhận thêm được viện binh và quân Liên Minh đã bị thua liền mấy trận nhưng tình thế của Hoàng Đế vẫn nguy ngập vì lực lượng của quân Liên Minh vẫn đông gấp bội. Nhưng những chiến thắng bất ngờ và xảy ra hàng ngày đó đã gieo hoang mang trong hàng ngũ quân đội Liên Minh, đến nỗi Schwarzenberg, tổng chỉ huy quân Liên Minh, ít nhất cũng là trên danh nghĩa đã phải phái một trong những sĩ quan hầu cận đến tổng hành dinh của Napoléon để đề nghị hoãn binh. Hai trận đánh mới nữa ở Mormant và ở Villeneuve cũng lại đã kết thúc có lợi cho quân Pháp và bức quân Liên Minh phải tiến hành một cuộc hoãn binh bất ngờ. Napoléon đã từ chối hội kiến riêng với bá tước Pahlen, phái viên của Schwarzenberg nhưng đã nhận bức thư của tướng Áo và không trả lời ngay. “Ta đã bắt được từ 3 đến 4 vạn tù binh, ta đã thu được 200 cỗ pháo và bắt được rất nhiều tướng lĩnh”. Napoléon đã viết như vậy cho Caulaincourt và tuyên bố rằng ông ta chỉ bằng lòng lập lại hòa bình với quân Liên Minh với điều kiện là nước Pháp giữ nguyên được “các đường biên giới thiên nhiên” (sông Rhine, dãy núi Apls, dãy núi Pyrenées). Napoléon từ chối đình chiến.

Ngày 18 tháng 2, một trận đánh mới lại diễn ra ở Montereau, ở đó quân Liên Minh đã bị đánh lui, bị thiệt hại 3 nghìn người vừa bị giết vừa bị thương và 4 nghìn bị bắt làm tù binh.

Theo lời của các nhà quan sát và của các ký giả, ngay cả của bên đối phương, thì trong chiến dịch năm 1814 dường như hoàn toàn tuyệt vọng ấy, tài năng của Napoléon đã trội hẳn lên. Song vì Napoléon có ít quân quá, các Thống Chế (Victor, Augereau) đã suy sụp đến cùng cực, phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác, nên đã làm cho Napoléon không thể khuyếch trương triệt để được những thắng lợi vừa rực rỡ vừa kỳ quan của ông. Napoléon nóng nảy khiển trách, tức giận la mắng các tướng tá của mình, thúc ép họ hành động: “Cái lý do mà ông đưa ra nghèo nàn lắm, Augereau ạ. Tôi đã tiêu diệt 8 vạn quân địch bằng những tiểu đoàn tân binh không có bạo dạn và vừa mới mặc quần áo. Nếu sáu chục tuổi đời của ông đã đè nặng lên ông thì ông hãy thôi đi, đừng chỉ huy nữa”. “Hoàng Đế nhất định không muốn hiểu rằng tất cả những người dưới quyền của Hoàng Đế không phải là những Napoléon”, một trong những tướng lĩnh của Napoléon viết trong tập hồi ký như vậy. Sau khi đã nhóm họp hội đồng quân sự. Schwarzenberg thỉnh thị ý kiến Hoàng Đế Aleksandr, vua nước Phổ, Hoàng Đế nước Áo, và ông đã quyết định đình chiến với Napoléon một lần nữa. Để tiến hành việc này, người ta cử hoàng thân Liechtenstein, người đứng đầu một trong những lệnh tộc có tiếng tăm của nước Áo, mang theo những đề nghị mới đến gặp Napoléon. Hiển nhiên là quân Liên Minh rất lo lắng và một số trong bọn họ đã muốn giải quyết thật sớm công việc bằng cách ký một điều ước hòa giải. Napoléon không từ chối tiếp nhận phái viên của Liên Minh. Bằng những lời lẽ rất nhã nhặn, Liechtenstein cam kết với Napoléon rằng Liên Minh thật sự mong muốn hòa bình và không muốn phục hưng dòng họ Bourbon. Tuy nhiên, cuộc đàm thoại đã không mang lại kết quả gì.

Với những thắng lợi rực rỡ đến cực điểm, lúc bấy giờ Napoléon cho rằng mình đã tiêu diệt được gần một nửa quân số của Liên minh (8 vạn trong số 20 vạn) nên ông đã ỷ vào ưu thế thuyệt đối về thiên tài quân sự của mình, cái thiên tài đã giúp ông đánh một kẻ địch vô cùng mạnh mẽ phải thất bại liên tiếp. Từ Paris, Talleyrand và đồng loã, từ lâu đã có những mối liên lạc bí mật rất chặt chẽ với quân Liên Minh để chuẩn bị cho dòng họ Bourbon trở lại. Đối với bọn này, phe Liên Minh giữ thái độ hết sức dè dặt và chính ngay kẻ thù không đội trời chung với Napoléon, như Aleksandr chẳng hạn, lại ưng để ông vua nhỏ thành Roma lên ngôi, miễn là Napoléon thoái vị. Nhưng lúc này người ta không bàn đến chuyện thoái vị nữa.

Người ta biết rằng một tên quý tộc cũ người Pháp, nam tước vùng Gouhaux, quê quán ở Troyes, đã gửi lên Aleksandr bản kiến nghị ủng hộ dòng họ Bourbon. Aleksandr trả lời là quân Liên Minh chưa hề có quyết định gì về việc thay thế triều đại Napoléon bằng triều đại Bourbon và khuyên những kẻ ký kiến nghị (không phải chỉ có một mình Gouhaux) nên tránh những cuộc vận động nguy hiểm như vậy. Vài ngày sau khi Napoléon tiến vào Troyes thì Gouhaux bị bắt, bị đưa ra tòa án binh và bị xử bắn. Sau này, Aleksandr lấy làm lạ rằng không hề thấy xuất hiện ở những vùng nông thôn nước Pháp ý muốn lật đổ Napoléon. Trái lại, ở vùng núi Vosges, vùng Lorraine, vùng núi Jura, chính nông dân đã bắt đầu tiến công vào những binh lính Liên Minh đi rớt lại sau, và biểu thị rõ rệt mối căm hờn đối với kẻ xâm lược. Những sự việc ấy xảy ra một phần là do nông dân phản ứng chống lại những vụ cướp bóc của quân Liên Minh cũng như vì họ lo sợ lại phải chịu đựng dòng họ Bourbon được đưa về bằng “những xe vận tải của nước ngoài” và việc lập lại những luật lệ phong kiến.

Napoléon đã nhanh chóng cảm thấy điều đó. “Cần phải dùng lại phương pháp công kích và cách giải quyết vấn đề trong năm 1793”[53] của ông ta. Napoléon viết như vậy cho các Thống Chế. Nhưng, mặc dầu thất bại, quân Liên Minh vẫn không ngã lòng. Rất nhiều quyền lợi bị đe dọa. Một loạt chiến thắng kỳ diệu, mà Napoléon liên tiếp thu được vào lúc tình thế Napoléon dường như tuyệt vọng, đã dẫn họ đến chỗ lo âu tự hỏi rằng rồi đây sự tình sẽ ra sao nếu con người ấy, con người mà từ lâu tất cả bọn họ đã phải coi là nhà chỉ huy lỗi lạc nhất của lịch sử thế giới, vẫn còn ngồi trên ngai vàng, khôi phục được sức lực và hùng cường trở lại? Lúc ấy, một hoặc hai năm nữa, ai sẽ là kẻ đi tới đích. Vào thượng tuần tháng 3, Hoàng Đế đã tập hợp được hơn 7 vạn 5 nghìn người; ông tách ra 4 vạn quân để bám sát hoạt động của Schwarzenberg đang rút lui, còn lại 3 vạn 5 nghìn quân, Napoléon ném đi truy kích Blücher. Viên quan cai trị khu Soissons đã nộp thành phố cho Blücher, chỉ nhờ sai lầm ấy Blücher mới thoát khỏi bị tiêu diệt. Nhưng sau khi tránh khỏi bị bắt. Blücher đã không thể lẩn tránh giao chiến: Ngày 7 tháng 3, Napoléon đã đuổi kịp và đánh bại Blücher ở Craonne; sau khi bị thất bại nặng nề, Blücher chạy trốn vào Laon; ở đó, Napoléon đã cố sức để đánh bật Blücher ra nhưng vô hiệu (vào ngày 9, 10 tháng 3). Tuy vậy, ít lâu sau, Hoàng Đế cũng đuổi được Blücher ra khỏi đấy, mặc dầu không tiêu diệt gọn được như đã dự định. Oudinot và MacDonald, được Hoàng Đế giao cho 4 vạn quân để bám chắc Schwarzenberg đã phải tháo chạy vào vùng Provence. Ngày 9 tháng 3, đại diện của các cường quốc Liên Minh đã ký ở Saumon một giao ước cùng nhau cam kết trước hết là sẽ buộc Napoléon phải thu nước Pháp trở về những đường biên giới như trước năm 1792, giải phóng hoàn toàn nước Hà Lan, nước Ý, nước Tây Ban Nha, nước Thuỵ Sĩ, tất cả các quốc gia Đức, và sẽ không xếp khí giới chừng nào mục đích trên còn chưa thực hiện được; ngoài ra, nước Nga, nước Phổ và nước Áo cam kết mỗi nước sẽ cung cấp 15 vạn quân, còn nước Anh cung cấp cho quân Liên Minh mỗi năm một khoản viện trợ là 5 triệu đồng bảng Anh trong suốt thời gian chiến tranh. Quân Liên Minh cũng không thể phỏng đoán được đến bao giờ và làm thế nào để bẻ gãy được sự kháng cự tuyệt vọng của Napoléon, người mà hiện nay cũng như trước đây không bao giờ muốn nghe nói đến biên giới cũ.

Trong thời gian này, các Thống Chế của Napoléon gặp hết rủi ro này đến rủi ro khác. Ở phía Nam, quân đội Anh của Wellington tiến về Bordaux, sau khi đã đánh lui được các Thống Chế Soult và Suchet. Khuyếch trương chiến quả. Schwarzenberg tiếp tục đánh MacDonald và Oudinot.

Không để cho quân đội và chính mình có thời gian nghỉ ngơi sau trận Laon. Napoléon lao vào đánh quân đoàn Nga, Phổ đang chiếm đóng ở Reims của viên tướng công tước Saint Priest, một kẻ lưu vong người Pháp chạy sang phục vụ nước Nga. Trận Reims (ngày 13 tháng 3) đã kết thúc bằng cuộc chạy dài của quân Liên Minh, với một nửa số quân bị mất và Saint Priest chết trận. Nhưng những chiến thắng mới ấy không thể làm thay đổi tình thế, vì quân Liên Minh đã kiên quyết không nhân nhượng, và Napoléon cũng kiên quyết không chấp nhận những điều kiện của phe Liên Minh và thà mất hết, kể cả ngai vàng, còn hơn chịu để đế quốc phải thu hẹp lại trong những đường biên giới cũ. Khi Caulaincourt, theo lệnh của Napoléon, tuyên bố với các đại biểu Anh, Nga, Phổ và Áo họp ở Hội Nghị Châtillon rằng Napoléon dứt khoát gạt bỏ những đề nghị của họ, và đòi tả ngạn sông Rhine cùng với Cologne và Mainz, Antwerp và Flanders, Savoy và Nice vẫn nằm trong biên giới của đế quốc như trước đây, thì cuộc đàm phán cũng bị tan vỡ. Vượt qua phòng tuyến của Napoléon và các vị trí tiền tiêu của quân Nga, bá tước Vitrolles, tay sai của bọn Bourbon và mật phái của Talleyrand, đã từ Paris đến bản doanh của quân Liên Minh ngày 17 tháng 3 và được Aleksandr tiếp đón ngay. Y đem đến cho Aleksandr tin tức và ý kiến của Talleyrand cho rằng quân Liên Minh phải tiến gấp về Paris chứ không nên đuổi theo Napoléon; Vitrolles còn nói chắc rằng ở Paris người ta đang chờ quân Liên Minh, và khi họ tới, người ta có thể sẽ tuyên bố ngay sự truất ngôi Hoàng Đế của Napoléon và sự lên ngôi của Louis XVIII (như lâu nay bá tước xứ Provence vẫn tự xưng. Để phục hưng dòng họ Bourbon). Nhưng Vitrolles đã hoảng hốt rụng rời khi phát hiện được rằng mặc dầu Aleksandr rất mong muốn Napoléon sụp đổ, song lại cho rằng quân Liên Minh tuyệt đối không nên can thiệp vào sự lựa chọn người kế nghiệp Napoléon, và Nga Hoàng lại đã coi nền Cộng Hòa như một giải pháp tốt đẹp. Vitrolles không còn tin ở hai tai của hắn nữa. “Lạy chúa, rồi chúng ta sẽ đi đến đâu?”. Vitrolles thốt lên như vậy khi báo cáo lại cuộc gặp gỡ. Hình như Aleksandr đã bị cái thực tế sau đây đập mạnh vào óc: Những sự phản kháng ở Pháp bắt đầu mang tính chất một cuộc kháng chiến của nước Pháp sau Cách Mạng chống lại quân đội nước ngoài kéo vào để lập lại chế độ xã hội cũ và phục hưng dòng họ Bourbon, và hình như hiểu rằng tình thế này sẽ củng cố vị trí của Napoléon đến mức nào, một con người luôn luôn đáng sợ và luôn luôn chiến thắng, nên Aleksandr đã không muốn đặt nước Pháp, và nhất là “đám dân đen” của nước Pháp đứng trước hai con đường: Napoléon hay là bọn Bourbon. Aleksandr đã đặt họ đứng trước hai con đường khác: Napoléon hay chế độ Cộng Hòa. Đó là một mánh lới tinh vi, nhưng khối óc chật chội của kẻ nịnh thần chính thống và tên lưu vong Vitrolles không thể nào hiểu được điều đó nên hắn đã sững sờ kinh ngạc khi phát hiện ra cái chủ nghĩa Cộng Hòa Pháp của Nga Hoàng của toàn thể các quốc gia Nga. Aleksandr luôn luôn xác định rằng bọn Bourbon và những tên Vitrolles tuyệt chẳng hiểu chút gì về tình trạng tư tưởng ở Pháp, nhưng ông ta cũng chú ý đến lời khuyên của Talleyrand do Vitrolles đem lại cùng lúc với một bức thư không ký tên và cố ý viết ngoằn ngoèo như một người tập viết. Sợ bị mất đầu, vì Vitrolles có thể bị cảnh binh của Napoléon bắt giữ ở dọc đường, và mặc dầu chữ viết khác đi và sai văn phạm, cảnh binh vẫn có thể truy ra được, nên Talleyrand đã khẩn khoản khuyên Aleksandr và phe Liên Minh tiến quân về Paris, dù có phải bỏ Napoléon còn chưa bị đánh quỵ và hở hai bên sườn. Nguy cơ không phải từ trong bản chất của tên phản bội quỷ quyệt Talleyrand mà ra, song lại ở chỗ hắn đã hoàn toàn biết rõ tình trạng dao động và hoang mang đang bao trùm lên Paris, từ dân chúng đến quân đội.

Ngày 20 tháng 3, trận Arcis Sur Aube đã diễn ra giữa Napoléon lúc đó ở gần 3 vạn quân với quân Liên Minh do Schwarzenberg chỉ huy lúc đầu giao chiến có ngót 11 vạn quân và sau này cuối trận đánh đã điều động tới gần 9 vạn. Mặc dầu Napoléon đã giành phần thắng và thực tế đã đánh lui được quân địch trên nhiều điểm, nhưng kết quả trận đánh vẫn chưa rõ rệt: Napoléon không truy kích Schwarzenberg, đã vượt qua sông Aube và phá cầu. Trong trận này, Napoléon mất 3 nghìn người, quân Liên Minh mất 9 nghìn, nhưng cả lần này nữa, Napoléon đã không thể tiêu diệt được quân Liên Minh. Quân Liên Minh kinh sợ một cuộc chiến đấu dân tộc, một cuộc dấy lên của toàn dân Pháp như cuộc chiến tranh trong thời kỳ Cách Mạng anh hùng đã cứu nước Pháp thoát khỏi cuộc xâm lược của nước ngoài và sự phục hưng của triều đại Bourbon. Nhưng Aleksandr, Frederick Wilhelm, Francis, Schwarzenberg và Metternich hẳn sẽ yên tâm nếu họ được nghe câu chuyện giữa Napoléon và tướng Sébastiani sau trận Arcis Sur Aube. “Này, tướng quân, tình hình này tướng quân bảo sao?”. “Hạ thần cho rằng chắc hẳn Hoàng Thượng còn nhiều nguồn dự trữ khác mà hạ thần không biết tới”. “Chỉ có thế thôi đấy, chẳng còn gì nữa đâu”. “Vậy sao Hoàng Thượng không nghĩ đến việc kích động quốc dân đứng lên”. “Ảo tưởng, thật là ảo tưởng nếu vay mượn kinh nghiệm của cuộc chiến tranh Tây Ban Nha và của cuộc Cách Mạng Pháp, nếu kích động nhân dân của cái nước mà cách mạng đã thủ tiêu bọn quyền quý và bọn tăng lữ, mà chính bản thân tôi thì lại là thủ tiêu cách mạng". Napoléon đã thấu suốt sự thể: Đã cố sức kiên trì trong việc thủ tiêu mọi dấu tích của cách mạng, thì bây giờ đây, trong cuộc chiến đấu sống mái để giữ lấy Paris này, dẫu cho Napoléon có muốn chăng nữa cũng không thể kêu gọi được sự giúp đỡ của cuộc Cách Mạng Pháp mà trước kia ông ta đã chà đạp và bóp nghẹt được. Cuộc nói chuyện trên đây giữa Napoléon và tướng Sébastiani xảy ra ba ngày sau cuộc hội đàm giữa Aleksandr và Vitrolles. Napoléon coi việc động viên quần chúng đông đảo nổi dậy với tinh thần, khí thế như năm 1792 - mà kết thúc là sự tuyên bố thành lập nền Cộng Hòa - là ảo tưởng; còn như Aleksandr, kẻ thù không đội trời chung của ông, thì đúng là đang muốn tước bỏ mọi chỗ dựa của Napoléon ở trong nhân dân Pháp bằng cách khỏi động, vẽ ra trước mắt họ sự phục hưng chế độ Cộng Hòa.

3

Sau trận Arcis Sur Aube, Napoléon định đánh vào hậu phương của quân địch để cắt đứt liên lạc của họ với sông Rhine, nhưng quân Liên Minh đã quyết tâm tiến thẳng về Paris.

Những bức thư của Hoàng Hậu Marie Louise và của Bộ Trưởng Bộ Công An Savary viết cho Napoléon, bị quân Cossacks chặn bắt được, đã làm cho. Aleksandr tin chắc rằng ở Paris người ta không hy vọng gì vào cuộc kháng chiến toàn dân và nếu quân Liên Minh vào được thủ đô thì sẽ kết thúc được chiến tranh, sẽ quyết định luôn cả sự sụp đổ của Napoléon. Quân Liên Minh đi được đến bước quyết định ấy là nhờ có Pozzo di Borgo, người đảo Corsica; Borgo là kẻ vốn có mối thù với Napoléon từ lâu, và chính vì thế nên đã được Aleksandr tin cậy. Sau trận Arcis Sur Aube, khi quân Liên Minh được tin là Napoléon định cắt đường liên lạc của họ, thì Borgo tuyên bố: “Mục tiêu của chiến tranh là ở Paris. Chừng nào các ngài còn nghĩ đến giao chiến thì các ngài còn bị đánh bại, vì bao giờ Napoléon cũng nghênh chiến hơn các ngài, và vì binh lính của Napoléon, mặc dầu bất mãn nhưng do danh dự thôi thúc, họ sẽ hy sinh đến người cuối cùng ở bên cạnh Napoléon. Dẫu quyền lực quân sự của Napoléon có bị phá tan, Napoléon vẫn vĩ đại, rất vĩ đại nữa kia, và dẫu thiên tài của Napoléon có bị đánh đổ, song vẫn vĩ đại hơn các ngài. Nhưng quyền lực chính trị của Napoléon thì đã bị thủ tiêu. Thời thế đã thay đổi. Nền chuyên chế quân sự được thừa nhận là một công lao sau ngày Cách Mạng, nhưng kết quả của nó đã bị lên án từ lâu và hoàn toàn bị mất tín nhiệm. Phải tìm cách chấm dứt chiến tranh bằng chính trị, chứ không phải bằng quân sự, và muốn thế thì ngay khi địch có một chỗ hở nào đó có thể thọc qua được, và các ngài hãy lợi dụng ngay chỗ đó, cấp tốc kéo về Paris, dùng ngón tay khẽ đụng vào Paris, chỉ cần dùng ngón tay thôi, là kẻ khổng lồ ấy sẽ bị đổ nhào. Các ngài sẽ bẻ gãy được thanh kiếm mà các ngài không thể nào tước nổi được của hắn ta”. Pozzo di Borgo tin chắc rằng nhân dân đã quên bẵng dòng họ Bourbon, như hắn đã nói với Khối Liên Minh, vả lại chính Khối Liên Minh cũng đã nhận định như vậy. Khối Liên Minh đồng ý với Borgo về điểm cho rằng sau khi Napoléon đã bị lật đổ thì dòng họ Bourbon sẽ trở thành “có khả năng”.

Thấy có khả năng thanh toán được Napoléon mà không phải trở lại cái vấn đề Cộng Hòa vô cùng khó chịu, Aleksandr cho là không cần thiết phải nói tới nền Cộng Hòa nữa. Quân Liên Minh quyết định hành động mạo hiểm. Lúc này Napoléon đang đi xa, cũng đúng là để đánh vụ hồi vào sau lưng quân Liên Minh nhằm kìm chân họ lại không cho tiến lại gần Paris. Lợi dụng sự đi xa ấy của Napoléon và tin tưởng vào bọn phản bội sẽ nộp kinh thành trước khi đích thân ông Hoàng Đế về được đến nơi, nên quân Liên Minh đã quyết định tiến thẳng đến Paris. Đường về Paris do hai Thống Chế Marmont và Mortier cùng với hai tướng Pacthod và Amey án ngữ: Cả thảy có hai vạn rưỡi quân. Napoléon đã cùng với quân chủ lực tiến xa về phía Đông. Ngày 25 tháng 3, thắng trận ở Fère Champenoise, quân Liên Minh đã đẩy lùi được hai Thống Chế trên đường về Paris và 10 vạn quân Liên Minh đã xuất hiện ở ngoại vi thủ đô. Ngày 29 tháng 3, Hoàng Hậu Marie Louise rời Paris đi Château de Blois cùng với chú vua nhỏ thành Roma. Để phòng giữ Paris, quân Pháp bố trí khoảng 4 vạn quân. Khủng khiếp đè nặng kinh thành, tinh thần quân đội bạc nhược. Aleksandr muốn tránh được một cuộc đổ máu dưới chân thành Paris giả bộ đóng vai một kẻ chiến thắng đại lượng. “Thiếu lực lượng phòng giữ và thiếu người thủ lĩnh vĩ đại, Paris không thể kháng cự được; tôi tin tưởng sâu sắc như vậy”, đó là lời của Nga Hoàng nói với Orlov trong lúc trao cho Orlov tờ thiếp trắng để đình chỉ trận đánh mỗi khi thấy hé ra hy vọng thủ đô Pháp sẽ đầu hàng không chiến đấu. Trận đánh ác liệt diễn ra nhiều giờ liền; quân Liên Minh đã hao tổn 9 nghìn người, trong đó có chừng 6 nghìn quân Nga, nhưng rã rời vì lo sợ bị thất bại và bị Talleyrand thúc đẩy nên ngày 30 tháng 3, vào hồi 5 giờ chiều, Thống Chế Marmont đã đầu hàng.

Napoléon nhận được tin quân Liên Minh đánh bất ngờ vào Paris giữa lúc ông ta đang giao chiến ở khoảng giữa Saint Dizier và Bar Sur Aube. “Thật là một trận thất bại hoàn toàn. Và chưa bao giờ tôi ngờ được rằng tướng tá của quân Liên Minh lại có thể làm được việc đó!” Napoléon nói như vậy vào ngày 27 tháng 3, khi người ta báo cho ông tin ấy. Những lời khen ngợi ấy, trước hết, là lời của một nhà chiến lược trong người Napoléon.

Napoléon cùng với bộ đội cấp tốc quay về Paris. Về đến Fontainebleau đêm 30 tháng 3, Napoléon được tin trận đánh vừa kết thúc và Paris đã đầu hàng. Cũng như bất cứ bao giờ, Napoléon vẫn đầy cương nghị và kiên quyết. Sau khi nắm được tình hình của sự biến, Napoléon im lặng mười lăm phút, rồi trình bày cho Caulaincourt và các tướng tá bên cạnh ông biết kế hoạch mới, Caulaincourt về Paris để nhân danh Napoléon giảng hòa với Aleksandr và quân Liên Minh, với những điều kiện như Hội Nghị Châtillon đã đề ra. Caulaincourt phải làm sao tìm đủ mọi cớ để đi đi lại lại giữa Paris và Fontainebleau nhằm kéo dài thời gian ra ba ngày, thời gian cần thiết để Napoléon có thể điều động mọi lực lượng sẵn có từ vùng Saint Dizier về, sau đó sẽ tống cổ quân Liên Minh ra khỏi Paris. Caulaincourt ấp úng hỏi rằng tại sao không thể đem lại cho phe Liên Minh một hòa ước thật sự, không phải là một thủ đoạn chiến tranh. “Không, không ! - Hoàng Đế ngắt lời - Không thể bị ê chề! Không thể hòa bình nhục nhã! Đây là vấn đề thanh danh của nước Pháp, vinh dự của nước Pháp! Trong trận chiến đấu cuối cùng, chỉ có gươm đao, gươm đao phải quyết định điều đó!” Caulaincourt lại đi ngay Paris, còn Napoléon lại dốc hết tâm lực để chuẩn bị gấp rút cho trận đánh, trong ba, bốn hôm nữa sẽ diễn ra, theo dự kiến của ông ta. Chủ yếu Napoléon cho rằng trong thời gian ngắn ngủi ấy, quân Liên Minh không thể tiến hành được một cuộc vận động chính trị quyết định nào có thể làm mất tinh thần và lôi kéo quần chúng đang do dự ngả về phía họ. Chính vì vậy mà Napoléon đã bày ra màn kịch đàm phán này và còn chịu nhận cả những điều kiện mà trước đây hai tuần Napoléon đã miệt thị bác bỏ. Nhưng tình thế đã hoàn toàn không cứu vãn được nữa. Bọn Bảo Hoàng vui mừng đón chào các vua chúa phe Liên Minh tiến vào Paris, đông đảo quần chúng nhân dân giữ thái độ lạnh nhạt và chịu khuất phục, tất cả những điều đó nói lên rằng thủ đô sẽ chấp nhận cái chính phủ mà người ta sẽ đặt ra cho họ. Trong một bản tuyên bố, bọn vua chúa Liên Minh nói rằng bọn họ sẽ không đàm phán với Napoléon, họ sẽ công nhận chính phủ và chính thể nào mà dân tộc Pháp ưng thuận lựa chọn.

Như vậy là cuộc đàm phán của Caulaincourt với quân Liên Minh đã không mang lại chút kết quả gì. Aleksandr nói trắng ra với Caulaincourt rằng nước Pháp đã quá chán ghét Napoléon, đã quá mệt mỏi vì ông ta. Schwarzenberg nhắc lại bằng một giọng chua chát rằng Napoléon đã làm rung chuyển cả thế giới trong 18 năm trời và không một ai có thể sống yên ổn được với Napoléon. Người ta đã không ngừng đem lại cho ông ta hòa bình, bằng cách công nhận đế quốc của ông ta nhưng ông ta không muốn nhượng bộ chút gì; bây giờ thì cũng đã quá muộn rồi. Trong lúc nói như vậy, Schwarzenberg không biết rằng ngay cả lúc ấy Napoléon vẫn không muốn nhân nhượng một chút gì và đã cử Caulaincourt đến chỉ là cướp lấy ba ngày cho bộ đội của ông ta kịp về tới. Khi quay về với Napoléon, Caulaincourt thấy tình hình như sau: Quân đội đang kéo về tập trung dần dần, ông Hoàng Đế tính đến ngày 5 tháng 4 sẽ có trong tay 7 vạn quân và sẽ cầm đầu đoàn quân đó tiến về Paris. Sáng ngày 4, Napoléon đi duyệt đội ngũ. Hoàng Đế nói: “Hỡi các binh sĩ, quân thù đã chiếm của chúng ta ba biên trấn, chúng đã tới làm chủ Paris. Phải tống cổ chúng đi! Những tên Pháp gian, những tên lưu vong, mà xưa kia chúng ta đã nhu nhược không trừng trị, đã cấu kết với nước Anh và đã trương cờ trắng. Những kẻ hèn hạ đó! Chúng sẽ phải đền tội một cách thích đáng. chúng ta hãy thề thắng trận hoặc là chết, hãy thề rửa nhục cho Tổ Quốc và Quân Đội chúng ta”. Binh sĩ hô lớn: “Xin thề!”. Nhưng sau khi duyệt binh, quay về lâu đài thì ở đó Hoàng Đế thấy một tình hình tư tưởng hoàn toàn khác. Các Thống Chế Oudinot, Ney, MacDonald, Berthier, công tước Bassano đứng trước Napoléon với vẻ rầu rĩ lặng lẽ và không ai dám nói một lời. Napoléon gặng hỏi. Họ trả lời rằng họ không còn hy vọng chiến thắng nữa, rằng toàn thể nhân dân Paris, không phân biệt chính kiến, đều run sợ khi biết Hoàng Đế chuẩn bị công kích quân Liên Minh đã có ở trong thủ đô; như vậy, cuộc tiến công đó có nghĩa là thủ tiêu dân chúng và thành phố, bởi vì quân Liên Minh tất sẽ đốt cháy Paris để trả thù cho Moscow trước đây, và sẽ gặp khó khăn trong việc chỉ huy quân lính chiến đấu giữa cảnh hoang tàn của Paris. “Các người đi ra - Napoléon nói - tôi sẽ gọi và sẽ nói cho các người rõ ý định của tôi”. Hoàng Đế chỉ giữ lại Caulaincourt, Berthier và công tước xứ Bassano và ông tức tối phàn nàn về tinh thần do dự và bạc nhược của các Thống Chế, về sự thiếu tận tụy của họ đối với Hoàng Đế. Sau vài phút, Hoàng Đế tuyên bố với các Thống Chế rằng ông sẽ thoái vị, nhường ngôi cho con là chú vua nhỏ thành Roma, trao quyền nhiếp chính cho Hoàng Hậu Marie Louise, và nếu quân Liên Minh ưng thuận ký hòa ước với điều kiện như vậy thì chiến tranh sẽ kết thúc; ông sẽ cử Caulaincourt đến Paris, mang theo những kiến nghị đó, để thương lượng với quân Liên Minh.

Rồi Napoléon đọc cho các Thống Chế nghe bản tuyên bố mà ông vừa mới thảo xong: “Các cường quốc Liên Minh đã tuyên bố Hoàng Đế Napoléon là trở lực duy nhất cho việc lập lại hòa bình ở Châu Âu; trung thành với những lời thề của mình, Hoàng Đế Napoléon tuyên bố rằng: Vì lợi ích của Tổ Quốc gắn liền với quyền lợi của con Hoàng Đế, với quyền chấp chính của Hoàng Hậu và với việc duy trì luật pháp của đế chế, Hoàng Đế sẵn sàng thoái vị, rời bỏ nước Pháp và nếu cần cả cuộc đời nữa”. Các Thống Chế nhiệt liệt tán thành bản tuyên bố ấy. Sau khi đọc lại, Hoàng Đế cầm bút nhưng trước khi ký đã nói: “Này, các ông hãy tin ở tôi, sáng mai chúng ta sẽ đi và sẽ còn đánh bọn nó!”. Nhưng các Thống Chế im lặng. Không một ai hưởng ứng những lời nói ấy. Napoléon ký, rồi giao văn kiện cho một đoàn đại biểu gồm Caulaincourt, Ney, MacDonald. Bọn họ liền đi Paris ngay. Cũng trong lúc đó, biết bao biến cố đã xảy ra ở Paris, Talleyrand nhóm họp cấp tốc một bộ phận của Thượng Nghị Viện - gồm những kẻ được Talleyrand tin cậy - đã biểu quyết truất ngôi dòng họ Bonaparte và lập lại dòng họ Bourbon và biến cố nghiêm trọng hơn nữa là Marmont phản bội Hoàng Đế, đã cùng với quân đoàn của y rút về Versailles, như vậy là y đã chạy sang hàng ngũ Talleyrand và “chính phủ lâm thời” do Talleyrand điều khiển. Thoạt tiên, Aleksandr do dự: Cả Aleksandr lẫn ông Hoàng Đế Francis đều không phản đối gì lắm việc chú bé “Napoléon đệ nhị” lên ngôi, nhưng bọn Bảo Hoàng đứng vây quanh bọn vua chúa Liên Minh đã năn nỉ cố sao cho những đề nghị của Napoléon bị bác bỏ. Nhưng rồi họ đã không do dự nữa khi nhận được tin Marmont phản bội. Sự phản bội của các lực lượng chủ lực, do Napoléon trực tiếp chỉ huy đã làm cho Napoléon không thể tiến về Paris được nữa, và phe Liên Minh đã quyết định trao ngai vàng cho dòng họ Bourbon. Khi Caulaincourt từ giã Nga Hoàng trở về, Aleksandr nói rằng: “Ngài hãy khuyên nhủ Hoàng Đế của ngài nên tuân theo số mệnh”. Để một lần nữa tỏ lòng khâm phục “con người vĩ đại”, Aleksandr nói tiếp: “Tôi sẽ làm tất cả những điều có thể làm được vì danh dự của Napoléon”. Trước khi Caulaincourt đi, phe Liên Minh yêu cầu Caulaincourt cố nói sao cho Hoàng Đế thoái vị không điều kiện: Người ta hứa với Caulaincourt rằng sẽ giữ danh hiệu Hoàng Đế cho Napoléon và giao cho ông ta toàn quyền sở hữu đảo Elba, đồng thời họ nài nẫm về bản tuyên bố thoái vị được ký càng sớm càng hay. Phe Liên Minh và bọn Bảo Hoàng do Talleyrand cầm đầu lúc này đã ngang nhiên đứng về phía quân Liên Minh đều lo sợ trước một cuộc nội chiến có thể xảy ra và trước việc số đông quần chúng binh sĩ vẫn tuyệt đối trung thành với Napoléon. Chỉ có thể diệt trừ được những sự rối loạn khi bản thân ông Hoàng Đế ấy chính thức tuyên bố thoái vị. Lúc này nghị quyết của Thượng Nghị Viện chẳng có một chút giá trị gì về mặt tinh thần: Người ta coi các Thượng Nghị Sĩ như những kẻ tôi tớ của Napoléon, họ đã phản bội người chủ của họ không một chút do dự để đi hầu hạ một người chủ khác. Khi nói chuyện với Aleksandr, Ney đã thốt lên: “Cái Thượng Nghị Viện khốn kiếp ấy, đáng lẽ nó có thể làm cho chúng ta tránh được mọi đau khổ bằng cách bền bỉ như thế nào để chống lại khát vọng xâm lược của Napoléon; cái Thượng Nghị Viện khốn kiếp ấy, nó luôn luôn chịu vâng theo ý chí của con người mà ngày hôm nay nó gọi là bạo chúa, thế thì cái Thượng Nghị Viện ấy có quyền gì lên tiếng vào lúc này? Nó đã nín khi cần phải nói, vậy thì hiện nay ai cho phép nó được nói trong khi tất cả đều bắt nó phải câm đi”. Chỉ Napoléon, đích thân Napoléon, nói một lời mới có thể chấm dứt được tình trạng lưỡng nan nặng nề này, và có thể giải được lời thề khi xưa cho binh lính, sĩ quan, tướng lĩnh và viên chức của Napoléon. Đó là ý nghĩ của những người Pháp thuộc bất cứ đảng phái nào cũng như của phe Liên Minh.

4

Tối ngày 5 tháng 4, Caulaincourt, Ney và MacDonald từ Paris về đến Fontainebleau. Sau khi báo cáo với Napoléon về những cuộc bàn bạc với Aleksandr và phe Liên Minh. Caulaincourt, Ney và MacDonald khuyên Napoléon nên chịu theo tình thế; Napoléon nói rằng ông vẫn còn có một đạo quân, binh lính vẫn trung thành với ông. “Vả lại rồi khắc biết!... Mai đây!” Sau khi để mọi người ra, Napoléon cho gọi Caulaincourt tới. “Caulaincourt ạ, người đời, chao ôi, người đời!... Napoléon kêu lên như vậy trong cuộc chuyện trò kéo dài suốt đêm ấy.

“Các Thống Chế của tôi đi theo con đường của Marmont, rồi họ sẽ lấy làm hổ thẹn, vì khi nói đến Marmont lòng họ đầy giận giữ, nhưng họ cũng rất đáng giận bởi họ đã thả mình lao trên con đường danh lợi! Họ rất muốn được giữ nguyên chức vị dưới triều đại Bourbon mà không bị ô danh như Marmont”. Napoléon đã nói rất nhiều về việc Marmont phản bội ông ta trong giờ phút quyết định ấy. “Tên khốn kiếp không biết cái gì đang đợi chờ nó: Tên tuổi của nó sẽ bị ô nhục. Tôi không nghĩ đến tôi nữa, ông hãy tin như vậy, sự nghiệp của tôi đã hết hoặc sắp hết rồi. Vả lại, khi lòng người đã chán tôi và hướng về người khác, liệu còn thích thú gì nữa mà trị vì? Tôi nghĩ đến nước Pháp... Chà! Nếu bọn đớn hèn ấy không bỏ tôi, thì chỉ trong bốn tiếng đồng hồ là tôi sẽ khôi phục được thanh danh, ông hãy tin là thế, bởi vì với vị trí hiện nay của quân Liên Minh, sau lưng chúng là Paris và trước mặt chúng là tôi, chúng nhất định bị tiêu diệt. Để thoát khỏi nguy cơ đó, bọn chúng buộc phải rút khỏi Paris và sẽ không bao giờ trở lại được nữa. Thằng khốn khiếp ấy đã phá hoại cái kết quả tốt đẹp đó, nếu không, nhất định là chúng ta có cách để vươn dậy trong khi kéo dài chiến tranh.

Tôi được tin rằng ở, khắp mọi nơi, nông dân vùng Lorraine, Champenoise, Burgundy chọc tiết những quân địch đi lẻ. Hơn nữa, bọn Bourbon hiện đã về, có trời biết được cái gì sẽ đi theo chúng nó. Chúng nó là cái gì? Là hòa bình đối với nước ngoài, nhưng chiến tranh ở trong nước. Một năm nữa rồi ông thấy bọn chúng sẽ làm được những gì cho đất nước. Nhưng, bây giờ đây lại cần một cái gì khác chứ không phải tôi. Tên tuổi, hình ảnh, thanh kiếm của tôi đã gây sợ hãi. Đành phải chịu. Tôi sẽ gọi các Thống Chế đến, và ông sẽ thấy bọn họ vui mừng khi được tôi gỡ cho họ khỏi chỗ bối rối và cho phép họ làm như vậy mà vẫn giữ trọn được danh dự”.

Đêm ấy, Napoléon thổ lộ với Caulaincourt tất cả những điều mà chắc chắn là ông đã ngẫm nghĩ từ lâu; trong đó, điều nổi bật lên cự kỳ rõ rệt là sự mệt mỏi kinh khủng, chưa từng có của đất nước đang không sao chịu đựng được nữa cái triều đại đẫm máu, cái trò nướng sinh mạng không dứt, những cuộc tàn sát rùng rợn, những sự hiến dâng bao nhiêu thế hệ hy sinh cho mục đích không thể hiểu được. “Tôi muốn giữ vững cho nước Pháp là một đế quốc hoàn cầu”, Napoléon đã thành thật thú nhận như vậy vào năm 1814; lúc ấy, ông ta không biết rằng những thế hệ mai sau sẽ được chứng kiến một trường phái những nhà sử học yêu nước Pháp cố công gắng sức chứng minh rằng Napoléon suốt đời không đánh ai, mà chỉ là để tự vệ; nếu Napoléon đã đến Vienna, Milan, Madrid, Berlin, Moscow thì duy nhất chỉ là bảo vệ “biên giới thiên nhiên” của nước Pháp, và đến sông Moscow là để “bảo vệ” sông Rhine. Song chính Napoléon lại không nghĩ ra được lời giải thích đó.

Như vậy, nó còn thành thật hơn nhiều. Ông ta cũng không biết được con số tổng kê chính xác về các cuộc chiến tranh của mình; mãi mới đây, sau khi tìm kiếm trong toàn bộ những tài liệu lưu trữ chính thức và những tư liệu khác, Albert Menier mới xác định được, theo thống kê của ông, số công dân Pháp bị chết và bị mất tích trong các trận đánh và cách chiến dịch dưới thời Napoléon đã lên tới trên 1 triệu người (47 vạn người người bị chết chính thức ghi chép trong sổ sách và 53 vạn người mất tích hẳn). Đó là không kể số người bị thương nặng, bị tàn phế, không chết ngay ở chiến trường, mà ít lâu sau mới chết trong các viện quân y vì các vết thương của họ. Những con tính của Menier không bao gồm toàn đế quốc Napoléon, chỉ bao gồm: Nước Pháp “cũ” những “quận cũ”, nghĩa là không phải toàn bộ đất đai do Napoléon trị vì kể từ ngày 18 Tháng Sương Mù (bởi vì không tính nước Bỉ, xứ Piedmont, và những đất đai khác mà Cách Mạng và bản thân nó đã chiếm được trước ngày ông ta làm đảo chính), chỉ tính có nước Pháp trong phạm vi những đường biên giới vào năm 1799. Ngoài ra, cũng còn chưa tính đến tất cả các cuộc chiến tranh mà Napoléon đã tiến hành từ năm 1800 (nói một cách khác là còn gác ra ngoài những con số thiệt hại trong chiến dịch đầu tiên ở Ý vào năm 1796 - 1797, trong cuộc chiến tranh ở Ai Cập và ở Syria).

Như vậy là với dân số 26 triệu người, kể cả đàn bà và trẻ con, “các quận cũ” đã mất hơn 1 triệu người trong các cuộc chiến tranh của Napoléon. Napoléon không thể biết được điều đó một cách chính xác như vậy, tuy nhiên Napoléon cũng thấy được những làng mạc bị thưa thớt bởi những cuộc trưng binh, cũng thấy được những bãi chiến trường của vô số trận giao tranh của mình. Đôi lúc, chính bản thân Napoléon cũng thấy bồn chồn lo lắng và ông ta cố gắng an ủi người khác bằng cách vạch ra cho họ thấy binh lính trong quân đội Pháp, tức là tất cả những người lính Đức, Thụy Điển, Ý, Bỉ, Hà Lan, Ba Lan, Illyria, v.v. đã bị tiêu diệt nhiều hơn lính Pháp. nhưng sự tổn thất ba hoặc bốn triệu người ngoại quốc chiến đấu trong quân đội Napoléon, là một sự an ủi chẳng có giá trị gì đối với sự tổn thất một triệu người Pháp “chính cống”. Với Napoléon, hàng triệu quân địch bị giết, bị mất tích, bị tàn phá đã chẳng đáng để ông nói đến bao giờ. Trong suốt đêm dài ấy, đêm Napoléon đi đi lại lại trong những căn phòng của lâu đài Fontainebleau nguy nga và tẻ ngắt đó, đối diện Caulaincourt, làm một cuộc tổng kết, Napoléon chỉ rút ra một kết luận chủ yếu sau đây: Napoléon đã làm cho nước Pháp bị mệt mỏi suy nhược, đất nước đang sức cùng lực kiệt; chắc chắn bọn Bourbon chẳng làm nổi trò trống gì và sẽ không ai làm được việc hơn Napoléon làm được. Trong những ngày tháng 4 ấy, người ta báo cho Napoléon biết rằng nếu như các nhà buôn ở Paris và giai cấp tư sản không nhiệt tình đón tiếp quân Liên Minh bằng giới quý tộc Bảo Hoàng thì họ cũng đã lớn tiếng nói rằng họ bị chiến tranh tàn phá và xô đẩy đến bước đường cùng. Có thể nói rằng đêm ấy Napoléon không ngủ. Bình minh ngày mồng 6 tháng 4 hé rạng; Napoléon cho gọi các Thống Chế đến và nói rằng: “Xin các vị cứ yên tâm. Cả các vị và cả quân đội, sẽ không ai phải đổ máu nữa. Tôi ưng thuận thoái vị không điều kiện. Tôi đã những muốn vì các vị cũng như gia đình tôi mà trao quyền thừa kế cho con trai tôi. Tôi thiết tưởng cái kết cục như vậy sẽ có lợi cho các ngài nhiều hơn là cho tôi, vì hẳn là các ngài sẽ được sống dưới một chính thể thích hợp với gốc xuất thân, với tình cảm và lợi ích của các ngài. Điều đó có thể làm được, nhưng một sự phản bội bất chính đã cướp mất của các ngài cái hoàn cảnh sống mà tôi mong mỏi đem lại cho các ngài. Đáng lẽ chúng ta có thể làm được nhiều việc khác nữa, chúng ta có thể khôi phục được nước Pháp, nếu quân đoàn thứ 6 (Marmont) không phản bội. Nhưng sự việc đã khác hẳn rồi. Tôi đành tuân theo số phận của tôi, các ngài hãy tuân theo số phận của các ngài. Các ngài hãy cam chịu sống dưới triều đại Bourbon và phục vụ trung thành bọn chúng. Các ngài mong mỏi được nghỉ ngơi, thì để những linh cảm của tôi thành sự thật! Thế hệ chúng ta được sinh ra không phải để nghỉ ngơi, cảnh hòa bình mà các ngài ao ước sẽ giết chết nhiều người trong các ngài khi nằm trên nhung đệm hơn là cảnh chiến tranh dầm mưa dãi tuyết". Rồi Napoléon cầm lấy tờ giấy và đọc cho các Thống Chế nghe: “Khi các cường quốc Liên Minh đã tuyên bố Hoàng Đế Napoléon là trở lực duy nhất cho việc hòa bình ở Châu Âu, thì Hoàng Đế Napoléon, trung thành với lời thề của mình, tuyên bố rằng Hoàng Đế và những người thừa kế của Hoàng Đế sẽ từ bỏ ngai vàng nước Pháp và nước Ý, và vì lợi ích của nước Pháp, Hoàng Đế sẵn sàng hy sinh cá nhân, cho đến cả tính mạng của mình”.

Hoàng Đế ngồi vào bàn và ký tên. Các Thống Chế cảm động hôn tay ông và tíu tít tung ra hàng tràng những lời xu nịnh như họ đã từng làm trong suốt thời gian ông Hoàng Đế ấy trị vì. Caulaincourt cùng với hai Thống Chế đem ngay văn kiện ấy tới Paris. Aleksandr và phe Liên Minh vô cùng lo lắng đợi chờ kết cục. Khi đã nắm được bản tuyên bố thoái vị trong tay họ vui mừng khôn xiết. Aleksandr ưng chuẩn đảo Elba sẽ hoàn toàn thuộc chủ quyền của Napoléon, và con trai Napoléon, ông vua nhỏ thành Roma, cùng với Marie Louise sẽ được cấp những đất đai gọi là những vương hầu độc lập ở Ý. Tất cả đã xong xuôi.

5

Lúc này, Napoléon lại bị lôi cuốn vào cái ý nghĩ chắc hẳn đã nhiều lần ám ảnh ông trong suốt thời gian chiến dịch năm 1814, một chiến dịch vô cùng chói lọi về phương diện chiến lược, nhưng thực tế chỉ là một công trình truyệt vọng. Năm 1813, các Thống Chế, tướng lĩnh, sĩ quan, cần vụ và ngay cả binh lính đội cận vệ đều nhận thấy rằng ông Hoàng Đế đã liều mạng, tình thế đòi hỏi ông nhưng thực ra những trường hợp liều mạng ấy hoàn toàn vô ích, chứ không như trong các cuộc chiến tranh trước kia, ở cầu Arcole năm 1796, hoặc ở bãi tha ma Eylau năm 1807.

Như chúng tôi đã nói, vào năm 1813, sau cái chết của Duroc, Hoàng Đế ngồi lặng lẽ một chốc trên một rễ cây, không nhúc nhích và như một tấm bia làm mồi cho những mảnh đạn đại bác đang tung toé quanh mình. Năm 1814, những hành động khác thường ấy lại thấy diễn ra nhiều hơn và không còn ai là người không hiểu ý nghĩa của chúng nữa. Rõ nhất là trong trận Arcis Sur Aube ngày 20 tháng 3, khi lại một lần nữa đi tới cái địa điểm mà chính Napoléon đã hạ lệnh cho binh sĩ rút lui vì không thể giữ được nữa, thì tướng Exelmans đã lao tới Napoléon để ngăn lại, nhưng Thống Chế Sébastiani nói với tướng Exelmans: “Để mặc Hoàng Đế. Ông không biết là Hoàng Đế đã có dụng ý sao, Hoàng Đế muốn kết liễu đời mình”. Nhưng chẳng một làn đạn nào, một quả đạn đại bác nào muốn chạm vào Hoàng Đế. Napoléon luôn luôn thấy rằng tự tử là biểu hiện của sự yếu đuối và hèn nhát, và trong trận Arcis sur Aube, cũng như trước đây, trong trường hợp tương tự vào năm 1813 và năm 1814, trong khi đi tìm cái chết bằng một sự tự tử biến hình, không tự tay mình kết liễu lấy cuộc đời thì hiển nhiên là Napoléon đã tự dối mình.

Nhưng ngày 11 tháng 4 năm 1814, tức là năm ngày sau khi Napoléon thoái vị, trong khi ở lâu đài Fontainebleau, người ta đang sửa soạn cho Napoléon đi ra đảo Elba, thì sau khi cáo từ Caulaincourt, người mà Napoléon dành nhiều thời gian để gặp gỡ trong những ngày cuối cùng đó, ông đã lui về phòng riêng của mình. Sau này người ta phát hiện những đồ dùng cần thiết khi đi chiến dịch mà ông ta luôn luôn đem theo bên mình. Ở Fontainebleau, Napoléon phải cầu cứu đến nó và ông đã uống hết ống thuốc phiện. Những cơn đau đớn khủng khiếp đã dằn vặt ông dữ dội. Do linh tính báo trước điềm xấu, Caulaincourt vào phòng của Hoàng Đế và tưởng rằng Hoàng Đế bất thần bị bệnh, đã định chạy vội đi tìm viên thầy thuốc riêng của Hoàng Đế, nhưng Napoléon yêu cầu Caulaincourt đừng gọi ai cả và cũng đã giận dữ ra lệnh cấm Caulaincourt làm việc ấy. Những cơn co giật mỗi lúc một ác liệt thêm, đến nỗi Caulaincourt phải bỏ đi và đánh thức bác sĩ Ian, người đã pha chế thuốc phiện cho Hoàng Đế sau trận Maloyaroslavets. Nhìn thấy ống thuốc trên mặt bàn, bác sĩ hiểu ngay. Napoléon bắt đầu phàn nàn rằng thuốc độc quá yếu hoặc đã hả hơi, và nghiêm nghị đòi viên bác sĩ phải cho ngay một liều khác. Bác sĩ Ian vội vàng rời căn phòng, vừa thề rằng sẽ không bao giờ phạm vào một tội lỗi như vậy lần thứ hai. Những cơn đau của Napoléon kéo dài trong vài giờ vì Napoléon không chịu uống thuốc giải độc.

Napoléon nghiêm khắc yêu cầu giữ kín sự việc đã xảy ra. Sau nhiều cơn quằn quại khủng khiếp, Napoléon buột miệng nói : “Cái chết thật là khó, mà ở ngoài chiến trường thì lại dễ quá. Chao ôi! Sao tôi lại đã không chết ở Arcis Sur Aube”. Thuốc độc không có năng lực giết người; từ đó Napoléon không quay lại ý định tự tử nữa và cũng không bao giờ nhắc lại việc đó. Việc chuẩn bị để lên đường đã xong. Theo những điều kiện đã quy định với quân Liên Minh, ông Hoàng Đế được đem theo ra đảo Elba một tiểu đoàn trong đội cựu cận vệ.

Hinh 12

Ngày 20 tháng 4 năm 1814, tất cả đã sẵn sàng. Đoàn xe đưa Napoléon, một số nhân viên tùy tùng của ông ta và các uỷ viên của các cường quốc Liên Minh đi theo Hoàng Đế ra đảo Elba đã đậu thành hàng ở chân tường lâu đài. Napoléon muốn từ biệt đội cận vệ của ông. Đội cận vệ cũng đã đứng thành hàng ngũ ở trong sân chính lâu đài, một cái sân rộng lớn mà những nhà du lịch khi đến thăm quan Fontainebleau đều biết tiếng và nó đã được gọi là “sân vĩnh biệt”. Đội cựu cận vệ cùng các sĩ quan và các tướng lĩnh xếp thành đội hình chiến đấu ở phía trước, đội cận vệ mới ở phía sau. Khi Hoàng Đế hiện ra, người cầm cờ hạ lá cờ của đội cựu cận vệ xuống chân Hoàng Đế. “Hỡi các binh sĩ trong đội cựu cận vệ của ta, xin vĩnh biệt các người. Từ hai mươi năm nay, ta thường xuyên cùng các người đi trên con đường của vinh dự và chiến công. Trong những ngày cuối cùng này, cũng như trong những ngày cường thịnh trước kia của chúng ta, các người đã luôn luôn là mực thước của lòng dũng cảm và lòng trung nghĩa. Với những người như các người thì mục đích của chúng ta không thể nào thất bại được... nhưng biết đâu đó chẳng đã là nội chiến. Bởi vậy ta phải hy sinh mọi quyền lợi của chúng ta cho lợi ích của Tổ Quốc. Ta đi. Các người, các bạn thân thiết của ta, hãy tiếp tục phục vụ nước Pháp... Xin vĩnh biệt các bạn! Ta những muốn ghì chặt tất cả các bạn vào lòng ta; nhưng thôi, đành hôn lá cờ của các bạn”. Napoléon không thể nói được hơn nữa. Tiếng ông đã tắc nghẹn. Ông ôm hôn người cầm lá cờ, rồi bước nhanh lên xe.

Đoàn xe chuyển bánh giữa những tiếng hô “Hoàng Đế muôn năm!”. Nhiều binh lính cận vệ khóc nức nở. Thuật lại cảnh tượng ấy, báo chí Anh viết: “Thiên anh hùng ca vĩ đại nhất của lịch sử thế giới đã chấm dứt: Napoléon đã từ giã đội cận vệ của ông”. Nhưng thực tế, thiên anh hùng ca hai mươi năm trời đó, bắt đầu từ tháng 12 năm 1793 ở Toulon đến tháng 4 năm 1814 ở Fontainebleau, chưa phải đã hoàn toàn chấm dứt. Napoléon hẳn còn làm cho thế giới không ngờ tới được, cái thế giới từ hai mươi năm qua dường như đã từng học thuộc chữ ngờ.