Côn Luân

Chương 48: Thạch công sơn đầu

Năm một ngàn hai trăm bảy mươi lăm, Tống Độ Tông Triệu Kỳ ốm chết ở Lâm

An. Cùng năm đó, Giả Tự Đạo lập Triệu Hiển mới bốn tuổi lên làm vua, bản thân hắn nắm quyền nhiếp chính, bưng bít mọi tin tức nơi tiền phương.

Triều đình Đại Tống mù mờ hoang mang, bấp bênh bất ổn. Bá Nhan nhận được mật báo, biết rằng thời cơ đã chín muồi, bèn dẫn hai mươi vạn quân xuôi dòng Hán Thủy di chuyển xuống nam. Cùng lúc, Cận Phi và Vân Thù cũng tổ chức nhiều đợt chiêu mộ nghĩa quân tương trợ triều đình. Các hào kiệt

miền nam đều nhiệt thành xả thân, khốn nỗi Đại Tống binh hèn tướng yếu

khiến công sức đóng góp của họ chỉ như muối bỏ bể, không gặt hái được

kết quả gì.

Mùa thu cùng năm, quân Nguyên vượt Trường Giang, theo dòng Giáp Giang tiến vào. Nhiều trọng thần, đại tướng lũ lượt kéo nhau

ra đầu hàng, dâng cống mỹ nữ để lấy lòng ngoại bang, trong số đó có Binh bộ Thượng thư Lữ Sư Quỳ và Điện tiền chỉ huy sứ Phạm Văn Hổ.

Mặc Tương Phàn thất thủ, Giả Tự Đạo vẫn cố sức dập tắt mọi lời xì xào,

nhưng dần dần, khi các cứ điểm tiền phương liên tiếp bị đánh hạ thì tình hình không thể che đậy được nữa. Tin khẩn tới tấp bay về Lâm An, hoàng

thất và các quan lại đều kinh hoàng, thúc ép Giả Tự Đạo thân chinh ra

trận đẩy lui quân địch. Họ Giả không còn cách nào khác, đành bổ Hạ Quý

làm phó soái, miễn cưỡng thống lĩnh hai mươi vạn thủy lục quân cùng ba

ngàn chiến thuyền vượt sông sang tây, giao chiến với quân Nguyên ở Lỗ

Cảng.

Khi hai bên giáp mặt nhau, mười vạn hùng binh Nguyên triều

nhất tề gầm lên như sấm rền trên sóng, ồ ạt từ thượng lưu kéo xuống.

Người Tống tuy yếu về kỵ binh nhưng rất thành thạo thủy chiến, cũng

ngược dòng hăng hái tiến lên. Hai bên giao tranh hồi lâu mà không phân

thắng bại, Hạ Quý phập phồng lo sợ, nhân lúc không ai để ý liền chèo

thuyền trốn chạy.

Bấy giờ, Giả Tự Đạo đang lười biếng tựa vào

lòng ái thiếp quan chiến, chung rượu nghiêng ngả trên tay. Hắn vốn mù

tịt về chiến trận, chỉ biết hai bên giao đấu ác liệt chứ chẳng biết ai

thắng ai thua, nhác thấy Hạ Quý bơi qua cạnh tàu mình, vội hỏi:

- Thắng rồi hả?

Hạ Quý hổn hển đáp:

- Không đỡ nổi!

Giả Tự Đạo xuất thân lưu manh đầu đường xó chợ, nghe vậy phát hoảng, không

còn để ý đến cung cách lễ tiết gì nữa, nhảy chồm chồm rủa xả:

-

Đồ mặt nạc đóm dày, sao không nói sớm? – rồi vội vàng kéo ái thiếp nhảy

tót lên thuyền nhẹ đã chuẩn bị sẵn, nối đuôi Hạ Quý chèo đi rõ nhanh.

Có kẻ trông thấy chủ và phó tướng một trước một sau lủi mất thì kinh hãi

báo động. Quân Tống nơi đầu sóng ngọn gió nghe tin ấy, ý chí chiến đấu

lập tức tiêu tan. Tướng lĩnh giẫm đạp nhau bỏ trốn, binh sĩ mạnh ai nấy

chạy, trận thế hỗn loạn rối ren. Lính Nguyên thừa cơ công kích khiến

quân Tống thua liểng xiểng, số đầu hàng lên đến mười mấy vạn người,

lương thảo quân dụng bị tịch thu bằng sạch.

Tin bại trận ở Lỗ

Cảng truyền về Lâm An, cả triều đình cùng phẫn nộ. Tạ Thái hậu cách hết

mọi chức tước của Giả Tự Đạo, truyền chỉ lưu đày Tuần Châu. Giả Tự Đạo

trơ trọi một thân một mình, vai vế không còn, phe cánh tan rã, đành bó

tay chịu trói, trên đường áp giải bị sai nha là Trịnh Hổ Thần sát hại

tại Chương Châu.

Sau trận Lỗ Cảng, tướng sĩ vùng Giang Hoài hoàn

toàn thui chột ý chí chiến đấu, phản kháng rất lẻ tẻ, còn phần lớn đào

ngũ hoặc đầu hàng. Lính Nguyên chia làm ba đường hành quân, cánh Lương

Tiêu tiến vào theo ngả Giang Nam. Vừa tới Kinh Khẩu, gã bỗng nhận được

thư khẩn, Bá Nhan ra lệnh quay gấp về Dương Châu.

.

Tại trướng soái Dương Châu, Bá Nhan triệu tập các tướng, nặng nề thông báo:

- Thánh thượng hạ chỉ ngừng xuống nam, chuẩn bị tiễu phạt sang phía tây.

Lương Tiêu ngạc nhiên:

- Tại sao? Không đánh Tống nữa à?

A Truật u ám nói:

- Tây bắc có biến! Cháu nội Oa Khoát Đài là Hải Đô, hiện đang đóng ở

Diệp Mật Lập, nhân lúc đại quân ta nam chinh bỏ trống mặt tây bắc đã

chiêu tập phiên vương kết thành liên minh bên bờ sông Tháp Na Tư. Hắn

kết tội thánh thượng đã chà đạp di huấn của Thái Tổ để thay thế bằng

luật lệ của người Hán, vin cớ đó cùng các phản vương tuyển mộ hai mươi vạn thiết kỵ, vượt núi A Nhĩ Thái[2], tấn công cựu đô Hòa Lâm[3].

Bá Nhan tư lự:

- Hải Đô túc trí đa mưu lại

giỏi dụng binh, xưa rày vẫn luôn kình chống thánh thượng. Hiện

thánh thượng cũng chưa biết nên quyết thế nào, vừa sai tín sứ chuyển lời rằng: “Trẫm chinh thảo Đại Tống hai lần, hai lần đều thất bại

quay về. Nay Bá Nhan sắp thành công thì Hải Đô lại đến sinh sự, giữa đường bỏ dở kể cũng đáng tiếc, nhưng nếu vì một dải đồng lầy nước đọng phương nam mà để mất bạt ngàn đất đai màu mỡ phương

bắc thì khác nào thả con cá rô bắt con săn sắt, ngẫm thực không

đáng”. Và người lệnh cho ta nghị hòa với Lâm An, hai bên vạch

địa giới mà cai trị.

A Truật nói:

- Người Tống liên

tục thất bại, binh sĩ rệu rã chán chường, đây chính là thời cơ để hưng

binh! Nếu nghị hòa để họ lấy lại sức thì mai sau tấn công sẽ khó khăn

gấp mười. Hải Đô tuy nhiều binh mã thật, nhưng các phiên vương tây bắc

mỗi người một bụng, không đồng chí đồng lòng. Tôi nghĩ, chỉ cần vài vạn

tinh binh là đủ chặn đứng mũi đâm thọc của chúng, tội gì phải điều động

hết binh mã nam chinh sang đó?

Bá Nhan gật đầu:

- Ta cũng

nghĩ như ngươi! Bây giờ ta sẽ về Đại Đô, tìm cách thuyết phục thánh

thượng. Khi ta đi vắng, ngươi tạm thay trách nhiệm Chủ soái trong doanh. – Ngừng một lát, y gọi. – Lương Tiêu!

Lương Tiêu đáp lời đứng dậy, Bá Nhan nói:

- Từ lúc này, ngươi làm Tổng đô thống cả thủy và lục quân, phò tá A Truật đốc suất binh mã.

Lương Tiêu nhận lệnh. Bá Nhan lại dặn dò một hồi rồi cho các tướng lui, vội vã trở về Đại Đô ngay trong đêm.

Cùng đêm ấy, Lương Tiêu hạ trại ở Qua Châu. Vừa ổn định lều trướng, nghe báo Quách Thủ Kính cầu kiến, gã mừng rỡ ra ngoài nghênh đón. Hai người đã

lâu không gặp, nắm tay nhau hàn huyên vui vẻ. Họ Quách bảo:

- Hôm nay Quách mỗ đến cáo từ đại nhân.

Lương Tiêu hỏi:

- Ông định về Đại Đô à?

- Phải. – Quách Thủ Kính đáp. – Bây giờ quân đội ngừng di chuyển, tạm

thời đóng trại một chỗ, ta không cần cất trạm nước mới nữa. Vả chăng năm nay Hoàng Hà dâng cao, có thể gây lũ lụt, thánh thượng triệu ta về bắc

bàn bạc cách giải quyết.

Lương Tiêu thở dài:

- Chưa hết can qua đã thủy tai xảy đến, thiên hạ chẳng lúc nào được bình yên.

Quách Thủ Kính cũng thở dài:

- Thế nên mới có câu: Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm. Cảnh trái ngang trên đời thường vô cùng vô tận!

Mỗi người đeo đuổi một suy tư, lặng cầm chén trà buồn bã. A Tuyết đứng bên, thấy vẻ mặt họ bỗng nhiên ảm đạm thì rất lấy làm lạ: “Vừa tươi cười hớn hở, sao đã ỉu xìu ngay được?”.

Sau một lúc trầm mặc, Quách Thủ Kính lên tiếng trước:

- Quách mỗ có một câu này, chẳng biết nên nói hay không.

- Tôi xin nghe, đại nhân đừng khách sáo!

Quách Thủ Kính vịn bàn nhỏm dậy, thở dài:

- Tướng quân là một tài năng hiếm có, đem tài năng ấy đổ vào chinh chiến sát phạt, không cảm thấy đáng tiếc lắm ư?

Lương Tiêu ngẩn người. Quách Thủ Kính đưa nhanh mắt về phía A Tuyết, vẻ ngập ngừng. Lương Tiêu xua tay:

- Ở đây toàn người nhà, đại nhân chớ ngại.

Quách Thủ Kính nghiêm nghị gật đầu:

- Tướng quân không như người khác, Quách mỗ nói thẳng ra vậy.

Y đứng hẳn lên, chắp tay sau lưng bước về phía cửa, dõi mắt nhìn bầu trời trong trẻo ngoài trướng, chậm rãi buông từng chữ:

- Thánh thượng thừa kế bá nghiệp của cha ông, chí lớn dạt dào, muốn mở

mang bờ cõi ra bốn biển, tạo nên công tích ghi tạc ngàn năm. Lương tướng quân thạo phép dụng binh, hễ đánh là thắng, hễ chiếm là được, chiến

công hiển hách. Chỉ hiềm, người ta thường nói: chẳng vương triều nào là

vững bền mãi mãi. Dẫu Đại Nguyên thống nhất thiên hạ thì liệu sẽ duy trì được bao lâu đây? – Y ngoảnh lại, ánh mắt sáng quắc. – Thử hỏi mấy trăm năm sau, sử sách có ghi nhận tướng quân là người như thế nào không? Và

tướng quân để lại được gì cho hậu thế?

Lương Tiêu không hiểu lắm, giọng nói pha chút ngạc nhiên:

- Tôi thường nghe: chết là hết. Đã nhắm mắt xuôi tay còn bận tâm nhiều thế làm gì cho mệt?

Quách Thủ Kính lắc đầu:

- Quách mỗ nghĩ nói thế không ổn. Trên đời tuy không có vương triều nào

tồn tại mãi mãi, nhưng có những sự vật vẫn lưu dấu ngàn năm, chỉ cần

tướng quân dồn tâm trí mình vào đó…

Lương Tiêu sực nhớ ra một chuyện, háo hức hỏi:

- Chắc ông muốn nhắc đến việc triều đình định sửa sang lịch pháp?

Quách Thủ Kính vỗ tay:

- Tướng quân tinh ý lắm. Từ khi Tổ Xung Chi làm ra lịch Đại Minh đến nay, mấy trăm năm rồi, phép tính lịch vẫn chưa cải tiến được là bao. Có hai

nguyên nhân: một là do phạm vi đo đạc còn nhỏ hẹp, hai là do kiến thức

toán học còn hạn chế. Sắp tới thống nhất được thiên hạ, lãnh thổ Đại

Nguyên sẽ rộng lớn vượt xa thời Hán thời Đường. Thánh thượng định đặt

đài thiên văn ở các nơi, quan sát nhật nguyệt hầu xây dựng nên cách tính lịch mới. – Nói đến đây, nhận ra Lương Tiêu lắng nghe chăm chú, biết gã đã dao động, họ Quách mỉm cười. – Tướng quân tinh thông toán thuật bậc

nhất thời nay, nếu bằng lòng phối hợp với Quách mỗ hoàn thành bộ lịch

mới thì quả là cái phúc của lê dân trăm họ, là ơn đức lưu truyền hậu thế hàng ngàn đời sau!

Dạo bị giam trong Thiên Viên Địa Phương,

Lương Tiêu đã từng manh nha ý tưởng sáng tạo một bộ lịch hợp lý hơn bộ

lịch của tiền nhân. Hiềm nỗi công việc quá lớn, sức một người không đảm

đương nổi. Mấy năm nay tuy trải qua nhiều biến cố, nhưng ý tưởng ấy chưa một lần rời bỏ trí óc gã, thậm chí mỗi ngày một thêm cháy bỏng, nay

nghe Quách Thủ Kính khơi gợi, nó lại nao nao quẫy động. Lương Tiêu đứng

bật dậy đi đi lại lại, chợt thở dài rầu rĩ:

- Đáng tiếc tôi còn bận quân vụ, khó lòng phân tâm đến việc khác.

- Không gấp! Quách mỗ đã phác kế hoạch rồi. Đợt đo đạc tới đây sẽ tiến

hành trên diện rộng, bắc phải đến Khâm Sát hãn quốc, tây đến Y Nhĩ hãn

quốc, đông đến Cao Ly, nam đến Quỳnh Châu. Quỳnh Châu hiện vẫn thuộc

phạm vi kiểm soát của Đại Tống, vì vậy một khi chưa diệt xong Đại Tống

thì vẫn chưa thể bắt tay sửa lịch được. Chuyến này trở về Đại Đô, ta sẽ

tâu thánh thượng cử tướng quân cai quản cục Thái Sử, giám sát việc tu

chính lịch pháp, nhưng thế thì tướng quân đành phải buông hết quyền bính lớn lao cũng như cuộc sống giàu sang phú quý.

Lương Tiêu cười nhạt:

- So với việc làm lịch thì đánh trận và phú quý đáng kể gì đâu.

Quách Thủ Kính hoan hỉ tán thưởng:

- Quả nhiên ta không nhìn lầm! Lương tướng quân đúng là người được sinh ra để tinh nghiên học thuật.

Lương Tiêu nói:

- Đợi thu xếp việc quân tạm ổn, tôi sẽ lên kinh gặp đại nhân.

Quách Thủ Kính giơ tay:

- Thỏa thuận thế!

Lương Tiêu tủm tỉm đập tay ba lần với họ Quách. Cả hai cùng cười phá lên.

Đến giờ cơm tối, A Tuyết bày sáu thức nhắm và một bình rượu hoa quả. Lương

Tiêu cùng Quách Thủ Kính nâng chén đàm luận hết sức ăn ý. Lương Tiêu say sưa nói:

- Muốn cải tiến lịch Đại Minh thì cần chú ý đến năm yếu tố : một là chuyển động biểu kiến của mặt trời, hai là tốc độ vận hành

của mặt trăng, ba là độ lệch giữa hoàng đạo và xích đạo, bốn là hệ tọa

độ của hoàng đạo và xích đạo, năm là chu kỳ của trăng để đi hết một vòng bạch đạo…

Gã càng nói càng sôi nổi, Quách Thủ Kính càng nghe

càng rạng rỡ mặt mày. Hai người chấm rượu vẽ toán pháp ra bàn, mô tả các khí cụ thiên văn, trao đổi miệt mài quên cả uống rượu, A Tuyết phải

nhắc, họ mới dứt ra được.

Cơm rượu xong, phấn hứng dâng cao, cả

hai liền kê giường cạnh nhau trao đổi thâu đêm. Lương Tiêu trò chuyện

với Quách Thủ Kính, tầm mắt được mở rộng, tư tưởng càng thêm cao xa.

Tiếc nỗi đất nước đương cơn loạn lạc, thiên văn lịch pháp hay thủy lợi

máy móc cũng mới dừng ở mức nói cho thỏa lòng mà thôi. Sáng hôm sau,

Quách Thủ Kính cáo từ về bắc, Lương Tiêu đi tiễn một quãng đường, nhìn

theo bóng họ Quách, lòng ngao ngán: “Quách đại nhân thật cương quyết,

dám dứt khoát rời bỏ quân ngũ, dốc lòng chấn chỉnh thủy lợi, sửa sang

lịch pháp. Còn ta vẫn phải chinh thảo Đại Tống, thật chán quá đi thôi!

Mong rằng sau trận chiến này, thiên thu vạn đại không còn chiến tranh,

để ta và Quách đại nhân được tự do xây dựng lịch pháp, sao vẽ sơ đồ núi

non, chỉnh đốn bách nghệ, củng cố nông tang, tạo nên một thời đại thịnh

vượng huy hoàng chưa từng có trong lịch sử”. Ưu tư hồi lâu, Lương Tiêu

ngậm ngùi quay về doanh trại.

.

Tháng năm năm Đức Hữu đầu

tiên của nhà Tống, Lâm An biết tin quân Nguyên đang vướng nội loạn ở

miền tây bắc, liền cương quyết chém chết tiết sứ Nguyên triều phái đến

nghị hòa. Tể tướng Trần Nghi Trung dâng sớ lên Tạ Thái hậu xin hưng

binh, đảm bảo sẽ đoạt lại Lưỡng Hoài. Tạ Thái hậu cả mừng, trao ấn soái

ba quân cho Trương Thế Kiệt. Họ Trương kéo một vạn chiến thuyền đến hội

hợp với Cận Phi, nâng tổng số thủy lục quân lên hai mươi vạn, tiến vây

Kinh Khẩu. Lý Đình Chi đốc suất năm vạn kỵ bộ kỵ binh ra Dương Châu đánh A Truật. Vào thời khắc sinh tử ấy, Đại Tống một lòng quét sạch gian

nịnh, chỉnh đốn triều chính, tinh binh mãnh tướng tụ họp tại Hoài Đông,

sẵn sàng cùng quân Nguyên quyết một trận tử chiến.

Thế tấn công

của quân Tống vô cùng dữ dội, tướng giữ Kinh Khẩu là Thổ Thổ Cáp liên

tiếp gửi cấp báo, Lương Tiêu bèn dẫn quân vượt sông sang cứu viện. Cùng

tháng đó, tướng sĩ nhà Nguyên cũng lục tục kéo đến hội quân với gã.

Nguyên, Tống giáp mặt tại Tiêu Sơn, mấy vạn thuyền chiến san sát trên

sông làm tắc nghẽn cả dòng chảy.

Trước giờ giao chiến, hàng tướng nhà Tống là Phạm Văn Hổ đến gặp A Truật hiến kế:

- Từ đây đi tiếp lên hai mươi dặm nữa có ngọn núi Thạch Công, đứng trên

ấy nhìn xuống, toàn bộ trận thế quân Tống sẽ hiện ra trong tầm mắt.

A Truật mừng lắm, lập tức dẫn các tướng lên núi Thạch Công quan sát.

Ngọn núi cao tám trăm thước, vươn lên sừng sững bên sông. Tướng lĩnh Nguyên

triều trèo lên đỉnh nhìn, dưới chân đại giang trải rộng tít tắp, khói

sóng mênh mang. Kim Sơn và Tiêu Sơn đứng đối mặt nhau phía xa xa, hàng

ngàn hàng vạn thuyền chiến nhà Tống tiến lui liên tục giữa hai ngọn núi, tạo thành một trận thế lạ mắt, tựa vuông mà không phải vuông, dường

tròn mà không phải tròn, cứ mười thuyền kết thành một khối vuông nhỏ, cơ cấu hết sức chặt chẽ. Sau một hồi lặng lẽ quan sát, Lương Tiêu chợt

thốt:

- Gay go thật!

A Truật ngạc nhiên hỏi:

- Gay ở chỗ nào?

- Ở chỗ trận thế của chúng quá đặc biệt. – Lương Tiêu giải thích. – Trận

này tên là Thiên địa huyền hoàng, cứ mười thuyền một đội, khu giữa gồm

năm khối, ứng với các vị trí đông, tây, nam, bắc và trung của Ngũ Nhạc.

Từ trong ra ngoài, Ngũ Nhạc còn đan xen với chín khối khác, phép sắp xếp mô phỏng Cửu Châu của Trâu Diễn[4]. Mười bốn khối này kết hợp và chuyển hóa lẫn nhau, tạo nên hình thế vững chãi bao la như mặt đất, gọi là Hậu thổ tiểu trận.

Mọi người quan sát trận thuyền theo chỉ dẫn của

Lương Tiêu, quả nhiên phát hiện ra mười bốn khoảnh lờ mờ, bất giác cùng

ngấm ngầm khen lạ. Lương Tiêu lại trỏ mé ngoài trận thuyền:

-

Ngoài Hậu thổ còn Huyền thiên tiểu trận. Huyền thiên phân chia thành hai mươi bốn khối nhỏ, con số ứng với nhị thập tứ tiết khí trong năm. – Gã

vừa thuyết minh vừa trỏ hai mươi tư vị trí. – Huyền thiên thay đổi theo

thời tiết trên trời, Hậu thổ tái hiện địa hình dưới đất, muốn nắm bắt

cũng không phải là rắc rối lắm, nhưng sự phức tạp sẽ nảy sinh nếu trời

đất giao hòa, bởi lúc đó các biến hóa sẽ phát triển ra bất tận, khó lòng ứng phó nổi. Theo chỗ tôi biết, Thiên địa huyền hoàng vốn đã thất

truyền, dạo xưa tôi cũng chỉ đọc được lỗ mỗ một vài phần mà thôi. Trong

đó có câu: “Trận pháp này gói gọn thiên địa, nuốt chửng nhật nguyệt,

tiêu diệt vạn quân như nhổ một cọng cỏ, tiến thoái dễ dàng, không tài

nào phá nổi”.

A Truật đổi hẳn sắc mặt, chưa kịp hỏi gì bỗng nghe có tiếng cười vang:

- Rủi thật rủi thật, cảnh sắc tươi đẹp mà chẳng ai lên thưởng thức, ngoài một đàn chó lâu nhâu sủa bậy!

Các tướng kinh ngạc ngoảnh đầu nhìn, thấy một nho sinh quần áo lôi thôi lốc thốc ngồi trên tảng đá nhẵn bóng, mặt quay ra dòng sông bát ngát, tay

cầm bầu rượu giơ cao trước gió, phong thái rất mực tiêu dao. Lương Tiêu

mừng rỡ vòng tay chào:

- Công Dương tiên sinh! Xa cách đã lâu, cớ sao vừa gặp ông lại nặng lời với người ta thế?

Tướng lĩnh đều kinh ngạc: “Lương Tiêu quen lão này à? Dưới chân núi có tinh

binh vây kín bốn mặt, lão lên đây bằng cách nào ấy nhỉ?”.

Công Dương Vũ thản nhiên đáp:

- Người nào? Ta nặng lời với chó đấy chứ!

Các tướng nghe giọng giễu cợt đều sinh lòng phẫn nộ. Lương Tiêu sực nghĩ ra một điều, bèn hỏi:

- Ông là sư phụ của Vân Thù phải không ạ?

- Thế thì sao?

Lương Tiêu gật đầu, mặt trắng bệch:

- Thế thì tôi hiểu rồi.

Công Dương Vũ nhếch mép:

- Hiểu cái con khỉ! – đoạn cười khà khà, dõi mắt xuống dòng sông, vỗ tay

lên mặt đá, dài giọng ngâm. – Thiên hạ vốn là một, Sao nỡ cắt hai miền?

Lên lầu Đa Cảnh nhìn xuống, Hận mất nước sao quên. Gần, sóng Trường

Giang nổi cuộn; Xa, lẻ loi hai ngọn núi. Muốn mượn tiếng sấm rền, Muốn

mượn lưỡi tầm sét, Đuổi rợ khỏi trung nguyên. Ngóng Hoài thượng, Tân Dã

xứ, Ngựa mang yên. Ý trời đã định, Lương thảo binh khí cũng vừa quyên.

Chỉ thiếu người như Sĩ Nhã, Chỉ thiếu người như Việt Thạch. Phải dóng

trống chiêu hiền, Nổi một cơn mưa lớn, Quét sạch bụi bắc biên.[5]

A Truật chăm chú lắng nghe nhưng không hiểu, bèn hỏi nhỏ Đô đốc thủy quân Trương Hoằng Phạm:

- Lão ta hát bài gì vậy?

Trương Hoằng Phạm vốn giỏi thi từ, liền giải thích:

- Bài hát này ý nói: giang sơn tươi đẹp ơi, ta muốn được như Tổ Địch, Lưu Côn đuổi hết Hồ, Lỗ, muốn như Gia Cát Khổng Minh dẫn quân bắc chinh.

A Truật đanh mặt, dùng tiếng Hán hỏi:

- Túc hạ là ai?

Công Dương Vũ nhìn y:

- Ngươi hỏi ta là ai? Ta là kẻ: Sáng rong Nam Hải chiều Thương Ngô, Áo

đựng rắn xanh, gan góc to. Lên xuống Nhạc Dương người chẳng biết, Ngâm

vang bay vút Động Đình hồ.

Các thân binh không nhẫn nại nổi nữa,

bèn lao bổ tới, nào ngờ mới giơ đao đã thấy toàn thân tê liệt. Câu thơ

chưa ngâm dứt, mười tên thân binh đã há hốc mồm, đứng rúm một chỗ như

tượng đất.

Công Dương Vũ giũ giũ tay áo:

- A Truật, theo ngươi ta là ai nào?

Bài thơ trên do Lã Động Tân làm, Công Dương Vũ nhân hứng đọc ra, ngụ ý mô

tả mình có cốt cách phong lưu thần tiên. A Truật không hiểu được ý ấy,

lại thấy sự việc quỷ quái lạ lùng, sống lưng ớn lạnh, y hô to:

- Mọi người hãy cẩn thận! Tên đồ gàn này biết yêu thuật đó!

Công Dương Vũ phì mũi:

- Tiên thuật rành rành ngươi lại bảo yêu thuật là sao? Chà, thế nhân vẫn

chê bọn Thát ngu như lợn, quả tình không sai, nói cho ngươi nghe chẳng

khác gảy đàn tai trâu! Vô vị quá sức!

A Truật gắng trấn tĩnh, chậm rãi hỏi:

- Đừng lải nhải những câu dấm dớ nữa, túc hạ tới đây có công to việc lớn gì?

Công Dương Vũ cười hì hì:

- Kẻ hèn mọn này khốn cùng quẫn bách, lấy đâu ra công to việc lớn, chẳng

qua chỉ táy máy toàn trò vè của bọn hạ lưu thôi. Lý Thái Bạch từng viết: Gieo một ván thiên địa, chưa chắc quên chiến tranh. Lần này ta đến cốt

muốn chơi một ván bài từ xa với tên cẩu hoàng đế Hốt Tất Liệt nhà các

ngươi.

A Truật nghe lời lẽ quá sức kỳ dị, thầm nhủ: “Gặp một

thích khách cao cường thế này, đành đi bước nào biết bước đó thôi. Gắng

con cà con kê với lão ta để kéo dài thời gian vậy”. Y bèn hỏi:

- Được, túc hạ muốn chơi kiểu bài nào?

Công Dương Vũ xua tay:

- Bảo đàn gảy tai trâu thực chẳng oan! Gieo một ván thiên địa là gieo xúc xắc chứ cái gì nữa! Ai thắng thì được giang sơn này. Vậy là có người

chơi và vật cá cược rồi đấy, chỉ còn thiếu xúc xắc thôi! – Nói đoạn ông

giơ cao cái túi vẫn mang bên hông, giũ mạnh, một đầu người lông lốc lăn

ra.

Nhìn rõ tướng mạo người đó, A Truật bỗng biến sắc mặt, giọng lạc đi:

- Yến Thiết Mộc Nhi!

Công Dương Vũ cười:

- Tên hắn đấy à? Ta thấy hắn diễu võ dương oai trên lưng ngựa, ngứa mắt

quá bèn tiện tay ngắt đầu xuống. – Ông cười hì hì, trỏ đầu người nói

oang oang. – Coi nó là con xúc xắc đầu tiên của ta. Nghe đồn hắn là Vạn

phu trưởng kỵ binh, vậy tính ba chấm đi.

Yến Thiết Mộc Nhi lĩnh

tước Vạn hộ hầu, dũng cảm thiện chiến, nào hay mới đó mà đầu đã lìa khỏi cổ. Các tướng đều sinh mối xót xa thương cảm. A Truật đang giữ trọng

trách đại tướng, không dám tỏ ra mềm yếu, bèn lạnh lùng nói to:

- Vạn phu trưởng là xúc xắc ba chấm thì chắc bản soái được sáu chấm nhỉ!

Công Dương Vũ bật ngón cái:

- Thống soái ba quân có khác, rất biết mình biết người. Đáng tiếc chỉ có

mỗi ngươi là xúc xắc sáu chấm nên không gieo được lục lục. Cũng may trời còn thương, ban cho ba vị đô thống. Tên đê tiện họ Lương là Tổng đô

thống, tính năm chấm. Đô thống lục quân A Lạt Hãn tính bốn chấm, Đô đốc

thủy quân Trương Hoằng Phạm tính bốn chấm. Tham nghị chính sự Đổng Văn

Bỉnh không có nhiều binh lính nhưng phẩm hàm lại cao, tử tế ra cũng nên

tính bốn chấm, còn Phạm Văn Hổ, cái tên bán nước cầu vinh, khốn nạn vô

loài nhất trong bọn khốn nạn vô loài, tính một chấm cũng là đề cao hắn

thái quá, đem ra làm xúc xắc chỉ tổ bẩn tay lão phu.

Phạm Văn Hổ bị chửi như tát nước, mặt có sắc giận nhưng trong lòng lại mừng húm, khẽ khàng nhích sang một bên.

Lúc này mặt trời chưa lên cao, dải sông tuôn dài, phía xa thoáng đãng bằng

phẳng, quang cảnh rất nên thơ. Trong khi đó trên đỉnh núi Thạch Công

chật hẹp, bầu không khí ngột ngạt vô cùng. Công Dương Vũ vẫn giữ nguyên

vẻ cười cợt như thể họp mặt nói chuyện phiếm. Nhưng ông càng cười đùa,

các tướng càng ngạt thở. Ngày thường họ điều động đến hàng ngàn hàng vạn binh mã, nắm trong tay quyền sinh quyền sát bao nhiêu con người, muốn

gì được nấy, vậy mà bây giờ khác nào cá nằm trên thớt, mặc kẻ khác làm

tình làm tội, chưa ai trong bọn gặp phải tình huống khóc dở mếu dở thế

này bao giờ.

Công Dương Vũ vuốt râu:

- Con bạc, con bạc,

được ăn cả ngã về không. Ta vừa rồi vận rủi quá, chỉ đổ được tam, xin

hỏi quý vị, tiếp theo đây ta nên gieo xúc xắc mấy chấm?

Ông quét mắt khắp mặt các tướng, không ai bước ra.

Công Dương Vũ cười nhạt, đang định lên tiếng khích bác, thình lình Lương

Tiêu lướt khỏi hàng, chân không chạm đất, vung tay vỗ lưng một tên thân

binh. Tên này chới với khua khoắng tứ chi, huyệt đạo tức thì được giải.

Lương Tiêu xuyên trái xuyên phải giữa tốp người, cử động như bướm lượn,

xuất chưởng như chớp nháy, chỉ trong khoảnh khắc, hơn mười tên thân binh hoa tay múa chân lấy thăng bằng, cử động trở lại.

Lương Tiêu co mình xuống xà tấn, điềm nhiên nói:

- Công Dương tiên sinh, mời!

Nét giận thoáng qua khuôn mặt Công Dương Vũ, nhưng ông lại nhe răng cười ngay:

- Năm chấm hả, hay lắm!

Đoạn giơ chưởng phải từ từ vỗ tới ngực Lương Tiêu. Chưởng phong đặc quánh,

Lương Tiêu không né được, đành phải đón đỡ, nào ngờ vừa cất tay bỗng

thấy máu nóng cuộn trào trong ngực, gã mất tự chủ giật lui ba bước. Một

tên thân binh không ý thức được mức độ nguy hiểm nên nhào tới đỡ chủ

tướng. Vừa chạm đầu ngón tay vào lưng Lương Tiêu, thân hình hắn đã bị

một luồng đại lực ùa thốc sang hất văng đi xa sáu trượng. Tên lính lộn

bắn một vòng trên không rồi rơi thút xuống vực, tiếng gào thê thảm mau

chóng chìm lấp dưới khoảng sâu mênh mông.

Công Dương Vũ không để Lương Tiêu đứng vững, lập tức lắc mình bay đến trên đầu gã:

- Đồ khốn, đỡ tiếp một chưởng của lão tử đây!

Lương Tiêu nào dám đấu tay không nữa, lập tức tuốt kiếm đâm thẳng tới ngực

Công Dương Vũ. Ông già hừ mũi, nhuyễn kiếm Thanh Li bật ra khỏi tay áo,

lưỡi thép mỏng tang, lúc duỗi lúc uốn hệt như đàn rắn quẫy trườn, mổ vào mọi chỗ yếu hại khắp mình Lương Tiêu.

Kiếm đôi bên vũ động rất

nhanh, chỉ ngóc lên hụp xuống một thoáng đã trao đổi năm chiêu, xuất

chiêu thần tốc nhưng không giao nhau lấy một lần, trông như thể người

nào biểu diễn bài múa kiếm của riêng người nấy, nhưng thực chất toàn

những sát chiêu nhăm nhăm tìm sơ hở đánh vào chỗ hiểm của nhau. Lương

Tiêu tuy tiến bộ chóng mặt, nhưng vẫn kém sút rất nhiều so với Công

Dương Vũ, đã mấy lần suýt lâm hiểm cảnh.

Thấy gã đỡ được liền năm sát chiêu của mình, Công Dương Vũ vừa kinh ngạc vừa buồn rầu: “Chỉ cần

thời gian đủ dài, thằng bé này nhất định sẽ trở thành tông sư một phái.

Tiếc thay nó kéo bè kéo cánh với quân tàn ác, võ công càng cao sẽ càng

gây nhiều tai họa. Hôm nay nếu không trừ bỏ, chẳng biết mai sau nó còn

dồn bao nhiêu người Tống vào chỗ chết?”. Ý nghĩ ấy khiến lòng dạ ông trở nên sắt đá. Công Dương Vũ phóng trường kiếm tới mặt Lương Tiêu, khiến

gã phải luống cuống tung mình nhảy tránh. Chợt thấy dưới chân hẫng một

cái, Lương Tiêu hoảng hồn than thầm: “Chết rồi! Sau lưng là vực thẳm!”.

Gã toan ghìm đà lao, Công Dương Vũ đã xoáy thẳng kiếm tới mặt gã.

Đám tướng sĩ xung quanh thốt lên kinh hãi, Lương Tiêu ngã ngửa xuống vực,

cùng lúc ấy, nhác thấy một cái khe trên vách đá, gã bèn vận kiếm đâm

mạnh vào. Keng một tiếng, Lương Tiêu nắm đốc kiếm, người treo lửng lơ,

đu đa đu đưa trên luồng gió sông ào ạt thốc lên. Công Dương Vũ không

truy đuổi, vuốt râu giễu cợt:

- Ngươi sử chiêu khỉ đánh đu này hay đấy!

Lương Tiêu tự biết khó thoát chết, cũng chẳng thèm cân nhắc lời nói nữa:

- Ông giở chiêu chó ăn phân mà đâm tôi đi!

Công Dương Vũ chột dạ: “Nó đang ở dưới thấp, ta muốn đâm phải cúi xuống, bộ

dạng chồm hỗm như chó hoang, chẳng hóa mắc bẫy miệng lưỡi nó sao?”. Ông

già tần ngần, chợt nghe gió rít sau lưng, đám thân binh đã múa đao chạy

tới. Công Dương Vũ xoay phắt lại vẫy một chưởng quét ngã bốn tên, đám

còn lại khiếp đảm dừng bước. A Truật thét:

- Kẻ nào thụt lùi, chém!

Quân lệnh như sơn, không ai dám chống, đám thân binh tiếp tục hò hét liều

chết xông lại. Công Dương Vũ bật cười, nhuyễn kiếm chui tọt vào tay áo:

- Binh tôm tướng tép chả bõ dính răng, chỉ tổ mất công. – Dứt lời, ông

lạng đến sát mặt A Truật, tóm chặt lấy ngực áo y, cười khà khà. – Luôn

mồm thúc người khác đi vào chỗ chết, còn bản thân mình thì chẳng giở ra

được mấy nả sức.

Chủ soái đã bị kiềm chế, đám thuộc tướng đều tái mét mặt.

Lương Tiêu rung tay rút kiếm, tạo đà lộn ngược lên miệng vực, người chưa tiếp đất đã hét vang, vận kiếm sử Hoán kiếm đạo. Quẻ Hoán là Khảm dưới Tốn

trên, tức gió đi trên nước, nước gặp gió tan. Hoán kiếm đạo vũ động tựa

cuồng phong, trút bão táp xuống lưng Công Dương Vũ.

Ông già vốn cố ý thả lỏng cho Lương Tiêu lên, thấy thế cười nói:

- Đến đúng lúc lắm! – đoạn túm lưng A Truật, quay mặt y ra làm khiên đỡ trường kiếm Ảo Nguyên.

Lương Tiêu vẫn vận kiếm không ngừng, đâm liên tiếp sáu nhát, thân kiếm bị nội lực của gã ép mạnh đến nỗi cong lại, nhát nào nhát nấy đều lướt sát

những chỗ yếu hại khắp mặt mũi A Truật. Các tướng chứng kiến mà hồn xiêu phách lạc, nhao nhao phản đối:

- Lương Tiêu, ngươi điên rồi sao?

Lương Tiêu lẳng lặng thi triển kiếm pháp, càng sử càng dẻo tay, trông qua

tưởng chừng múa máy phạt chém bừa bãi, nhưng thực chất hết sức cẩn trọng để tránh đả thương A Truật, đồng thời vòng lách qua y để ngắm đâm Công

Dương Vũ. A Truật hiểu rõ ý Lương Tiêu nên rất bình tĩnh, kể cả khi mũi

kiếm lướt sát trán mình, y cũng không chớp mắt, thần sắc vẫn thản nhiên

như không.

Nhìn hai người, một kẻ tự tin có thừa, kiên trì xuất

kiếm tấn công, một kẻ dũng cảm đối mặt, thản nhiên coi thường cái chết,

Công Dương Vũ vốn tự phụ mà cũng không nén nổi cảm giác ớn lạnh: “Người

Nguyên có hạng tướng soái anh dũng thế này, chả trách đánh đâu thắng đó. Kẻ đánh kiếm cố nhiên đã tài ba gan góc, nhưng kẻ hứng kiếm tỉnh bơ mặc kiếm chờn vờn quanh mình mới thực sự là bản lĩnh cao minh”.

Nghĩ tới đây, Công Dương Vũ không nén được lòng mến tài, bèn lôi A Truật

sang một bên, duỗi ngón tay nắm mũi kiếm Ảo Nguyên rồi búng nhẹ. Tức

thì, một luồng khí nóng chạy theo thân kiếm đẩy thẳng xuống hổ khẩu

Lương Tiêu, cánh tay rát bỏng như bị lửa đốt, gã vội thu kiếm nhảy vụt

ra sau.

Công Dương Vũ cười:

- Núi đá đổ xuống đầu, mãnh hổ rình sau lưng mà mặt không đổi sắc! Tên nguyên soái Thát Đát này định

lực không tồi. Tốt lắm! Lương Tiêu, hai chúng ta cá cược thêm ván nữa,

vật cược chính là tính mạng A Truật. Nếu ngươi thắng, ta tha chết cho

hắn, nếu ngươi thua thì, chính ngươi phải tự sát.

Lương Tiêu biết không còn cách nào khác để ép Công Dương Vũ thả người, bèn nhướng mày đáp:

- Được, xin tiên sinh nói rõ!

A Truật nghe mà cảm động.

Công Dương Vũ đặt ra việc đánh cược chỉ do hứng chí nhất thời, thành thử nói xong lại hối hận ngay: “Hoàn cảnh bây giờ đã khác trước, ta mà bất cẩn

là Đại Tống đi tong. Dẫu rằng năm xưa ta đã lập thệ không ngó ngàng đến

sự hưng vong của nước nhà, song đó chỉ là lời lẽ lúc cả giận mất khôn.

Tiểu tử Văn Tĩnh từng nói: “Tuy triều đình không đúng, nhưng nếu bọn

Thát chiếm đóng Đại Tống, bách tính sẽ khốn khổ”. Hắn nói phải lắm! Lão

phu quyết rồi, hôm nay nhất định không để một tên tướng Thát nào toàn

mạng xuống núi”. Suy tính xong đâu đấy, ông mỉm cười hỏi:

- Được, ngươi khá đoán xem, tên A Truật trong tay ta đây sống hay chết?

Lương Tiêu ngạc nhiên nghĩ bụng: “Cố nhiên là sống mà”. Gã định trả lời thì

sực nghĩ ra: “Không phải, sự sống chết của A Truật đang nằm cả ở tay ông già, ta làm sao thắng được? Nếu ta đoán sống, ông thúc khẽ chưởng lực

là A Truật mất mạng, rồi ta phải tự tận. Nếu ta đoán chết thì dù A Truật may mắn được tha, ta vẫn cứ chết như thường”. Lương Tiêu khó xử quá, cứ đứng đực mặt hồi lâu.

Công Dương Vũ cười thầm: “Hễ nó đáp “sống” là ta phát tài, gieo xúc xắc một lượt được cả ngũ và lục. Nhưng xem

chừng nó không chịu mắc lừa”. Ông bèn giục:

- Ngươi nghĩ xong chưa? Ta đếm đến ba, nếu ngươi vẫn không đoán ra thì coi như thua. Nghe đây, một…

Lương Tiêu mím môi, mặt trắng bệch. Công Dương Vũ cười:

- Hai!

Khi ông sắp sửa buông từ “Ba!” thì một giọng lạnh lùng xen vào:

- Ta đoán là sống!

Giọng nói không to nhưng rền vang như sấm, chấn động hết thảy màng nhĩ mọi

người. Công Dương Vũ giật mình liếc mắt nhìn ra, thấy Tiêu Thiên Tuyệt

đang đứng trên một tảng đá, tà áo đen bay phần phật. Ông hơi đổi sắc

mặt, nhưng cười ngay:

- Lão quái vật, e rằng ngươi đoán sai rồi.

Đoạn nhấn tay toan đẩy chưởng lực, chợt một luồng gió tanh táp đến sau lưng, Công Dương Vũ lật tay đâm mạnh Thanh Li kiếm ra sau, tức thì nghe thấy

tiếng gầm vang vọng. Đúng khoảnh khắc ông già phân tâm, Tiêu Thiên Tuyệt lạng người đến gần, chộp tay vào vai A Truật, một luồng nội lực xộc qua vai y thúc sang lòng bàn tay nhà nho. Công Dương Vũ phải đối phó cả

trước lẫn sau, không kịp ứng biến, cổ tay nóng sực lên rồi bị nội kình

vô song của Tiêu Thiên Tuyệt đẩy bật ra. Ông chưa kịp chộp con tin lại

thì họ Tiêu đã nhấc A Truật lướt lui về sau hơn một trượng, ngạo nghễ

nói:

- Ai đoán sai đây?

Công Dương Vũ hừ mũi, liếc mắt

trông kẻ vừa đánh lén mình, thấy con hổ đen đang chống ba chân xuống

đất, nhe nanh gầm gừ, chân còn lại cào đất toay toáy, trên chân rành

rành một vết kiếm sâu, máu chảy đầm đìa. Công Dương Vũ tức giận nghĩ:

“Đồ súc sinh, làm hỏng cả việc lớn của ta”. Các tướng ngỡ ngàng không

hiểu người áo đen và con vật kia từ đâu chui ra, Lương Tiêu thì trừng

trừng nhìn Tiêu Thiên Tuyệt, bàn tay cầm kiếm run bần bật.

Lúc

này, một thân binh lấy tù và ra rúc u u. Đám vệ binh ở sườn núi bắt được tín hiệu liền nhao nhao hò la đổ lên cứu viện. Công Dương Vũ cười ha

hả, hai mắt sáng quắc:

- Tiêu lão quái, ngươi có một thứ bản lĩnh thuộc loại vô địch thiên hạ khiến Cùng Nho khâm phục lắm lắm.

Tiêu Thiên Tuyệt nhạt nhẽo hỏi:

- Bản lĩnh gì?

Công Dương Vũ cười hì hì:

- Công phu đón gió hít rắm ấy, đích thực là thiên hạ đệ nhất! Bất kể lão

tử ở đâu, ngươi cũng ngửi được hơi gió, à không, ngửi được hơi rắm mà

lần mò tìm đến!

Tiêu Thiên Tuyệt kìm giận:

- Không dám. Lão Cùng Nho cũng có một bản lĩnh đáng gọi là vô song.

Công Dương Vũ vênh mặt:

- Bản lĩnh vô song của lão tử thì nhiều chứ, chẳng hay ngươi nhắc đến bản lĩnh nào?

- Nhiều đến đâu cũng không đáng kể, chỉ đáng kể mỗi bản lĩnh né tránh

trốn chạy khi chạm mặt lão phu. Bản lĩnh vắt chân lên cổ chạy tóe khói

đó, Tiêu mỗ rất khâm phục.

Công Dương Vũ lắc lư đầu chế giễu:

- Lão quái vật nói sai rồi. Kinh Thi có câu: Yểu điệu thục nữ, quân tử

hảo cầu. Thói thường nam nhân theo đuổi nữ nhân, ta là tu mi nam tử,

cũng chỉ mến thục nữ, không ham nam sắc, đời nào chịu được trò đeo bám

dai dẳng của ngươi… – Ý bảo Tiêu Thiên Tuyệt mắc bệnh đồng tính nam nên

mới lẵng nhẵng theo mình khắp nơi cùng chốn như thế.

Ai nghe cũng ngạc nhiên, mọi con mắt đổ dồn vào Tiêu Thiên Tuyệt: “Thật không ngờ,

trông lão già mặt mày lạnh lùng, hóa ra lại có đam mê khác thường đến

vậy!”.

Tiêu Thiên Tuyệt nổi trận lôi đình, gắt ầm lên:

- Đánh rắm, đánh rắm!

Công Dương Vũ bịt tay áo vào mũi:

- Làm gì mà đánh liền hai phát thế? Thối quá, thối quá! – vừa nói vừa cười ha hả, thanh âm lồng lộng bầu trời.

Trong số những người trên núi, trừ Tiêu Thiên Tuyệt và Lương Tiêu, ai cũng nhức hết cả tai, đầu váng tim run, lảo đảo suýt ngã.

Tiêu Thiên Tuyệt nghe điệu cười thập phần quái dị bèn lưu tâm đề phòng. Lão

liếc mắt nhìn quanh, chợt kinh ngạc nhận thấy một chiếc diều lụa hình

dáng như con rết, dài chừng mười trượng tà tà bay lên khỏi trận thế quân Tống.

Công Dương Vũ chợt nhích tay, Thanh Li kiếm xé gió đâm tới Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu giật lui nửa bộ, múa tay phản kích. Hai bóng

người xoay vù vù trong phạm vi mấy trượng, bàn tay và thanh kiếm liên

tục giao nhau chát chát, nghe như tiếng trân châu rơi xuống khay ngọc,

khó lòng phân biệt được ai nhanh ai chậm, ai trước ai sau.

Binh

lính ùn lên núi càng lúc càng đông. Lương Tiêu lo lắng nghĩ thầm: “Người đời thường nói, hai đánh một chẳng chột cũng què. Công Dương Vũ tuy lợi hại, nhưng trước mặt có Tiêu Thiên Tuyệt, sau lưng có vạn mã thiên quân thì muốn thoát thân e cũng không dễ…”. Gã suy tính rất nhanh, chợt quát to:

- Lão khọm già, xem chiêu đây! – rồi cùng kiếm lao đi, vẫy

một nhát đâm thẳng vào Tiêu Thiên Tuyệt. Các tướng đều thốt lên kinh

ngạc, nhưng Lương Tiêu chẳng buồn bận tâm, chỉ những múa kiếm thần tốc

tấn công.

Tiêu Thiên Tuyết đang ráo riết quyết phân thắng phụ, bị tập kích bất ngờ buộc phải giật lui ba bước. Công Dương Vũ bực tức mắng:

- Ai khiến đồ nhãi ranh nhà ngươi đa sự? – đoạn chuyển kiếm đâm Lương Tiêu.

Lương Tiêu không tránh kịp, tưởng chừng bị mũi kiếm mềm xuyên thủng tim đến

nơi, thình lình Tiêu Thiên Tuyệt nhấp chân áp sát, vỗ ra một chưởng.

Công Dương Vũ đành buông Lương Tiêu, thu binh khí về ứng phó. Lương Tiêu thở phào, tiếp tục vận kiếm đâm Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu cáu kỉnh

quát:

- Đồ súc sinh, muốn chết ư?

Tuy miệng nạt nộ như

vậy, nhưng thực chất một thân một mình đương cự với hai cao thủ vốn đã

không đơn giản, làm sao mà đánh chết được Lương Tiêu, lão già đành tạm

thời thi triển thân pháp né tránh các mũi tấn công.

Nhân lúc Tiêu Thiên Tuyệt chuyển công thành thủ, Công Dương Vũ thừa cơ vung kiếm đâm

Lương Tiêu, gã trẻ tuổi đã phòng bị sẵn, xuất thủ chống trả, chỉ thoáng

chốc hai bên lại trao đổi mấy chiêu. Lúc này Tiêu Thiên Tuyệt chuyển thế phi thân đến, định giở chưởng, nào ngờ Công Dương Vũ và Lương Tiêu cùng xoay kiếm ra đón lão.

Tiêu Thiên Tuyệt đành đảo người liên tục

để né tránh. Thoát hiểm xong, định thần nhìn kỹ thì thấy Lương Tiêu và

Công Dương Vũ đã lại xáp vào giao đấu rồi, Tiêu Thiên Tuyệt nổi giận

đùng đùng, lập tức chia song chưởng tấn công cả hai. Công Dương Vũ và

Lương Tiêu cũng trở kiếm về đấu với lão. Hết đợt này tới đợt khác, lúc

xáp vào lúc tách ra hệt như tam quốc tranh hùng, chỉ trong nháy mắt cả

ba đã chiết đến hơn trăm chiêu mà vẫn khó bề phân thắng phụ. Quân Nguyên chỉ sợ Lương Tiêu bị thương, lăm lăm đao nỏ hườm sẵn, nhưng ném chuột

lại ghê cũi bát nên chưa dám vọng động.

Trong lúc ba người kịch

chiến, gió đông bắc nổi lên rất mạnh, con diều lụa nương chiều gió từ từ bốc cao, lên tới khoảng tám mươi trượng, xấp xỉ đỉnh Thạch Công thì nó

lững lờ ghé lại gần ngọn núi. Quân sĩ kéo lên càng lúc càng nhiều, Công

Dương Vũ biết khó lòng thực hiện được ý định nữa, bèn trừng mắt nhìn

Lương Tiêu, lại trừng mắt nhìn Tiêu Thiên Tuyệt, chợt quất mạnh kiếm tới trước buộc Lương Tiêu phải lùi ra xa rồi vỗ một chưởng về phía Tiêu

Thiên Tuyệt. Họ Tiêu huy chưởng chống đỡ, hai chưởng xô mạnh vào nhau,

Công Dương Vũ cười ha hả:

- Lão quái vật, Cùng Nho đi đây!

Tiêu Thiên Tuyệt sững sờ một thoáng, đoạn thét vang, tung mình nhảy theo.

Công Dương Vũ lộn nhào một vòng, bật ra khỏi đỉnh núi, chỉ còn tiếng

cười rơi tõm lại:

- Đừng tiễn nữa, Tiêu lão quái, hẹn ngày tái ngộ!

Khinh công của Công Dương Vũ vốn siêu tuyệt, lại mượn được chấn lực từ đơn

chưởng của Tiêu Thiên Tuyệt, có đà băng đi xa tới hơn mười trượng. Hiềm

nỗi Thạch Công sơn cao đến tám trăm thước, dù Công Dương Vũ lợi hại cách mấy, rơi xuống tới đất cũng khó bảo toàn tính mạng. Mọi người đều đoán

ông ta thà chết chứ không để bị bắt nên nhảy vực tự tận. Lương Tiêu chua xót trong lòng, cơ hồ sa lệ!

Gió sông hun hút, con diều dừng lơ

lửng ở lưng chừng không, kéo căng sợi dây gai nối liền mặt đất. Dưới ánh dương, sợi dây sáng lóa như bôi mỡ. Công Dương Vũ vụt phất tay phải,

một dải vải trắng dài chừng mười trượng phụt ra khỏi tay áo, cuốn vào

dây gai. Con diều hơi trĩu xuống, treo nhà nho đu đưa giữa không trung.

Công Dương Vũ vắt dải lụa qua dây gai rồi bám lấy hai đầu lụa, thả mình

tuột vun vút xuống như đứa trẻ chơi trò cầu trượt suốt dọc sợi dây dài

đến trăm trượng ấy.

Trên núi ai nấy ồ à kinh ngạc. Tên bay chíu

chít về phía Công Dương Vũ. Ông giơ kiếm múa tít, cuốn rơi hết những

loạt tên. Nhờ dây gai có bôi mỡ, Công Dương Vũ trượt xuống nhanh như sao băng lướt ngang trời, mau chóng vượt ra ngoài tầm xạ tiễn.

Quân hai bên đóng trên sông, trông thấy cảnh tượng lạ mắt ấy đều giơ tay chỉ trỏ, xì xào kinh ngạc.

A Truật cau mày, chợt giật lấy một cánh cung, đặt tên tẩm lửa ngắm bắn

dây diều. Sợi dây trét đầy mỡ, vừa chạm phải mũi tên đã bắt cháy bùng

bùng, lửa theo chiều gió trùm lên nuốt chửng cánh diều. Con diều lộn

nhào rơi xuống, Công Dương Vũ mất thăng bằng, cũng rớt thẳng xuống sông.

Khi còn cách mặt nước chừng mười trượng, giữa tiếng hô hoán của hàng vạn

người, Công Dương Vũ búng mình lộn nửa vòng lên trên sợi dây gai, đồng

thời duỗi tay trước gió để tấm áo được thổi căng phồng như quả bóng, tốc độ rơi chậm hẳn lại, chậm hơn cả dây diều nhẹ.

A Truật bật la thất thanh:

- Lão đồ nho này ghê gớm thật!

Trong lúc y la, sợi dây đã chạm nước. Công Dương Vũ hạ xuống theo, đạp lên

dây mà chạy như cưỡi gió, ung dung lướt vào trận thế quân Tống, mất tăm

mất dạng.

Thấy Công Dương Vũ đã thoát nạn, Lương Tiêu cũng yên

yên dạ, ngoảnh đầu nhìn quanh thì không thấy bóng dáng Tiêu Thiên Tuyệt

đâu nữa, gã vội vàng cầm kiếm đuổi theo. Tiêu Thiên Tuyệt cưỡi hổ vượt

núi băng đèo như đi trên đất bằng. Khi Lương Tiêu chạy xuống đến chân

núi, lão đã tan biến như chưa từng xuất hiện.

Lương Tiêu ngơ ngẩn hồi lâu, chợt một giọng oang oang vọng tới chỗ gã:

- Tổ sư ngươi! Vì sao lão tử không được đứng đây?

Lương Tiêu nghe giọng quen tai bèn liếc mắt nhìn thì thấy Trung Điều Ngũ Bảo

đang giậm chân bình bịch đằng xa, vây xung quanh là binh lính Nguyên

triều. Người vừa lớn tiếng chính là Hồ Lão Bách, tay khoanh trước ngực

ngang bướng cãi cọ. Hồ Lão Thiên tiếp lời:

- Phải đó, mảnh đất

rộng này là hố xí của nhà ngươi đấy à? Mà cứ coi như là hố xí nhà ngươi, cho lão tử đi nhờ một lần thì đã làm sao?

Năm huynh đệ cùng cười ha hả.

Quân Nguyên nghe hắn nói năng nhố nhăng, thảy đều tức giận, chực xúm vào quây đánh, Lương Tiêu bèn tới gần bảo:

- Khoan đã!

Nhận ra gã, binh lính đều lùi lại. Trung Điều Ngũ Bảo gặp Lương Tiêu thì hớn hở vô cùng, vây quanh gã mồm năm miệng mười tranh nhau nói. Lương Tiêu cũng vui mừng không kém:

- Năm tên lưu manh, đến đây làm gì?

Hồ Lão Vạn nói:

- Lão tử theo Tiêu đại gia mà. Tiêu đại gia đi trước, lão tử rớt lại sau, không ngờ bị bọn này vây riết, còn bị chúng đổ diệt là gian tế nữa.

Lương Tiêu cau mày, một binh sĩ bước lên phân trần:

- Bẩm tướng quân, vừa rồi trên núi xảy ra lắm việc rắc rối, dưới đây bỗng mọc đâu ra mấy tên bận trang phục miền nam này, chúng thuộc hạ sinh

nghi mới tra xét, không ngờ họ lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay ngay

được.

Lương Tiêu bảo:

- Họ không phải gian tế đâu, các ngươi giải tán đi!

Đám binh lính đỡ những đồng đội bị ngã dậy, cùng bái chào rồi rút lui. Hồ Lão Thiên đảo cặp mắt ti hí nhìn quanh:

- Đồ đệ của lão tử đâu rồi đại ca?

Lương Tiêu đứng sững. Hồ Lão Nhất cũng náo nức:

- Dương Tiểu Tước không đi theo đại ca ư?

Hồ Lão Thiên kêu lên:

- Lý Đình đâu? Lão tử thấy nhơ nhớ hắn!

Hồ Lão Vạn cười:

- Lão tử nghĩ ra vô khối tuyệt chiêu muốn truyền hết cho Vương Khả, bảo đảm hắn tiến bộ rất nhanh, không ai địch nổi.

Hồ Lão Nhất liếc Hồ Lão Vạn, giọng mỉa mai:

- Tuyệt chiêu đâu ra, lão tử mà chỉ vẽ cho Dương Tiểu Tước dăm ba chiêu, đảm bảo hắn cất tay là Vương Khả mềm nhũn như quả hồng.

Hồ Lão Thập nói tranh:

- Tam Cẩu Nhi thì thậm chí không cần cất tay, chỉ nhổ một bãi nước bọt cũng đủ dìm chết Vương Khả.

Hồ Lão Thiên huênh hoang:

- Thế cũng chưa là gì, Lý Đình chỉ đánh một phát rắm là đủ để thối ngã tên ranh con đấy!

Ba Bảo này bất mãn về cái câu “không ai địch nổi” nên hợp lực móc máy cho

Hồ Lão Vạn biết nhục. Hồ Lão Vạn tức mình, nhưng nghĩ hai nắm đấm không

địch nổi sáu cánh tay nên đành nuốt giận làm thinh. Lương Tiêu lưỡng lự

một thoáng rồi nói:

- Bọn chúng đang ở Kinh Khẩu, nếu các ngươi muốn gặp thì lên ngựa đi, ta đưa về gặp.

Năm người mừng rỡ vâng lời. Lương Tiêu dắt mấy con ngựa đến, dẫn họ vào thành.

Lý Đình và Vương Khả mừng quýnh lên khi gặp sư phụ. Hồ Lão Thiên và Hồ Lão Vạn cũng phấn khởi tột độ, bất chấp ánh mắt tò mò của mọi người xung

quanh, ôm chặt lấy hai đồ đệ vẫn đóng nguyên bộ giáp trụ, lăng đi lăng

lại như nghịch với trẻ con. Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập càng nhìn càng

ngứa mắt. Hồ Lão Thập túm áo Lương Tiêu hỏi giật giọng:

- Tam Cẩu Nhi đâu?

- Ừ đúng, Tiểu Tước Nhi đâu? – Hồ Lão Nhất cũng thắc mắc.

Lương Tiêu nhăn mặt:

- Ta mệt lắm, ngươi hỏi Lý Đình sẽ biết.

Lý Đình chỉ kịp hét lên: “Lương đại ca!” là đã bị Trung Điều Ngũ Bảo túm

giằng túm xé, rối rít gặng hỏi. Không còn trốn vào đâu được, gã đành cứ

sự thực mà ngọn ngành kể ra.

Ngũ Bảo ngơ ngác nhìn nhau, Hồ Lão Nhất chợt gầm to:

- Ngươi dối trá, đồ súc sinh…

Dứt lời, hắn túm chặt Lý Đình, vo nắm đấm chực đánh. Hồ Lão Thiên xót đồ đệ vội giơ tay ngăn, hai anh em liền lăn xả vào vật lộn. Hồ Lão Thập đứng

sững một hồi rồi cũng rống lên oa oa, đá Lý Đình chí chết. Hồ Lão Vạn

giơ tay ngăn:

- Ngươi đá hắn thì có tác dụng gì?

Hồ Lão Thập liền nện nắm tay vào vai Hồ Lão Vạn, mắt đỏ hoe hoe. Hồ Lão Vạn đau thấu xương cốt, lật đật giật lui, bực bội mắng:

- Ngươi điên đấy à?

Rồi họ cũng tay đấm chân đá thình thịch. Kình khí bắn ra xung quanh, chém

nát từ bộ bàn ghế bằng gỗ tử đàn đến đủ các thứ bình ngọc ấm bạc bày

biện trong sảnh.

A Tuyết, Thổ Thổ Cáp và Nang Cổ Ngạt nghe tin

chạy sang, nhìn cảnh ẩu đả hỗn loạn quá mức, đều sợ sệt không dám lại

gần. Lương Tiêu mất kiên nhẫn đành chạy ra quát to:

- Dừng tay!

Hồ Lão Thập nghe tiếng giật mình, đầu óc cũng hơi tỉnh táo lại, túm vai Lương Tiêu hỏi:

- Đại ca, tên oắt Lý Đình lừa bọn ta, phải không?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Hắn không lừa ai đâu, mỗi câu mỗi chữ đều là thật.

Hồ Lão Thập sững sờ thõng tay, dập đầu xuống đất binh binh, mồm lẩm nhà

lẩm nhẩm. Hồ Lão Nhất vốn bị ba huynh đệ liên thủ giữ ghịt lấy, đang vẫy vùng giãy giụa, chợt nghe Hồ Lão Thập khóc mếu, hắn cũng rụng rời khóc

òa lên.

Không ngờ hai tên ấy nặng tình cảm như vậy, ai trông cũng xúc động can tràng, khóe mắt hoen ướt. Hồ Lão Thiên ngơ ngẩn buông Hồ

Lão Nhất ra:

- Hồ Lão Nhất đừng khóc, cùng lắm lão tử tặng Lý Đình cho ngươi là được chứ gì!

Nói đoạn kéo Lý Đình lại, ép gã dập đầu lạy Hồ Lão Nhất. Hồ Lão Vạn thấy thế cũng lôi Vương Khả đến trước mặt Hồ Lão Thập:

- Này, lão tử… – Trong lòng hắn thực ra không muốn, do dự khá lâu mới cắn răng nói. – Lão tử cũng đem đồ đệ kính tặng ngươi đây.

Hồ Lão Thập vắt mũi dãi:

- Thèm vào đồ đệ của ngươi, lão tử chỉ cần Tước Nhi của lão tử thôi!

Hồ Lão Nhất nấc nghẹn:

- Phải, lão tử cũng chỉ cần Tam Cẩu Nhi thôi!

Hai người đau lòng quá đỗi, lại khóc rống lên. Bốn huynh đệ cứ hết khuyên

lơn đến chối từ, biếu đi đẩy lại đám đồ đệ tuồng như bọn chúng chỉ là đồ vật chén bát, có thể chuyển nhà đổi chủ bất cứ lúc nào. Hồ Lão Thiên và Hồ Lão Vạn cuối cùng bất lực, đành nài Lương Tiêu:

- Ngươi lắm mưu nhiều kế, mau nghĩ cách…

Lương Tiêu thở dài, chìa tay nâng cả Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập dậy:

- Đều tại ta không bảo vệ được hai tên ấy, các ngươi cứ trút giận vào ta đây.

A Tuyết vội can:

- Không được! – đoạn vòng hai tay ôm chặt Lương Tiêu, sợ Hồ gia huynh đệ đánh thật.

Hồ Lão Thập sụt sùi một lúc, lắc đầu bảo:

- Có phải lỗi của đại ca đâu, đều tại lão tử dạy dỗ Tam Cẩu Nhi chưa tới nơi tới chốn.

Hồ Lão Nhất cũng tự trách:

- Phải, Dương Tiểu Tước mà học được hết công phu rồi thì chỉ đánh thắng chứ ai giết nổi hắn?

Lương Tiêu không ngờ hai anh em họ đúc rút kết luận nhanh như vậy, nói giọng ngỡ ngàng:

- Các ngươi nghĩ thoáng ra được thế thì tốt. – Gã quay sang Vương Khả và

Lý Đình. – Hai đệ là bằng hữu chí thiết với Tam Cẩu Nhi, Dương Tiểu

Tước. Sư phụ của họ là sư phụ của các đệ, cha mẹ họ cũng là cha mẹ của

các đệ, sau này dẫu lập được sự nghiệp to lớn thế nào cũng phải ghi nhớ

điều ấy.

Hai người vâng dạ, lạy Ngũ Bảo ba lạy. Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập đều thở dài, nhưng nghĩ kỹ có ít cũng còn hơn không, cuối cùng đành ngậm ngùi chấp thuận.

Đêm ấy Lương Tiêu mở tiệc tẩy trần

cho năm người. Trung Điều Ngũ Bảo không vui vẻ mấy, ỉu xìu uống một lúc

rồi gọi Lý Đình và Vương Khả vào vườn trong truyền dạy võ công. Họ đều

nôn nóng hết sức, chỉ muốn dốc ngay toàn bộ bản lĩnh ra cho hai đồ đệ,

vì vậy đôn đốc luyện tập rất khe khắt. Lý Đình và Vương Khả tuy đã làm

tướng nhưng vẫn rất nhu thuận với các sư phụ, không dám chống đối mảy

may.

Lương Tiêu thấy vậy cũng yên tâm, bèn về phòng nghỉ ngơi.

Giữa đêm, gã choàng tỉnh vì một tiếng hú dài. Lúc đầu còn tưởng là tiếng Trung Điều Ngũ Bảo la ó dạy dỗ đệ tử, nhưng nghe kỹ, nhận ra nội lực vô song trong âm thanh, gã bàng hoàng mặc áo chạy ra.

Ngoài sân,

Trung Điều Ngũ Bảo, Lý Đình và Vương Khả đang ngửa cổ nhìn lên, khuôn

mặt đầy vẻ kinh hoàng. Trong đêm tối, có hai bóng người xẹt qua xẹt lại

trên các mái nhà, tốc độ di chuyển quá nhanh làm phát ra tiếng gió vù

vù.

Lương Tiêu chú mắt nhìn, kinh ngạc nhận ra Công Dương Vũ và

Tiêu Thiên Tuyệt. Tướng sĩ trong phủ cũng mất giấc vì tiếng động, ai nấy theo nhau trở dậy, đèn đuốc thắp sáng trưng.

Công Dương Vũ cười ngất:

- Tiêu lão quái, ở đây toàn là đồng bọn của ngươi, có giỏi thì cùng ta ra ngoài thành đơn đả độc đấu?

Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng trả lời:

- Ra thì ra, kể cả ngươi giăng bẫy ta cũng không sợ.

Hai bóng người tách lìa, song song chạy ra ngoài thành. Lương Tiêu tung

mình lên mái nhà, bám sát đằng sau, Trung Điều Ngũ Bảo cũng chạy theo,

luôn miệng kêu la chí chóe. Càng tiến xa, cước lực của tám người càng

phân rõ cao thấp, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt chạy ngang nhau,

Lương Tiêu cách họ chừng một trăm ba mươi bộ, còn Trung Điều Ngũ Bảo thì bị bỏ lại sau khá xa.

Khi Lương Tiêu đuổi đến lầu thành, Công

Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt đã ở bên ngoài và đang thần tốc di chuyển

về hướng nam, không hiểu họ vượt thành bằng cách nào. Hai bóng đen lao

như tên bay, chỉ chớp mắt đã lẩn vào đêm tối.

Lương Tiêu băn

khoăn: “Công Dương tiên sinh định đến giết ta ư? Ta phải nói chuyện với

ông cho minh bạch, rốt cục là ta sai ở điểm gì, hay chính bản thân ông

sai. Còn Tiêu Thiên Tuyệt, ta và lão ấy thù sâu như bể, đánh trận là

chuyện nhỏ, báo thù mới là việc lớn, lần này đã gặp được nhất định không thể bỏ qua”. Gã lập tức thét mở cổng thành, lao ra đuổi theo hai người.

[1] Trên núi Thạch Công.

[2] Tức Altai, một dãy núi ở trung tâm châu Á, nằm trên khu vực biên giới Nga, Trung Quốc, Mông Cổ và Kazakhstan.

[3] Tức Kara Korum, kinh đô của Đế quốc Mông Cổ từ thời Oa Khoát

Đài đến giai đoạn đầu cai trị của Hốt Tất Liệt, trước khi ông

này thiên di về Đại Đô.

[4] Theo Trâu Diễn, đất trung nguyên

gồm chín châu: Thần thổ Đông nam Thần châu, Thâm thổ Chính nam Cung

châu, Thao thổ Tây nam Nhung châu, Tịnh thổ Chính tây Thăng châu, Bạch

thổ Chính trung Kí châu, Phì thổ Tây bắc Trụ châu, Thành thổ Bắc phương

Huyền châu, Ẩn thổ Đông bắc Hàm châu, Tín thổ Chính đông Dương châu.

[5] Bài từ theo điệu Thủy điệu ca đầu của Trình Bí thời Tống.