Con Trai Kẻ Khủng Bố

Chương 3: Năm 1981 Pittsburgh, Pennsylvania

Nhiều năm trước khi gặp cha, mẹ tôi yêu một người đàn ông theo chủ nghĩa vô thần.

Mẹ lớn lên dưới sự nuôi dưỡng của bà ngoại, một tín đồ Cơ đốc giáo, cuồng đạo và cuồng thuốc lá thậm chí còn hơn. Bà ngoại gửi mẹ tôi đến trường học Thiên chúa và làm việc cho Bell Atlantic hàng chục năm để nuôi sống gia đình. Mẹ tôi không bao giờ biết ông ngoại là ai bởi ông đã rời bỏ vợ con từ khi bà còn nhỏ.

Mẹ tôi là người cực kỳ sùng đạo, nhưng bà lại vô cùng yêu và ngưỡng mộ người đàn ông đó, đến mức bất chấp tất cả để kết hôn với ông ta. Cuộc hôn nhân kéo dài đủ lâu để hai người sinh một đứa con gái, đó là chị tôi. Dẫu vậy, cuối cùng mẹ cũng nhận ra rằng bà không thể nuôi dạy chị gái tôi cùng với một người đàn ông bài xích tôn giáo như vậy.

Cuộc hôn nhân tan vỡ. Thật không ngờ, niềm tin Chúa của mẹ cũng sụp đổ. Bà đến gặp một vị mục sư quen biết từ hồi còn đi học để xin lời khuyên về một vấn đề nào đó đang diễn ra và cuộc nói chuyện của hai người lan sang thần học. Mẹ tôi tin vào Thiên Chúa Ba ngôi, song bà cũng thừa nhận với mục sư rằng bà không thực sự hiểu về nó. Mục sư kiên nhẫn giảng giải cho mẹ tôi. Tuy nhiên, càng hỏi, yêu cầu về sự rõ ràng của mẹ tôi càng cao, song những câu trả lời của mục sư trở nên rối rắm và không khiến mẹ tôi hài lòng. Mục sư bắt đầu trở nên chán nản và giận dữ. Mẹ tôi không có ý làm khó mục sư. Bà cố gắng xoa dịu tình hình. Nhưng mục sư không cho bà cơ hội, ông ta quát mắng đầy giận dữ: “Nếu cô phải hỏi tất cả những câu hỏi đó thì cô chẳng có chút niềm tin nào cả!”

Mẹ tôi điếng người vì sợ, mãi sau này bà nói với tôi rằng: “Mẹ cảm thấy như thể bị ông ta đâm một nhát dao vào tim vậy.” Lòng tin vào Chúa của mẹ tôi chưa lúc nào suy suyển, nhưng bà biết, ngay sau cuộc gặp gỡ vị mục sư đó, bà đã không còn là một tín đồ Cơ đốc nữa. Mẹ tôi lúc ấy vẫn đang trong độ tuổi hai mươi, đã trở thành một bà mẹ đơn thân và đang theo học để làm giáo viên. Bà mang theo cô con gái hai tuổi trên hành trình tìm kiếm một tôn giáo mới và một người chồng mới.

Ngay từ buổi đầu của chặng đường tìm kiếm ấy, mẹ tôi tìm được một cuốn sách về đạo Hồi trong thư viện ở Pittsburgh. Bà chăm chỉ đến tòa thánh đường địa phương, hoặc masjid (nơi thờ cúng của tín đồ đạo Hồi) để đặt ra những câu hỏi, gặp gỡ những sinh viên đạo Hồi đến từ Afghanistan, Ai Cập, Libya và Ả Rập hay từ bất cứ đâu. Bà không có bất cứ ý niệm gì về mức độ ấm áp và tính chất gia đình của cộng đồng này. Đặc biệt, những người đàn ông đạo Hồi mà bà gặp ở đó chẳng khác nào những sinh vật giống đực lạnh lùng, không thân thiện. Họ vui vẻ vẫy chào chị gái tôi đang chập chững xung quanh.

Vào một ngày gần cuối tháng Năm năm 1982, mẹ tôi ngồi trong một phòng học trên lầu tại thánh đường. Bà đang trong quá trình cải đạo sang đạo Hồi và đang luyện tập lời tuyên tín Shahada: Không có thượng đế nào ngoài Allah và Muhammad là sứ giả của Ngài. Lời tuyên tín phải được nói với thái độ đứng đắn, rũ bỏ hoàn toàn sự nghi ngờ, và chỉ thể hiện tình yêu và sự phục tùng. Sâu trong tâm trí, mẹ tôi dường như nghe được sự phản đối của bà ngoại, người cho rằng mẹ tôi đã bị mê hoặc bởi Hồi giáo và thẳng thừng nói rằng bà sẽ không bao giờ cho phép mẹ tôi bước vào nhà mà quấn một chiếc khăn chết tiệt trên đầu. Bà đã nói nguyên văn như thế này: “Láng giềng sẽ nghĩ gì đây?”

Mẹ tôi nhanh chóng rũ bỏ những tạp niệm ấy ra khỏi đầu. Niềm tin của bà vào đạo Hồi, nhu cầu của bà về đạo Hồi, đang trở nên sâu sắc hơn và mạnh mẽ hơn. Bà liên tục nhắc lại lời tuyên tín cho đến khi thực sự cảm nhận được điều gì đó trong tim: Không có thượng đế nào ngoài Allah và Muhammad là sứ giả của Ngài. Không có thượng đế nào ngoài Allah...

Lúc đó Hani, một người bạn mới quen tại masjid, đến gặp bà. Hani là người giúp đỡ mẹ tôi trong hành trình đến với đạo Hồi. Ông ta nói với mẹ tôi rằng có những người đàn ông khác đang cầu nguyện tại thánh đường và họ lấy làm vinh hạnh được nghe lời tuyên tín của mẹ tôi và chứng kiến bà trở thành tín đồ Hồi giáo.

Mẹ tôi trở nên căng thẳng tột độ và chỉ với suy nghĩ ấy thôi cũng làm hai má bà đỏ bừng.

Hani vội vã giải thích: “Không có gì phải sợ hãi đâu, tôi có lẽ không nên đề nghị đột ngột như vậy. Nhưng họ quả thật rất muốn chứng kiến quá trình cải đạo của mọi người.” Hani khéo léo dùng từ “mọi người”, tránh việc đề cập trực tiếp đến mẹ tôi.

“Sarah hứa sẽ ngồi cạnh cô,” Hani nói thêm. “Liệu rằng điều đó làm cô thấy thoải mái hơn?”

Mẹ tôi đã bị Hani thuyết phục. Ông ta khẳng định rằng việc cải đạo của mẹ tôi sẽ trở thành một đề tài nóng hổi, và mẹ tôi đáp lại bằng những cụm từ tiếng Ả Rập mới học được: “Inshallah.” Chúa phù hộ. Hani cực kỳ thích thú. Ông ta cười rạng rỡ khi đóng cánh cửa lại.

Ở dưới lầu, mẹ tôi nắm chặt tay Sarah và hít một hơi sâu như thể đang lặn xuống biển vậy, sau đó bước vào nhà thờ. Thật trùng hợp là tấm thảm mang màu xanh của những con sóng dưới ánh mặt trời. Những bức tường được trang trí bởi những hoa văn hình sao màu đỏ vàng dày đặc. Những người đàn ông trong dàn cầu nguyện nắm tay nhau và ngồi thành vòng tròn trên một tấm thảm dày. Một số người mặc những bộ đồ mang phong cách phương Tây truyền thống: những chiếc quần thông dụng, thậm chí cả quần jeans, và những chiếc áo sơ mi có phần cổ gập cài nút. Những người khác vận những chiếc áo thùng thình đến quá đầu gối và đội những chiếc mũ tròn chỏm màu trắng có thêu những họa tiết màu vàng và xanh. Mẹ tôi nhận ra rằng bà biết chính xác tên gọi của những chiếc mũ đó trong tiếng Ả Rập – taqiyah – và bà liên tục lẩm nhẩm từ đó trong đầu để giữ bình tĩnh. Dàn cầu nguyện chợt trở nên im lặng. Những người đàn ông đó đều hướng ánh mắt về phía người phụ nữ vừa bước vào. Ước chừng một lúc lâu, âm thanh duy nhất bên trong nhà thờ là tiếng thì thầm của mẹ tôi và tiếng bước chân đi tất của Sarah trên tấm thảm. Taqiyah, taqiyah, taqiyah, taqiyah, mẹ tôi không ngừng lặp lại từ đó trong đầu.

Mẹ đọc lời tuyên tín trơn tru hoàn hảo, có chăng chỉ là giọng bà hơi run run. Chỉ lúc đó, bà mới hoàn toàn thả lỏng cơ thể và tinh thần mình. Hơi thở của bà cũng dần chậm lại và ổn định. Bà vội vàng liếc nhìn những người đàn ông trong phòng mà không hề quan tâm liệu đó có là hành vi đúng mực hay không. Hành động nhỏ đầu tiên sau khi trở thành tín đồ đạo Hồi! Mẹ tôi có chút xấu hổ. Nhưng chưa hết, bà còn kịp để ý đến một người đàn ông trông khá đẹp trai trong dàn cầu nguyện: ông ta trông giống như một vị thần Ai Cập cổ đại trong những bức tranh vậy. Ánh mắt bà vô tình nấn ná khá lâu khi nhìn vào đôi mắt xanh quyến rũ của người đàn ông đó.

Hai ngày sau, Hani tiết lộ với mẹ tôi rằng có một người đàn ông trong dàn cầu nguyện hôm đó rất có cảm tình với bà và muốn gặp bà. Trong đạo Hồi, không tồn tại khái niệm hẹn hò – Nhà Tiên Tri đã cảnh báo rằng, khi một người đàn ông và một người phụ nữ độc thân ở cùng nhau, giữa họ sẽ có một kẻ thứ ba, đó là Quỷ Satan - cho nên việc người đàn ông đó muốn gặp mẹ tôi được ngầm hiểu rằng ông ta muốn kết hôn với bà. Kết hôn với mẹ tôi! Điều này có ý nghĩa hơn hàng tá lời tỏ tình! Hani nói rằng đó là một người bạn của ông ta, tên là Sayyid Nosair, người Ai Cập. Mẹ cố gắng xua đi cái suy nghĩ liệu đó có phải là người đàn ông với đôi mắt quyến rũ đó không.

Trong vòng một tuần sau đó, mẹ tôi gặp Sayyid lần đầu tiên tại nhà một cặp vợ chồng người Libya, Omar và Rihan. Omar đóng vai trò như người giám hộ cho mẹ tôi bởi bà không còn bất cứ mối quan hệ nào với ông bà ngoại của tôi nữa. Trước đó, ông đã bắt đầu thực hiện các thủ tục hôn nhân theo trình tự: Ông đã gặp gỡ với Sayyid, hỏi han đôi điều về mối quan hệ của Sayyid với cộng đồng, và tự thấy hài lòng khi biết Sayyid là một tín đồ Hồi giáo năng nổ trong các hoạt động ở masjid và tham dự hầu hết các buổi cầu nguyện bất cứ khi nào có thể. Giờ thì, Sayyid gõ cửa nhà khi Rihan đang chuẩn bị bày biện một khay đồ ăn gồm nước ép dâm bụt, bánh Baklava và những miếng bánh quy bơ giòn tẩm đường nhân chà là.

Omar bước ra mở cửa và Rihan thì vội vã liếc nhìn vị khách vừa đến. Mẹ tôi ngồi trên chiếc đi văng trong phòng khách, trông khá căng thẳng. Bà nghe hai người đàn ông chào nhau và chúc nhau an lành: người giám hộ của bà nói, “Asalaam alaykum,” (Xin cho bình an đến với anh), vị hôn phu của bà đáp lại một cách nhiệt tình đáng ngạc nhiên, “Wa alaykum assalam wa rahmatu Allah.” (Allah mang bình an và may mắn đến cho ông). Việc này khiến mẹ tôi không khỏi nghĩ rằng ông ta đang cố gắng tạo ấn tượng tốt với bà. Bà bỗng mỉm cười và nghĩ đến một đoạn trong kinh Qur’an: Khi ai đó mở lời chào bạn, bạn nên đáp lại với một lời chào nồng nhiệt hơn, nếu không (ít nhất) hãy nhắc lại lời chào đó. Allah dõi theo tất cả mọi điều.

Rihan vội vã trở lại phòng khách mang theo những chiếc bánh quy, trông bà còn căng thẳng hơn cả mẹ tôi . “Đẹp trai quá,” bà thì thầm. “Và hãy nhìn đôi mắt xanh biếc của anh ta xem!”

Trong vòng hai phút sau đó, khi ngồi xuống cạnh mẹ tôi, cha tôi mới khẽ khàng nói, “Anh đoán là em biết rằng anh đến đây để bàn việc kết hôn.”

Ở Ai Cập, cha tôi theo học chuyên ngành thiết kế kỹ sư và công nghiệp, đặc biệt chuyên về kim loại. Ông là người vô cùng sáng tạo. Ông có thể thiết kế một con tàu dễ dàng như thiết kế một chiếc vòng cổ vậy. Mặc dù chỉ mới đến Mỹ chưa đến một năm, cha tôi đã có thể kiếm được một công việc tại một tiệm trang sức, nơi mà ít ngày sau khi gặp gỡ mẹ tôi, ông đã phác thảo và làm ra chiếc nhẫn đính hôn của hai người. Ông dành hết tiền cho chiếc nhẫn. Đó là một chiếc nhẫn khá nặng nhưng rất đẹp. Khi mẹ tôi lần đầu tiên thấy nó, bà đã vô cùng kinh ngạc.

***

Cha mẹ tôi kết hôn vào ngày 5 tháng Sáu năm 1982, mười ngày sau cuộc gặp gỡ đầu tiên. Quãng thời gian tìm hiểu ngắn ngủi ấy nghe thì có vẻ như dự báo một điềm xấu, tựa như màn dạo đầu của một tấn bi kịch vậy. Nhưng cái vòng quen thuộc trong văn hóa phương Tây với tình yêu và hôn nhân – một trình tự phổ biến để tiến đến hôn nhân – đã đầy rẫy những đau đớn và tan vỡ. Liệu có bất cứ kiểu nghi lễ và kỳ vọng nào khác, bất cứ hình thức nào, có thể mang lại hạnh phúc thực sự không? Trên thực tế, cha mẹ tôi cũng từng trải qua những giây phút hạnh phúc thực sự. Mẹ tôi đã tìm thấy một người đàn ông có thể dạy bà tiếng Ả Rập và trau dồi thêm những kiến thức của bà về Hồi giáo.

Một người đàn ông sùng đạo. Một người đàn ông phóng khoáng và giàu lòng yêu thương. Một người đàn ông quý mến chị tôi từ cái nhìn đầu tiên, người sẵn sàng quỳ xuống sàn để chơi cùng chị ngay lần đầu gặp mặt. Cha tôi là một người đàn ông nổi bật, song gầy đến thảm thương bởi cha sống trong một nhà nội trú không được phép nấu ăn. Tiếng Anh của ông gần như hoàn hảo, có đôi chút trang nghiêm thái quá. Ông có giọng nói đậm chất Ả Rập. Đôi khi ông hay nói nhầm, song việc ông nói sai luôn khiến mọi người cười vui vẻ. Chẳng hạn như ông rất yêu thích món mì ống và món thịt viên, nhưng luôn gọi chúng là “mì ống và những viên thịt.” Những lúc ấy, mẹ tôi đều không thể nhịn cười. Cha tôi thấy vậy cũng không phản đối. “Em là trái tim của anh,” ông thường dịu dàng bảo bà như vậy. “Cho nên việc em sửa cách ăn nói giúp anh là điều đúng đắn.”

Vào tháng Bảy, cha tôi đã tìm được một căn hộ ở Oakland, Pittsburgh. Lần đầu tiên sau suốt nhiều năm, mẹ tôi cảm thấy hào hứng đến thế. Khu láng giềng rất đậm chất văn hóa và có rất nhiều sinh viên, giống mẹ tôi. Vợ chồng Rihan và Omar cũng sống gần kề. Masjid chỉ cách đó mấy tòa nhà. Cha mẹ tôi tay trong tay đi mua đồ ăn và một số đồ trang trí cho căn nhà mới. Mẹ hỏi cha thích gì. Ông ngọt ngào nói với bà: “Anh thích tất cả những gì em thích. Em là nữ hoàng của ngôi nhà, và anh muốn em là người sắp xếp mọi thứ theo ý thích của em. Chỉ cần em hạnh phúc với bất cứ thứ gì em chọn, anh cũng sẽ yêu chúng.”

Tôi được sinh ra vào tháng Ba năm 1983, và em trai tôi ra đời một năm sau đó. Năm tôi ba tuổi, cha tôi đưa tôi đến công viên giải trí Kennywood. Chúng tôi cùng ngồi trong những chiếc ly khổng lồ và xoay vòng quanh trong trò Dizzy Dynamo, sau đó với trò Grand Carousel, chúng tôi được cưỡi những chú ngựa sơn màu sặc sỡ: cha tôi chọn một con ngựa đực màu vàng lướt lên lướt xuống, trong khi tôi bám chặt vào cổ một chú ngựa nâu nhỏ lúc nào cũng đứng yên. Cuối ngày, trên một chiếc tàu lượn nhỏ gọi là Lil’ Phantom, cha tôi giả vờ sợ hãi đến mức hét lớn: “Ồ Allah, làm ơn hãy bảo vệ con và đưa con bình an đến điểm đến cuối cùng!” Tôi biết ông làm vậy để khiến tôi phân tâm mà quên rằng tôi mới là người đang sợ hãi. Tôi sẽ không bao giờ quên ngày hôm đó. Đó là phần ký ức đầu tiên tuyệt đẹp trong tôi. Thậm chí ngay cả những tháng ngày kinh hoàng sau này cũng không thể vấy bẩn nó.


Sự bài xích của cha tôi đối với nước Mỹ không phải hình thành ngày một ngày hai. Nỗi cay đắng của ông tích tụ dần dần, được bồi đắp bởi những cuộc chạm trán ngẫu nhiên với sự thù địch và nỗi bất hạnh. Tại thánh đường, mẹ tôi bắt đầu phụ giúp Rihan tổ chức những buổi lễ da’wa – chiến dịch chiêu mộ những tín đồ muốn cải đạo. Họ không đến từng nhà hay công khai chiêu mộ các tín đồ trên phố; họ gặp gỡ những người có ý muốn cải đạo ở masjid, truyền đạt về đạo Hồi, và giải đáp những câu hỏi tương tự mẹ tôi hỏi ngày trước. Rất nhiều người trong số họ là những phụ nữ Mỹ trẻ trung. Phụ nữ quả đúng là phụ nữ. Một vài người trong số họ đến nhà thờ không phải bởi họ đang trong hành trình tinh thần tìm đến miền đất tu đạo, mà bởi họ đã rơi vào lưới tình với một người đàn ông theo đạo Hồi nào đó. Tuy nhiên, cũng có những người thực sự muốn tìm hiểu về Hồi giáo tìm đến và cải đạo thành công dưới sự giúp đỡ của mẹ tôi và Rihan. Đôi khi, nếu những người phụ nữ đến nhà thờ không có chỗ nào để ở, gia đình tôi lại cho họ ở nhờ.

Lòng tốt của gia đình tôi cuối cùng lại trở thành một sai lầm. Vào mùa thu năm 1985, gia đình tôi chào đón một người phụ nữ trẻ tên Barbara. (Tôi đã đổi tên cô ta, bởi cô ta không thể có mặt ở đây để tự mình kể câu chuyện này.) Barbara là một người phụ nữ tính khí thất thường, khuôn mặt luôn ảm đạm và không bao giờ nhìn thẳng vào mắt ai. Cô ta ở lại nhà chúng tôi vài tháng. Barbara có vẻ không thực sự hứng thú với đạo Hồi. Chị gái cô ta muốn tìm hiểu về tôn giáo chỉ để làm vui lòng bạn trai mình, và Barbara chỉ theo đuôi họ. Có một nguồn năng lượng khó chịu tỏa ra từ cô ta đến mức sẽ vô cùng ngột ngạt khi ở trong phòng với cô ta.

Chẳng mấy chốc, cô ta đã dan díu với những kẻ mà cha mẹ tôi đã cảnh báo là “một đám những tín đồ Hồi giáo tồi tệ” ở một khu dân sinh khác. Mẹ tôi đã cố gắng mai mối cho Barbara hai lần, và cả hai lần cô ta đều bị từ chối sau cuộc gặp mặt đầu tiên. Lòng tự trọng của cô ta bị tổn thương nghiêm trọng. Cô ta bắt đầu im lặng ngồi trong bồn tắm, mặc nguyên quần áo và khóc lóc lúc nửa đêm. Cô ta đổ lỗi cho chúng tôi, cho cả nhà tôi, rằng chúng tôi đã lấy cắp quần áo trong phòng của cô ta, nực cười thay, đó là những bộ đồ mà không tín đồ đạo Hồi nào có thể mặc, huống chi là một đứa trẻ. Cha tôi khăng khăng đuổi cô ta ra khỏi nhà. Cuối cùng cô ta cũng rời đi. Chưa đến một tuần sau đó, cô ta cáo buộc cha tôi cưỡng bức cô ta. Rõ ràng đây là một hành động có chủ đích nhằm bòn rút tiền gia đình tôi, do những kẻ theo đạo Hồi mà cô ta mới quen xui khiến.

Tại Pittsburgh lúc bấy giờ, cũng có kẻ bị tình nghi là tội phạm cưỡng bức. Một vài nạn nhân của hắn ta miêu tả hắn là một người đàn ông “Trung Đông hoặc Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha.” Cảnh sát lấy lời khai của Barbara với thái độ hết sức nghiêm túc. Trong lúc luật sư, cũng là một người bạn của gia đình tôi, đang cố gắng thuyết phục cảnh sát rằng người phụ nữ đó bịa chuyện, cha tôi dường như bị nỗi sợ hãi và tủi nhục đè bẹp. Ông thậm chí không còn ngủ chung với mẹ tôi vào ban đêm. Cha tôi trải tấm thảm cầu nguyện cạnh lò sưởi trong phòng khách, và nằm cuộn tròn như quả bóng trên thảm. Ông cũng không ăn uống gì suốt thời gian đó. Tất cả những gì ông làm là ngủ và cầu nguyện cho mình bình an. Thậm chí những thành viên thánh đường cũng không biết nên tin ai, mẹ tôi nhận thấy trong nội bộ dường như tồn tại sự chia rẽ, điều này khiến cha tôi thêm đau lòng, giống như có một khối u ác tính đang ngày ngày phát triển trong dạ dày của ông vậy. Một buổi xét xử được tổ chức tại masjid. Những thành viên chủ chốt của nhà thờ lo lắng về sự bất đồng nội bộ, và muốn tự mình xử lý vấn đề này. Cho dù thế nào, họ cũng không tin tưởng hệ thống pháp luật của Mỹ.

Nhiều năm sau, mẹ tôi mới kể cho tôi về buổi xét xử tại nhà thờ hôm đó: Barbara, chị gái và bạn trai của chị gái cô ta có mặt cùng một đám tạp nham những kẻ theo đạo Hồi được cô ta gọi là bạn. Không khí căng thẳng đến mức một cuộc tranh cãi bùng nổ ngay sau đó. Cha tôi chỉ lặng lẽ ngồi, đầu cúi thấp, và hai tay ông giữ chặt lấy đầu gối. Barbara lặp lại lời buộc tội của cô ta rằng cha tôi đã cưỡng bức cô ta, rằng gia đình tôi lấy cắp quần áo của cô ta và yêu cầu bồi thường. Trái tim mẹ tôi gần như tan vỡ. Nực cười thay, một người sùng đạo như ông lại bị tra hỏi, nghi ngờ trong chính nhà thờ mà ngày ngày ông vẫn cầu nguyện!

Những thành viên có thẩm quyền yêu cầu Barbara mô tả lại cơ thể cha tôi.

Tất cả những gì cô ta có thể kể ra đó là: “Nhiều lông, một bộ ngực đầy lông, một tấm lưng đầy lông.”

Mẹ tôi chợt bật cười.

Cha tôi gần như bật dậy. Ông đề nghị: “Liệu tôi có được phép cởi áo ngay bây giờ để cho các anh thấy cô gái này đang nói dối?” Đương nhiên chẳng có gì liên hệ giữa cơ thể cha tôi với những đặc tính tiêu biểu của người Trung Đông hết.

Họ bảo với cha tôi rằng ông không cần thiết phải cởi áo để chứng minh điều gì cả. Họ tin rằng cha tôi hoàn toàn vô tội. Vụ việc khép lại với 150 đô la xem như là khoản bồi thường cho những bộ quần áo Barbara khăng khăng đã bị lấy cắp. Cô ta có vẻ hài lòng và nhanh chóng cùng đồng bọn rời khỏi thánh đường. Như thể sự thiếu tôn trọng đạo Hồi của cô ta chưa đủ rõ ràng, cô ta còn mang giày trong suốt buổi xét xử diễn ra trong thánh đường.

***

Sau biến cố này, cha mẹ tôi cố gắng xây dựng lại cuộc sống ở Pittsburgh, song chúng tôi hiểu rằng cuộc sống yên bình sẽ không bao giờ trở lại được nữa. Đối với cha tôi, nỗi tủi nhục này khủng khiếp đến mức khiến cha tôi ảm đạm và kiệt quệ. Mẹ tôi sợ đến mức không còn dám giao thiệp nhiều với bên ngoài. Cha tôi không còn mặt mũi đối diện với những người bạn của ông ở masjid, cũng như đối diện với tất cả mọi người. Ông vẫn cần mẫn làm việc. Ông ngày càng gày mòn đi. Có điều gì đó dần dần hình thành bên trong con người cha tôi. Ký ức của tôi về quãng thời gian đó chỉ là bóng hình cô độc của cha quỳ trên tấm thảm cầu nguyện trong phòng khách, lặng lẽ cầu nguyện hoặc gặm nhấm nỗi đau, hay có lẽ là cả hai.