Tôi không bao giờ có được giấc ngủ ngon. Một con Mimic có thể kết liễu mạng tôi bất kỳ lúc nào, hoặc tôi có thể tắt điện ngay giữa trận chiến. Sau đó ư, chẳng còn gì. Tiếp theo, không hề có một cảnh báo, hư không ập tới. Những ngón tay vốn đang siết cò bỗng dưng lại ở trên cuốn sách bìa mềm. Tôi nhận ra bản thân đang nằm trên giường, bao quanh bởi những ống kim loại, lắng nghe cô nàng DJ với giọng cao vút đọc dự báo thời tiết. Trời đang rất trong xanh và đầy nắng ấm ở ngoài đảo, y như hôm qua, hãy cẩn thận tia cực tím vào buổi chiều. Từng từ một khoan sâu trong sọ tôi rồi kẹt luôn trong đó.
Khi từ “nắng ấm” vang lên là lúc tôi chụp lấy cây bút, đoạn “ngoài đảo” là khi tôi viết con số lên tay, còn khi cô ta nói tới đoạn “tia cực tím” tôi đã bật dậy khỏi giường và chạy tới xưởng vũ khí. Đó là thủ tục thức dậy mỗi ngày của tôi.
Ngủ vào đêm trước trận chiến là một buổi luyện tập kéo dài. Không hiểu vì lý do gì, cơ thể tôi không hề cảm thấy mệt mỏi. Thứ duy nhất xuất hiện trong tôi là những ký ức và những kỹ năng mà tôi thành thục. Tôi dành cả đêm lăn qua lăn lại, đầu óc ngập tràn những bước di chuyển tôi học được vào ngày hôm trước và để nó cài đặt vào não tôi. Tôi phải làm được những gì tôi không thể trong vòng lặp trước, để giết những con Mimic tôi không thể giết, để cứu những người bạn tôi không thể cứu. Y như việc chống đẩy tổng hợp trong đầu vậy. Màn hành xác vào ban đêm của riêng tôi.
Tôi thức dậy trong trạng thái chiến đấu. Giống như phi công gạt từng nút bấm trước khi hạ cánh, tôi kiểm tra từng phần cơ thể, kiểm tra xem có bắp cơ nào bị đau sau tối qua không. Một ngón chân có hơi tím lại cũng không bị tôi bỏ qua.
Xoay mông 90 độ, tôi nhảy ra khỏi giường và mở mắt. Tôi chớp mắt. Mắt tôi nhòe đi. Căn phòng trông khang khác. Cái đầu ông thủ tướng ở trên thân cô nàng người mẫu áo tắm hôm nay không nhìn chằm chằm vào tôi. Ngay lúc tôi để ý, mọi chuyện đã quá muộn; chân tôi bước hụt xuống một bậc thềm vốn dĩ không ở đó và quán tính khiến tôi ngã nhào ra khỏi giường. Đầu tôi va vào sàn nhà lát gạch, và tôi cuối cùng cũng nhớ ra tôi đang ở đâu.
Những tia nắng mặt trời xuyên qua lớp kính chống chấn động và tràn vào trong căn phòng rộng và lộng gió. Một ngọn gió nhân tạo từ máy lọc thổi lên người tôi khi tôi nằm dài trên sàn nhà. Những bức tường cũng những tấm kính dày cách âm hoàn toàn khu căn cứ vốn thường rất ầm ỹ trong tai tôi.
Tôi đang ở trên Phòng nghỉ Ngoài trời. Trong một căn cứ chỉ toàn sắt thép và những thanh gỗ kháng lửa màu kaki, đây là căn phòng đầu tiên và duy nhất xứng với cái từ ‘căn phòng’. Đây vốn là phòng họp của các sĩ quan cấp cao và cũng là phòng tiếp khách, vậy nên quang cảnh ban đêm của Uchibo qua khung cửa sổ lót kính đa lớp ở đây tương đối đáng đồng tiền bát gạo.
Cũng như khung cảnh tuyệt vời, nơi đây không phải là một nơi giúp bạn dễ dàng rời khỏi giường, trừ khi bạn là một con dê núi hay một nhà tu khổ hạnh với tình yêu tuyệt đối tới các đấng trên cao. Hoặc bạn là Yonabaru. Tôi có nghe đồn hắn ta có một chỗ bí mật ở đây, ở tầng cao hơn cả nơi những sĩ quan cấp cao được phép tới. “Cái tổ ấm tình yêu của hắn,” chúng tôi gọi nó là vậy.
Cái ổ chim yêu dấu thì đúng hơn.
Nhìn về phía đại dương tôi có thể thấy được đường chân trời cong cong thoai thoải. Bãi biển Uchibo trông mờ mờ ảo ảo trong làn sương mù buổi ban mai. Từng đợt sóng dâng lên, biến thành bọt trắng rồi tan biến vào trong lòng đại dương. Xa xa bên ngoài những ngọn sóng đó là hòn đảo mà Mimic đã biến nó thành nơi đẻ trứng. Trong tích tắc, tôi nghĩ tôi đã thấy cái gì đó xanh màu lá cây lóe lên trong những ngọn sóng. Tôi chớp mắt. Ở đó chỉ còn lại ánh nắng lấp lóa phản chiếu trên mặt nước.
“Tối qua anh ngủ ngon phết nhỉ.” Rita đi ra từ một căn phòng khác và đứng lại bên tôi.
Tôi từ từ ngước lên. “Cảm giác cứ như hằng bao nhiêu năm trời rồi.”
“Năm?”
“Kể từ lúc tôi có một giấc ngủ ngon. Tôi đã quên mất nó ra sao rồi.”
“Câu chuyện điên rồ về vòng lặp ha.”
“Cô phải biết chứ.”
Rita vẫy tay tỏ ý đồng tình.
Vị cứu tinh của chúng tôi, Full Metal Bitch, sáng hôm nay trông cô thư thái hơn bao giờ hết. Đôi mắt cô ấy dịu dàng hơn trong những tia nắng ban mai, và nắng vàng cũng khiến mái tóc đỏ rực màu sắt rỉ ấy lấp lóa ánh cam. Cô ấy trao cho tôi một ánh mắt y chang ánh mắt cô thường trao cho con cún theo đuôi cô về nhà. Cô ấy điềm tĩnh cứ như một nhà sư. Cô ấy thật xinh đẹp.
Căn phòng đột nhiên bừng sáng, và tôi híp mắt lại trước ánh hào quang. “Mùi gì thế nhỉ?”
Một hương vị rất đặc trưng hòa trộn với không khí trong lành nhả ra từ máy lọc. Nói thật mùi đó cũng không tệ cho lắm, nhưng tôi khó mà coi đó là một mùi hương dễ chịu được. Nếu là của thức ăn thì quá hăng, nếu là của nước hoa thì lại quá nồng. Nói thật, tôi chả biết nó là cái quái gì.
“Tôi chỉ vừa mới mở cái túi ra thôi mà. Mũi của anh thính như gì ấy.”
“Trong huấn luyện họ bảo chúng tôi phải cảnh giác trước bất kỳ mùi vị kỳ lạ nào, do có thể bộ lọc khí của Chiến giáp gặp vấn đề - tất nhiên giờ tôi giờ không ở trong Chiến giáp.”
“Tôi chưa từng gặp người lại lẫn lộn mùi thức ăn và vũ khí hóa học đấy,” Rita nói. “Anh không thích mùi này sao?”
“Thích không phải là từ tôi sẽ dùng. Nó có mùi ... kỳ quái.”
“Chả lịch sự tí nào. Đấy là cách anh nói cảm ơn tôi vì pha cho chúng ta một ấm cà phê vào buổi sáng đấy ư?”
“Đó là .... cà phê à?”
“Tất nhiên rồi.”
“Đây không phải là cách cô trả đũa tôi sau vụ mơ muối đấy chứ?”
“Không, đây là cái mùi đích thực của hạt cà phê thu hoạch từ những cây cà phê đích thực. Chưa từng thử à?”
“Ngày nào mà tôi chả uống cái thứ nước gạo rang nhân tạo ấy.”
“Cứ chờ tới khi tôi pha nó đã. Mùi thế này vẫn chưa là gì đâu.”
Tôi không hề biết rằng hạt cà phê thực thụ vẫn còn tồn tại trên thế giới này. Chuyện là, tôi nghi ngờ rằng dù cà phê thực thụ vẫn còn tồn tại ở đâu đó nhưng cũng khó mà tìm được người vẫn còn giữ được thói quen uống chúng.
Thứ đồ uống thay thế cho cà phê ngày này được làm từ những hạt trồng trong phòng thí nghiệm, với hương liệu nhân tạo để tạo ra mùi vị. Hàng thay thế không thể nặng mùi như những hạt Rita đang xay, và không xộc vào mũi bạn và chui sâu vào từng ngõ ngách trong phổi bạn như chúng làm. Tôi nghĩ bạn có thể coi cái mùi của hàng nhân tạo kia tiệm cận với hàng thật, nhưng cái khoảng tiệm cân kia nó cũng như là cách biệt giữa viên đạn súng ngắn 9mm với vỏ đạn chống tăng 120mm.
“Để lấy được thứ đó cũng cần chút vận may không nhỏ đâu,” tôi nói.
“Tôi đã kể cho anh chúng tôi từng ở tiền tuyến tại Bắc Phi trước khi tới đây đúng không. Đó là một món quà từ một trong những dân làng được chúng tôi giải cứu.”
“Món quà được đấy.”
“Được làm nữ hoàng cũng không tệ đến vậy, anh thấy đấy.”
Một cái máy xay cà phê bằng tay đặt giữa chiếc bàn thủy tinh. Một thiết bị nho nhỏ với hình dáng rất đặc thù –– tôi đã từng thấy một cái ở cửa hàng đồ cổ. Bên cạnh đó là một thứ trông có vẻ như là một cái phễu tráng men bọc bằng một lướp vải màu nâu. Tôi đoán cái đó dùng để đặt cà phê đã xay vào giữa và đổ nước vào.
Một bếp ga quân dụng và một cái quạt cao áp chiếm lấy giữa căn phòng. Hai cái tách được đặt gần đó, một cái có một vết mẻ be bé còn cái kia thì trông mới tinh. Tại mép bàn có một cái túi nilon có thể đóng lại được, bên trong chất đầy những hạt cà phê màu nâu tối.
Rita hình như chả có nhiều tư trang cá nhân lắm. Hành lý thì chỉ có mỗi một cái ba lô vải nilon bán trong suốt đặt dưới chân bàn –– nó trông giống như cái túi của mấy gã vận động viên quyền anh ấy. Không có những dụng cụ pha cà phê đi kèm, cái túi nằm sõng soài, gần như chả có gì. Những người lính được gửi tới tít tận góc khuất của quả đất thường được nhắc nhở không mang quá nhiều hành lý, nhưng kể cả xét trong tiêu chuẩn đó thì hành lý của Rita cũng quá nhẹ. Một trong những hành lý cô mang theo là máy xay cà phê bằng tay, và thứ đó chả giúp cô bớt kỳ quặc là mấy.
“Anh có thể chờ trên giường nếu muốn.”
“Tôi thích đứng xem hơn,” Tôi nói. “Cái này hay đấy.”
“Vậy thì để tôi xay nhé.”
Rita bắt đầu quay cái tay cầm của máy xay cà phê. Thứ âm thanh sột soạn choán đầy cả căn phòng và chiếc bàn thủy tinh rung lên bần bật. Vài lọn tóc quăn quăn trên đỉnh đầu của cô cũng đung đưa phất phơ.
“Khi trận chiến kết thúc, tôi sẽ mời cô thưởng thức món trà xanh tuyệt vời nhất mà cô từng được thưởng thức –– để hồi đáp cho món cà phê này.”
“Tôi nghĩ trà xanh bắt nguồn từ Trung Quốc chứ.”
“Có lẽ nó khởi nguồn từ đó, nhưng nơi đây mới là nơi khiến nó trở nên hoàn hảo. Phải mất hàng đống thời gian thì họ mới cho phép đem nó đi xuất khẩu đấy. Tôi tự hỏi chúng ta nên dùng loại gì đây.”
“Họ có phục vụ nó miễn phí tại nhà hàng à?”
“Đúng vậy.”
“Sau chiến tranh...” Rita nói nghe có hơi đượm buồn.
“Này, trận chiến này rồi sẽ kết thúc mà. Chắc chắn luôn. Tôi và cô sẽ thấy được ngày đó.”
“Anh nói đúng. Tôi chắc chắn anh sẽ thấy được.” Rita lấy những hạt đã xay ra và đổ vào tấm vải lọc phủ lấy cái phễu. “Đầu tiên anh phải tráng sơ chúng đã.”
“Hử?”
“Mùi vị sẽ hoàn toàn thay đổi luôn. Một ông bạn già của tôi đã từng chỉ cho tôi. Tôi không hiểu tại sao nó lại có tác dụng, nhưng nó thực sự có tác dụng.”
Cô ấy thấp nước lên những hạt cà phê tươi nguyên đã được xay bằng nước âm ấm. Những bong bóng màu kem nổi lên nơi nước chạm vào cà phê. Một hương vị đắng chát, ngọn ngào và chua chua bùng nổ trong khoảng không quanh cái bàn.
“Mùi vẫn kì kì à?”
“Thơm quá.”
Bằng những chuyển động tròn đều, Rita cẩn thận đổ nước vào. Từng giọt một, thứ chất lỏng màu nâu sáng long lanh bắt đầu nhỏ tong tong xuống chiếc cốc kim loại đang chờ ở bên dưới.
Một làn hơi mỏng bắt đầu bốc lên từ cái cốc khi âm thanh đinh tai nhức óc xuyên qua những lớp tường dày và tấm kính cường lực tại phòng nghỉ trên không. Sàn nhà rung lên. Rita và tôi rơi xuống đất ngay sau một nhịp tim. Mắt chúng tôi chạm vào nhau.
Không có những tiếng kêu leng keng của chiếc đèn chùm làm bằng thủy tinh, chỉ có một thứ âm thanh chấn động đầy sắc bén, cứ như có ai đó vứt quyển danh bạ điện thoại dày cộp xuống sàn nhà. Những vết nứt hình mạng nhện lan ra trên ô cửa sổ, một mũi giáo màu đất nằm ngay giữa tấm lưới đó. Thủy tinh lỏng màu tím tràn ra khỏi vết nứt và đổ đầy xuống sàn.
Quá muộn, còi báo động bắt đầu vang vọng khắp căn cứ. Ba cột khói to bốc lên ở bên ngoài cửa sổ. Mặt nước ngoài bãi biển bắt đầu chuyển thành màu xanh tái mét.
“Một –– một đợt tấn công?” Giọng tôi run rẩy. Có lẽ cả cơ thể tôi cũng vậy. Trong 159 vòng lặp trước chưa từng có đợt tấn công bất ngờ nào. Cuộc chiến vốn phải bắt đầu sau khi chúng tôi hạ cánh tại Đảo Kotoiushi.
Loạt đạn thứ hai và thứ ba lao vào cửa sổ. Cả tấm kính lõm vào bên trong nhưng vẫn chưa vỡ tung ra. Những vết nứt lan ra khắp ô cửa sổ. Từng tia sáng chói chang chọc vào mắt tôi.
Rita đã đứng dậy và bình tĩnh để cái chảo rang lên trên bếp ga. Cô ấy tắt lửa rất chuyên nghiệp.
“Cái cửa kính này không tồi đâu. Đúng là không thể trông mặt mà bắt hình dong,” Rita lẩm bẩm.
“Chúng ta phải phản công –– không, tôi phải đi tìm trung sĩ –– chờ đã, Chiến giáp của chúng ta!”
“Đầu tiên anh cứ bình tĩnh lại đã.”
“Nhưng, chuyện gì đang xảy ra!” Tôi không định hét lên, nhưng tôi chẳng kìm lại được. Tất cả chỗ này làm gì có trong kịch bản. Tôi đã bị lặp thời gian nhiều lần tới mức từng sự kiện trong tiểu thuyết đều đã bị tôi học thuộc tới mức ám ảnh. Cái sự kiện bị một mũi giáo nổ tung trước những ô cửa trong căn phòng tôi đang đứng thật là vô lý.
“Những con Mimic sử dụng vòng lặp để chiến thắng. Anh không phải là người duy nhất nhớ được những gì xảy ra tại các vòng lặp trước.”
“Vậy đây là do tôi đã khuấy đảo mọi chuyện trong vòng lặp trước?”
“Lũ Mimic hẳn đã quyết định đây là cách duy nhất giúp chúng thắng được. Thế thôi.”
“Nhưng... căn cứ,” Tôi nói. “Sao chúng lọt vào đây được?”
“Chúng đã từng đi xuyên qua Mississippi để tấn công Illinois. Chúng là những sinh vật biển. Không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng tìm ra cách vượt qua vòng phòng vệ được tạo ra bởi một đám người trú ngụ trên đất liền.” Rita bình tĩnh đáp.
“Chắc vậy.”
“Để mấy gã thượng cấp lo chuyện đó đi. Với tôi và anh, chuyện này chỉ có nghĩa là chúng ta chiến đấu tại đây thay vì Kotoiushi thôi mà.”
Rita vươn tay ra. Tôi nắm lấy nó và cô ấy kéo tôi đứng dậy. Những ngón tay ấy chai sạn tại những chỗ giao tiếp với Chiến giáp. Lòng bàn tay vừa cầm chiếc chảo rán ấy ấm ơn của tôi nhiều. Tôi có thể cảm thấy nỗi lo sợ thắt chặt lấy lòng ngực trong tôi bắt đầu vơi bớt.
“Công việc của một người lính Chiến giáp là giết sạch mọi con Mimic trong tầm ngắm. Đúng không?”
“Ừ. Ừ, chính xác.”
“Chúng ta sẽ tới nhà chứa máy bay của quân Hoa Kỳ trước. Tôi sẽ lấy Chiến giáp của tôi. Chúng ta sẽ lấy vũ khí cho cả hai. Tôi sẽ bảo vệ anh trên đường tới nhà chứa máy bay Nhật. Rõ chưa?”
“Rõ rồi.”
“Rồi chúng ta sẽ đi săn con server và giết nó. Kết thúc vòng lặp. Sau đó, chỉ cần dọn dẹp những gì còn lại.” Tôi ngừng run rẩy. Rita xẹt qua một nụ cười đanh thép. “Chẳng có thời gian thưởng thức cà phê sáng rồi.”
“Kết thúc nhanh trước khi nó nguội mất nào,” Tôi nói, vươn tay lấy một tách.
“Đùa hay thật vậy?”
“Mất công nghĩ lắm đó.”
“Mặc dù vậy nghe cũng vui đấy. Cà phê đun lại sẽ không còn mùi vị như trước nữa. Và nếu anh để phơi trần nó bên ngoài, sau khoảng ba ngày nó sẽ bắt đầu đóng ván. Chuyện đó từng xảy ra một lần hồi tôi còn ở Châu Phi. Tức muốn nổ đom đóm mắt.”
“Uống có ngon không?”
“Vui nhỉ.”
“Nếu cô không uống, sao cô biết được nó không ngon?”
“Anh thích thì đi uống cà phê đóng ván. Đừng bắt tôi dọn dẹp sản phẩm thải ra của anh sau khi anh buồn nôn là được. Đi nào.”
Rita đi ra khỏi bàn, để lại sau lưng tách cà phê hoàn toàn tự nhiên được pha nguyên chất. Khi chúng tôi đi ra khỏi phòng, một cô nàng nhỏ nhắn đang tì vào cửa ngã nhào vô bên trong, làm rơi cả cái mũ lông chim và mấy phụ kiện ba lăng nhăng khác. Mái tóc đen được tết lại thành bím thò ra đằng sau cái mũ kỳ quái. Cô nàng người Mỹ chính gốc được người người yêu mến, Shasta Raylle.
“Chúng ta bị tấn công! Chúng ta bị tấn công!” cô ấy hét lên, gần như đứt hơi. Khuôn mặt cô nàng hằn sọc những vệt sơn đỏ và trắng. Tôi bắt đầu tự hỏi không biết trong mấy cái vòng lặp này chỉ có riêng tôi trở nên điên điên khùng khùng khi dành những giây cuối cùng của cuộc đời nằm trong hố bom bốc khói không nữa.
Rita bước lùi một bước để đánh giá chính xác một trong những bộ não vĩ đại nhất trong trường MIT. “Bộ lạc da đỏ nào tấn công vậy?”
“Không phải bộ lạc! Lũ Mimic!”
“Đây là cách cô ăn mặc trước mỗi trận chiến à?”
“Không tốt sao?” Shasta hỏi.
“Tôi không phải là người hay chỉ trích tôn giáo hay phong tục của người khác, nhưng tôi phải nói cô lỡ mất hai trăm năm để làm thầy phù thủy rồi.”
“Không, cô không hiểu!” Shasta nói. “Họ bắt tôi mặc thế này trong bữa tiệc tối qua! Chuyện này luôn xảy ra khi cô không ở bên.”
Có lẽ ai cũng có nỗi khổ của riêng mình, tôi nghĩ vậy.
“Shasta, sao cô lại ở đây?” Rita nói với vẻ khá kinh ngạc.
“Tôi tới đây để báo cho cô biết rìu chiến của cô không ở trong nhà chứa máy bay, nó ở trong công xưởng.”
“Cảm ơn vì đã báo tin nhé.”
“Cẩn thận ở ngoài kia đấy.”
“Cô đang làm gì ở đây?”
“Tôi không thể chiến đấu, nên tôi nghĩ tôi sẽ tìm nơi nào đó an toàn để trốn ––“
“Dùng phòng của tôi này,” Rita nhanh nhẩu nói. “Những mũi giáo không thể đâm xuyên qua tường hay cửa kính. Trông thế thôi chứ nó bền lắm đấy. Cô chỉ cần giúp tôi một chuyện là được.”
“Một... chuyện?”
“Đừng để ai vào đây cho tới khi tôi hoặc anh ta quay lại.” Rita chĩa ngón tay về phía tôi. Tôi nghĩ Shasta còn không nhận ra ở đây còn một người khác đang đứng bên cạnh Rita cho tới tận lúc này. Tôi gần như nghe được tiếng đôi mắt to tròn kia chớp chớp từ đâu đó đằng sau cặp kính dày cộp khi cô ấy nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi vẫn chưa gặp Shasta Raylle trong vòng lặp này.
“Và anh là...?”
“Keiji Kiriya. Rất hân hạnh.”
Rita bước tới cánh cửa. “Cô không được để cho ai vào, dù cho họ là ai hay họ nói gì. Kể cả tổng thống có tới thì cứ bảo ông ấy cút đi.”
“Yes sir!”
“Trông cậy cả vào cô đấy. Ồ, và thêm một chuyện nữa ––“
“Hử?”
“Cảm ơn vì lá bùa may mắn. Tôi sẽ cần tới nó đấy.”
Rita và tôi vội vã chạy ra nhà chứa máy bay.