A Thuật vốn đã định lên ngựa xuất phát, nhưng đột nhiên thấy Lương Tiêu
suất lĩnh chúng quân phá vây, thu thập bại quân, trong lòng kinh hỉ vạn
phần, y rất tin tưởng vào khả năng của Lương Tiêu, lập tức nhảy xuống
ngựa, trở lại soái đài. Lúc này chiến thuyền của quân Tống trước sau gặp nhau, đang lao ngược lên thượng lưu. Nguyên quân đại tướng Trương Hoằng Phạm cố gắng chỉ huy các chiến hạm cản trở; Thủy quân thống soái Lưu
Chỉnh bày trận ở hai bên bờ, phát động máy bắn đá công kích vào hai cánh Tống quân. Nhất thời trên Hán thủy (1) pháo nổ ầm ầm, những mũi tên lửa tựa như châu chấu từ trên bờ bắn xuống tạo nên một cảnh tượng vô cùng
hoành tráng.
Chiến hạm quân Tống ước chừng có khoảng ngàn chiếc,
nhưng không phải tất cả đều là cự hạm kiên cố, có rất nhiều chiếc thuyền nhỏ nhẹ, thực ra là được cải tạo từ thuyền đánh cá mà thành; thuyền lớn thì lại ngập sâu trong nước, chứng tỏ đang chở đầy đồ nặng. Theo tình
hình trước mắt, đội thuyền này không hề đồng đều, theo lí mà nói thì một đòn tất có thể đánh tan, nhưng thủy trận lại được xắp xếp rất đặc biệt, phía trước giống như cánh vịt trời, sau lại giống như đuôi cá chép, lúc thành hình vuông, lúc giống hình tròn, biến hóa vô cùng. Trương Hoằng
Phạm mấy lần xua quân tấn công, nhưng người Tống lại thường đột nhập vào phía sau, tiếp đó hai mặt hợp nhất, đẩy hơn chục chiến hạm vào trong
trận, những chiếc thuyền tiếp ứng đều bị cản lại ở vòng ngoài; tiếp đó
Tống quân lại dùng thuyền nhẹ liên tục bắn tên lửa vào, sau khoảnh khắc
đã phá tan những chiến hạm bị hãm trong trận. Nhất thời cánh thủy sư
Tống quân này giống như một con cự kình, không ngừng há miệng thè lưỡi,
nuốt hết thủy sư (2) Nguyên quân, ép đến gần mười sợi xích sắt ngăn giữa dòng sông.
Đúng vào lúc này, trong trận của Tống quân một bạch y nam tử đột nhiên giơ cờ lệnh lên, chỉ thấy một tráng hán khôi vĩ ở bên
trái cùng một lão giả tóc trắng ở bên phải đang chỉ huy mấy chục nam tử
trong tay cầm cự phủ (3) đi thuyền nhẹ từ trong trận ra, tất cả yểm hộ
cho nhau, tiến vào giữa làn đạn đá của Nguyên quân, áp sát những sợi
xích sắt. Cự phủ mãnh liệt bổ xuống, tiếng sắt thép va vào nhau loảng
xoảng, hoa lửa bay loạn lên. Chỉ sau nháy mắt mười sợi xích sắt đã hoàn
toàn bị chém đứt, trên Hán thủy không còn trở ngại gì nữa, thủy sư Tống
quân nhất tề hoan hô, hết sức xông lên, thủy sư Tương Phàn cũng thừa thế thuận dòng đi xuống, nội ứng ngoại hợp giáp kích quân Nguyên.
A
Thuật thấy tình thế bất diệu thì liền vội vàng hạ lệnh cho Trương Hoằng
Phạm đưa quân lên thượng lưu cản trở thủy sư Tương Phàn. Lại lệnh cho
đài pháo ở giữa sông dùng pháo lớn nỏ mạnh bắn ra, muốn phá tan thủy
trận của Tống quân trước.
Đài pháo và mười sợi xích sắt ngăn giữa sông này là do Nguyên quân dựng lên năm ngoái. Sau khi Bá Nhan chiếm
giữ phía nam Phàn Dương, để cản trở sự cứu viện của Tống quân đã lệnh
cho quân lính đem hơn mười vạn cân (4) đá lớn từ trên núi xuống đổ xuống giữa sông, tạo nên cái đài cao một trượng này, bên trên đặt mười cỗ máy bắn tên, tám cửa đặt pháo lớn. Lại đặt bảy khối cự thạch trước đài,
giăng ra mười sợi dây xích lớn, hình thành một thủy trận khổng lồ, cho
dù Tống quân dựa vào chiến hạm lớn không sợ đạn đá thì cũng khó mà tiến
tới gần đài được. Bá Nhan sắp đặt như vậy có thể nói là vạn vô nhất thất (5), sức mạnh của thủy sư Tống quân vốn ở trên Nguyên quân, nhưng từ
năm ngoái trở đi, liên tục bị trận thế này cản trở, khó mà tiếp viện cho Tương Phàn.
Nguyên quân thủ trên đài nhận được hiệu lệnh của A
Thuật liền lập tức nổ pháo. Nhất thời tên to đá nặng cùng bay ra ào ào,
chiến hạm của Tống quân ở phía trước bị phá vỡ rất nhiều, Nguyên quân
thấy vậy thì hoan hô đến rung trời lở đất.
Lương Tiêu chỉnh đốn
xong đám bại binh, hạ lệnh phòng thủ nghiêm mật đề phòng quân Tống trong thành tấn công ra. Đột nhiên nghe thấy tiếng hô ầm ầm trên sông, không
biết đã phát sinh chuyện gì, hắn đoán Lữ Đức sau trận chiến này quyết
không dám xuất kích một lần nữa nên phân phó cho bách phu trưởng chỉ huy quân đội, tự mình cùng với Dương Các thúc ngựa tiến về soái đài báo cáo tình hình với A Thuật.
Khi Lương Tiêu đi đến vừa kịp thấy pháo
đài giữa sông phát uy, chiến thuyền Tống quân bị phá nát, Lương Tiêu lên đài chào hỏi A Thuật và báo cáo tình hình, A Thuật nghe xong liền cười
khổ một tiếng, vỗ vai hắn gật đầu nói: “Ta biết rồi, may mà có ngươi…”
Nhưng lúc này chiến sự kịch liệt, không để cho y có thể nói nhiều, đột
nhiên thấy phía trước Tống quân lõm vào, thủy sư trận thế biến thành
hình chữ nhất, giống như rắn nước bơi lội, miệng rắn mở rộng, lúc đóng
lúc khép, biến hóa vô cùng. Không chỉ đạn pháo hai bên bờ của Nguyên
quân khó lòng bắn trúng mà ngay cả pháo đài phía trước cũng không làm gì được. Lương Tiêu tỉ mỉ quan sát rồi kinh ngạc nói: “Thủy Cầm Ngư Long
trận.” A Thuật ngạc nhiên nói: “Ngươi biết trận thế này?”
Lương
Tiêu gật đầu nói: “Nguyên lý của trận này dựa theo ngũ hành, trận thế
theo hình thủy điểu, thủy xà, thủy ngư (6) mà biến, phía trước biến hóa
đặc biệt ảo diệu, giống như mồm cá, môi rắn, mỏ chim, từ từ thôn phệ
binh mã đối phương vào trong, lại mai phục tinh binh ở giữa trận để tiêu diệt. Ngày đó ta thấy qua biến hóa của trận này trong cuốn Ngũ Hành
Thuyên Binh, nhưng chưa từng thấy người khác dùng qua. Trong sách có
viết: Trận này biến hóa thong thả, không lợi khi đánh nhau trên mặt
đất, thích hợp với thủy binh. Lời này bao hàm đại trí đại tuệ của những vị tiên hiền trung thổ, A Thuật không thông số thuật, chẳng thể hoàn
toàn hiểu hết, nhưng nghe những lời Lương Tiêu nói và sự biến hóa của
trận thế trước mắt này rất giống nhau, vui mừng nói: “Như vậy là có cách phá trận này?”
Lương Tiêu quan sát trận thế Nguyên quân rồi lắc
đầu nói: “Trận này phía trước biến hóa vô cùng, không thể chính diện
tranh đấu cùng nó, chỉ có thể luồn ra sau lưng địch rồi mới có cách phá
trận. Nhưng hiện nay thủy sư đã lùi đến thượng du, khó có thể thuận lưu
đi xuống. May mà có thạch đài giữa sông, có thể cản trở bọn chúng.” Vừa
dứt lời, đột nhiên thấy hai chục khoái thuyền (7) từ trong thủy trận của Tống quân lao ra, xếp hành hình cánh quạt, mau chóng xông đến thạch
đài, tựa hồ muốn dùng sức mạnh leo lên, Nguyên quân sao có thể để cho
bọn họ thành công, đạn đá bắn ra ào ào, loáng cái đã đánh chìm hai chiếc thuyền.
Trong chốc lát, hai chục khoái thuyền đã bị hủy đi quá
nửa, Lương Tiêu đột nhiên cảm thấy không đúng, hắn nhíu mày nói: “Giỏi
lắm! Vờ sửa sạn đạo, ngầm vượt Trần Thương ư?” A Thuật không biết đến
điển cố này, nghe vậy liền kinh ngạc nói: “Là ý gì vậy?” Lương Tiêu chỉ
về phía sau những chiếc khoái thuyền nói: “Anh xem đằng kia kìa!”
A Thuật định thần nhìn kĩ, chỉ thấy một chiếc thuyền lớn, bên trên mang
theo một cỗ máy bắn tên, từ từ tiến theo sau những chiếc khoái thuyền,
thừa cơ khoái thuyền hấp dẫn sự chú ý của quân Nguyên mà tiến về phía
thạch đài. Trên thuyền, một người thân mang bạch y, tay cầm sào trúc lao ra, chính là bạch y nam tử chỉ huy biến trận vừa rồi. Người này thân
pháp nhanh như điện, nhảy lên cao chừng năm thước, hướng về máy bắn tên, chân vừa chạm xuống lập tức năm binh sĩ Tống quân đồng thời buông sợi
dây cung khổng lồ đã được kéo căng, bạch y nam tử kia giống như một mũi
tên bắn thẳng đến thạch đài giữa sông. Đúng vào lúc này, Lương Tiêu đột
nhiên nhìn thấy khuôn mặt của bạch y nam tử kia, hắn tức giận gầm lên:
“Là hắn!” Bạch y nam tử này chẳng phải ai xa lạ, chính là Vân Thù.
Vân Thù mượn lực của dây cung bay thẳng lên không. Nguyên quân không ngờ y
lại dùng chiêu này, vô cùng kinh ngạc, lập tức hò hét không ngừng. Chiến thuyền của Nguyên quân thủ ở bên đài, chúng quân đang kéo căng cung chờ bắn, vốn là để phòng bị Tống quân dùng khoái thuyền lên đài, thấy tình
huống lúc này, loạn tiễn lập tức bắn thẳng vào Vân Thù như mưa.
Vân Thù thân ở trên không khua khoắng sào trúc kết thành một tấm đại thuẫn
bao quanh ba trượng quanh mình, gạt hết những mũi tên bắn tới xuống dòng sông. Nhưng lực đẩy của dây cung cuối cùng đã quá yếu, Vân Thù tuy đã
phải dùng đến sức của chính mình nhưng vẫn vô cùng khó khăn, bị loạn
tiễn quấy rối, thế tiến bị trì hoãn, trong khi đó còn cách thạch đài
giữa sông đến năm trượng, không thể tiến tiếp, y đành hạ xuống giữa
sông. Cần phải biết lúc này dòng nước đã bị cự thạch cản trở nên lại
càng trở nên mạnh mẽ, người rơi xuống nước là lập tức sẽ bị cuốn xuống
hạ lưu. Tống quân mắt thấy việc chỉ còn thiếu chút nữa là thành công thì đều kinh hô một tiếng, Nguyên quân được thể hoan hô rầm trời, chấn động cả dòng sông.
Đúng vào lúc rơi xuống nước, sào trúc trong tay
Vân Thù đột nhiên đưa ngang, tăng thêm độ dài cho cánh tay, không dài
không ngắn vừa khéo chạm đến mép thạch đài. Tức thời nội kình của Vân
Thù phát ra, rắc một tiếng, sào trúc chịu lực mà cong lại; Vân Thù dựa
vào lực đàn hồi của cành trúc lật người nhảy lên, lăng không xoay người, thoáng cái đã tới được trên thạch đài, thân vừa tiếp đất lập tức dùng
sào trúc xuyên qua hai binh sĩ Nguyên quân. Trên đài trừ những quân sĩ
đang nổ pháo, hai đội thủ vệ mười người thấy vậy bèn vác đao cầm mâu lao đến tấn công y.
Vân Thù thét lớn một tiếng, giơ sào trúc lên,
thế như hổ nhập đàn dê, tuy chỉ là một cành trúc nhưng đến tay y lại
giống như trường thương đại kích, đánh đến một thân bạch y đã chuyển
thành màu huyết hồng. Không đến thời gian một tuần trà, Nguyên quân trên thạch đài đã chết quá nửa. Tông quân lại nổ pháo trợ uy, dùng Thủy Xà
trận mà tiến lên.
Trương Hoằng Phạm thấy vậy vội vã thôi thúc bắn đạn đá lên đài, tên đạn lao đến thạch đài như mưa. Nhưng không ngờ
những đống đạn đá trên đài vốn để nổ pháo lúc này lại thành nơi ẩn nấp
cho Vân Thù. Vân Thù sau khi tránh vào đó lại tiếp tục xông ra xung sát. Qua vài lần như vậy, Tống quân thủy sư đã tiến tới trước thạch đài,
Tương Dương thủy sư đã thúc quân tấn công, Nguyên quân sau lưng thụ
địch, lập tức phải hãm nhập vào khổ chiến.
A Thuật không ngờ
trong Tống quân lại có một nhân vật như vậy, trong lòng kinh dị vô cùng. Lúc này thạch đài đã bị vây hãm, trừ liều chết ngăn cản thì đã chẳng
còn cách nào khác, y hạ lệnh nổi trống lên trợ giúp uy thế cho thủy
quân. Lúc này, đột nhiên nghe thấy Dương Các kinh hô: “Lương đại ca!” A
Thuật quay người lại, nhìn về hướng mục quang Dương Các đang hướng tới,
thấy Lương Tiêu đang thúc ngựa dọc theo bờ sông, A Thuật ngạc nhiên nói: “Anh ta muốn làm gì vậy?” Dương Các nói: “Người mặc áo trắng đó là thù
nhân của chúng tôi, hắn bày kế giết hết đội vận lương, hại chết huynh đệ của chúng tôi!”
A Thuật nhíu mày nói: “Thì ra là vậy.” Lời còn
chưa dứt đã thấy sau khi Lương Tiêu giục ngựa chạy được trăm trượng thì
đột nhiên xoay người lại, thúc ngựa lao thẳng đến bờ sông. Chúng nhân
không hiểu hắn có ý gì, lại thấy hắn ghìm ngựa lại, chiến mã bị đau hí
dài một tiếng, chân sau chống mạnh xuống đất, nhảy chồm lên không, vượt
qua đầu Nguyên quân mà phi thẳng vào Hán giang.
Chú thích:
(1) Thủy ở đây nghĩa là sông, Hán thủy là sông Hán.
(2) Thủy quân
(3) Búa lớn hoặc rìu lớn
(4) Cân ngày xưa, bằng 0,5kg
(5) Không thể có sơ xảy
(6) Xà: rắn, điểu: chim, ngư: cá.
(7) Khoái thuyền: Thuyền nhỏ nhẹ, chạy nhanh
Phải biết tự cổ danh mã không ngoài “Đại Uyển”, “Nguyệt Chi”. Nhưng hai nước này đều nằm trên dãy Khâm Sách, “Sử Kí Chính Nghĩa” có đoạn: "Ngoại
quốc xưng thiên hạ hữu tam chúng, Trung Quốc vi nhân chúng, Đại Tần (La
Mã cổ) vi bảo chúng, Nguyệt Chi vi mã chúng." Ý của câu này là: "Trung
Quốc nhân khẩu đông nhất, Đại Tần nhiều trân bảo nhất, Nguyệt Chi là có
nhiều ngựa tốt nhất." Vì vậy mấy tuyệt thế danh câu như Hãn Huyết mã,
Yên Chi mã đều có xuất xứ từ Khâm Sách. Con ngựa này của Lương Tiêu tuy
không phải là vạn con chọn một nhưng cũng là nghìn con chọn một, thần
tuấn phi phàm, huống chi lại mượn thế bổ nhào xuống, trong khoảnh khắc
đã vượt qua mười trượng, rơi xuống chiến thuyền của Nguyên quân trên
sông, chiếc thuyền đó bị mãnh lực này ấn xuống khiến chút nữa thì lật
nhào, quân sĩ trên thuyền đều lảo đảo đứng không vững. Ngựa của Lương
Tiêu không hề dừng lại, tiếp tục nhảy tới những chiến thuyền khác. Sau
khoảnh khắc, hắn mượn chiến thuyền của Tống quân làm chỗ đặt chân rồi
lại thúc ngựa nhảy đi giống như là đi trên bình địa, trong khoảnh khắc
đã đến gần thạch đài giữa sông. Thủy sư Tống quân thấy vậy vừa mừng vừa
sợ, đồng thanh hô lên.
Vân Thù đang cùng quân Nguyên kịch đấu,
huy động sào trúc sâu Nguyên quân thành một sâu, đột nhiên thấy một âm
thanh vang lên, vừa quay đầu nhìn lại, trước mặt chợt tối đen, một chiến mã từ trên không rơi xuống, Vân Thù cấp tốc xoay người, một sào xuyên
qua bụng ngựa, con ngựa đó kêu thảm một tiếng rồi rơi xuống như sao
băng.
Lương Tiêu chống tay lên lưng ngựa, nhảy vọt lên không, tay cầm trường thương hướng về hướng Vân Thù lăng không lao tới, Vân Thù
giơ sào đâm lên, Lương Tiêu chuyển thân tránh qua, hoa thương (1) trong
tay vạch đến, trong thoáng chốc đã xuất ra mấy nhát, đẩy sào trúc ra,
đâm thẳng tới Vân Thù.
Vân Thù thấy người tới thương pháp tinh
diệu, trong lòng hoảng sợ, nhìn kĩ lại thì không khỏi kinh ngạc mà tức
giận hét lên: “Ác tặc! Là ngươi?” Hoành ngang sào trúc ngăn cản trường
thương, y lập tức khôi phục thần sắc. Hai người kẻ thù gặp nhau, mắt đỏ
ngầu lên, nhất thời trổ hết tài nghệ lao vào kịch đấu.
Trương
Hoằng Phạm thấy Vân Thù gặp phải đối thủ, cũng chẳng thèm quan tâm đến
sự sống chết của Lương Tiêu, vội vã lệnh cho Nguyên quân bắn tên, đoạt
lại thạch đài. Hai ngươi trên đài chỉ đành xoay người tránh né. A Thuật
vội vã truyền lệnh Trương Hoằng Phạm không được bắn tên. Trương Hoằng
Phạm trong lòng kinh ngạc, nhưng cũng chỉ đành phụng mệnh, Lương Tiêu và Vân Thù thấy tên đã ngưng lại lập tức lao vào nhau kịch đấu, chỉ thấy
sào ảnh trầm ổn, hoa thương bay bổng, hai bên tiến thoái nhanh như thiểm điện, hai quân Tống Nguyên xem đến hoa cả mắt, hò hét ầm ầm trợ uy cho
người phe mình.
Đấu được hai ba chục hiệp, sào trúc của Vân thù
vừa dài vừa lớn, thạch đài lại nhỏ hẹp, thi triển không tiện; hoa thương của Lương Tiêu linh động, chiêu số chiếm được thượng phong, nhưng hắn
nội thương vừa khỏi, kình lực bị giảm đi nhiều, nhất thời hai người cứ
giằng co không phân cao thấp.
Vân Thù sau khi chiếm được thạch
đài, Cận Phi thay y chỉ huy quân đội, nhưng “Thủy Cầm Ngư Long trận” chỉ có Vân Thù hiểu rõ biến hóa. May mà đã diễn luyện thỏa đáng, Cận Phi cứ theo vậy mà làm, miễn cưỡng có thể ứng phó được, nhưng bị Nguyên quân
mấy lần thuận lưu đánh thốc xuống, trận cước đã hơi rối loạn, Phương Lan vội vàng nhảy lên thuyền nhẹ xông đến thạch đài, từ xa kêu lớn: “Thù
nhi mau trở lại, sư huynh ngươi ứng phó không nổi rồi.”
Vân Thù
nghe vậy thì kinh hãi, đâm nhanh ra mấy sào bức lùi Lương Tiêu rồi đột
nhiên nắm chặt lấy sào trúc nhảy vọt lên, chống mạnh cành trúc xuống
đất, cành trúc cong lại, vù một tiếng, Vân Thù mượn lực cành trúc bay ra xa mười trượng rơi xuống một chiếc thuyền. Lương Tiêu không có loại
dụng cụ này, chẳng thể mượn lực, chỉ đành trừng mắt nhìn Vân Thù lên
thuyền tiến vào trong trận của Tống quân, trong đầu chợt lóe lên ý tưởng dùng pháo nỗ (2) đối phó, nào ngờ Vân Thù đã sớm dùng nội kình kích nát tất cả tay cầm của pháo nỗ rồi, nhất thời khó mà sửa chữa.
Vân
Thù trở về bên quân mình lập tức nổi trống biến trận. Đội thuyền phía
trước của Tống quân tách làm hai nhánh, biến thành “Song Đầu Ngao trận”
vượt qua thạch đài giữa sông tiến lên phía trên. Lương Tiêu mấy lần muốn nhảy lên thuyền của Tống quân, nhưng Phương Lan đã có phòng bị, lệnh
cho thuộc hạ bắn tên ngăn cản. Lương Tiêu mấy lần xung sát nhưng đều khó mà đến gần, lại thấy nội phủ ngầm đau đớn, trong miệng mằn mặn, tự biết nội thương phát tác, chỉ đành trở lại sau đống đạn đá, thở gấp từng
hồi.
Tiếng trống của Tống quân như sấm động vang lên, vượt qua
thạch đài lưỡng quân hợp nhất biến thành “Tê Tượng trận” phía trước sắc
nhọn, hai cánh chắc chắn. Biến hóa tinh vi ở chỗ giống như bạch tê vượt
sông, không hề lưu lại dấu tích, đó có thể nói là biến hóa lăng lệ nhất
trong “Thủy Cầm Ngư Long trận”. Nguyên quân bị trận này xông đến, lập
tức rối loạn, Tống quân tiến lên phía trên được hai dặm đường thủy thì
gặp thủy quân Tương Phàn, hai cánh quân hợp nhất, thanh thế tăng lên bội phần.
Lữ Đức trên thành thấy vậy thì vô cùng mừng rỡ, vội quay
lại phát hiệu lệnh thừa thế tấn công, muốn một đòn tiêu diệt sạch cánh
quân Nguyên này, phá vỡ triệt để vòng vây ở phía nam. Sau khoảnh khắc,
chỉ nghe hồi trống nổi lên, Tống quân ‘phản khách vi chủ’ (3), từ phía
trên thượng lưu tiến xuống, Nguyên quân không ngăn cản nổi lập tức chạy
xuống hạ lưu.
A Thuật thấy tình thế nguy cấp, vội lệnh cho Lưu,
Hoằng ở hai bên bờ nổ pháo oanh kích, nhưng hiệu quả rất nhỏ, chỉ đành
lập tức cho người về báo với Bá Nhan. Bá Nhan được tin bèn cùng với A Lí Hải Nha dẫn hai cánh bộ quân tấn công Tương Dương, lại truyền lênh cho
Sử Thiên Trạch dẫn thủy quân trên thượng du thuận lưu công kích quân
Tống, muốn kềm chân Tương Phàn thủy sư, bức họ trở lại.
Lữ Đức
thấy vậy bèn lệnh cho quân Tống thủ vững thành trì và hướng dọc theo
tường thành nổ pháo, hai mặt cùng oanh kích thủy quân của Sử Thiên
Trạch, cùng với binh sĩ ở trên cầu nổi nối giửa hai thành dùng pháo nỗ
công địch. Trong trận chiến này, Tống quân dùng đến thứ vũ khí Nguyên
quân nghe đến là mất vía, đó là “Phi Hỏa Thương” và “Chấn Thiên Lôi”.
“Phi Hỏa Thương” là dùng mồi dẫn lửa bên trong hỏa thương, có thể bắn xa hơn mười trượng, xuyên qua khôi giáp làm bằng tinh thiết; “Chấn Thiên
Lôi” là dùng thùng sắt chứa đầy hỏa dược, chỉ cần đốt lửa, trong vòng
nửa mẫu (4) người và súc vật sẽ đều bị nát vụn. Chỉ nghe thấy tiếng nổ
vang lên ầm ầm trên sông, mấy chục vạn thủy lục đại quân Tống Nguyên đều không màng sống chết, chém giết đến trời long đất lở trên đất Phàn
Dương.
Thủy quân của Sử Thiên Thạch bị Tống quân ba mặt ngăn cản, chiến hạm bị Chấn Thiên Lôi ném trúng là lập tức vỡ vụn, hắn bất đắc dĩ phải kéo quân tránh lên thượng du. Thủy quân Tương Phàn không còn nỗi
lo phía sau bèn thuận lưu tấn đánh xuống, bộ thuộc của Trương Hoằng Phạm binh bại như núi đổ, bốn phía đều trở nên tán loạn.
Mắt thấy
Nguyên quân bại cục đã định, chợt thấy đài pháo giữa sông phát ra tiếng
động, một viên đạn đá lớn bay vào thủy trận của quân Tống, bắn chìm luôn một chiến hạm. Nguyên quân phấn chấn tinh thần, quay đầu nhìn lại, thấy Lương Tiêu đã hồi phục khí lực, đang đổi sang một máy bắn đá khác phát
ra một viên đạn đá lớn nữa, trúng luôn vào một chiếc thuyền của Tống
quân.
Thì ra Lương Tiêu nhân lúc hai bên đại chiến, xem xét xem
mấy cỗ pháo nỗ bị tổn hại ra sao. Vân Thù tuy phá hủy tay cầm nhưng
những bộ phận khác lại không bị tổn hại. Lương Tiêu với cơ giới vô cùng
tâm đắc, lấy đao kiếm chẻ lấy mấy chiếc đinh, sửa chữa một đám pháo nỗ,
lắp thêm tên đạn vào nổ pháo. Trương Hoằng Phạm thấy vậy vội hạ lệnh cho mấy chục Nguyên quân lên thuyền tiến về thạch đài, trợ giúp Lương Tiêu.
Vân Thù thấy vậy lại dùng cách cũ muốn lên thạch đài. Lương Tiêu giả vờ
không biết để y đến gần sau đó phát động nỗ pháo bắn nát chiếc thuyền,
mấy người Vân Thù đều rơi xuống nước, Lương Tiêu lại hạ lệnh nổ pháo,
Vân Thù vội vàng lặn vào trong nước, nhưng vẫn bị một viên đạn đá đập
trúng lưng, lập tức miệng thổ máu tươi. Phương Lan vội vàng dẫn mấy
chiếc thuyền tới liều chết cứu y lên. Vân Thù thương thế không nhẹ, chỉ
đành quay vào trong trận, Lương Tiêu thấy y thoát chết trong gang tấc
thì luôn miệng kêu đáng tiếc.
Lúc này Trương Hoằng Phạm chỉnh đốn lại bại binh lao đến. Thủy quân Tống Nguyên đại chiến trên sông, chiến
đấu vô cùng kịch liệt. Lương Tiêu sửa chữa xong pháo nỗ, chỉ huy nổ
pháo, tức thời mười bảy cỗ pháo nỗ đồng thời phát ra, đại hiển thần uy,
chiến thuyền Tống quân vỡ nát vô số. Nguyên quân phấn chấn tinh thần,
mỗi lần trên thạch đài nỏ pháo là quân sĩ lại theo đó hô lên, tăng thêm
thanh thế.
Lữ Đức thấy tình thế bất diệu liền vội lệnh cho thủy
quân trở lại thượng du. Trương Hoằng Phạm truy kích đến dưới chân hai
thành Tương Phàn mới từ từ thu binh.
Trường ác chiến này, đánh từ sáng cho tới khi mặt trời lặn về phía tây, song phương thủy công lục
chiến, đều là có thắng có bại, mấy lần xoay chuyển, Nguyên quân tổn thất trầm trọng, từ khi vây khốn Tương Phàn đến giờ chưa từng xảy ra chuyện
như vậy. Khâm Sát kị binh của Hợp Xi Man và thủy quân người Hán của
Trương Hoằng Phạm được xưng là Nguyên quân thủy lục song hùng hôm nay
lại bị thảm bại, ba Thiên phu trưởng của Khâm Sát Quân đông thời chết
dưới chân thành Tương Dương. Người Tống vốn cũng tổn thất không nhẹ,
nhưng Vân Thù đã phá tan được xích sắt ngăn sông, dùng nghìn chiếc
thuyền phá tan vòng vây, chiếm được vô số lương thảo và dụng cụ công thủ đem vào Phàn Dương, có thể nói là được mất đủ bù cho nhau, nếu xem xét
kỹ có thể nói là Nguyên quân đã bại.
Từ khi Bá Nhan giữ soái ấn
của Nguyên quân tới giờ, Tống quân ở Tương Phàn liên tục bị thua, sĩ khí xuống thấp thê thảm, đến hôm nay mới được xả ra nỗi bực tức bấy lâu.
Mắt thấy Trương Hoằng Phạm phải lùi lại, Tương Dương thành vô cùng vui
vẻ. Lữ Đức giáp không kịp cởi, ra ngoài thành nghênh tiếp, nhìn thấy Cận Phi liền cười lớn: “Tốt lắm, ngàn mong vạn mong, cuối cùng cũng chờ
được các vị tới rồi! Ngươi là bộ hạ của ai mà lợi hại như vậy!” Cận Phi
chắp tay làm lễ nói: “Chúng tôi không phải là quan quân, chỉ là nghĩa
quân do Lí Đình Chi đại nhân triệu tập.” Lữ Đức vô cùng kinh ngạc, nhíu
mày nói: “Thảo nào quân đội của các ngươi còn có thuyền đánh cá. Ài!
Phạm Văn Hổ, Hạ Quý quân tinh nhuệ mười vạn, chiến hạm vài nghìn, mấy
lần tiến đến cũng chẳng được tích sự gì. Lần trước đến, vừa đánh thấy
bất lợi thì đã chạy trốn mất hút rồi, làm binh mã của ta trước sau thụ
địch, bị A Thuật đánh cho manh giáp cũng không còn, ‘tang sư nhục quốc’
(5) cũng chỉ đến thế này thôi!” Ông ta thở dài một hơi rồi nói: “Hậu
Phương tình thế ra sao?” Cận Phi còn chưa kịp hồi đáp thì Vân Thù đột
nhiên nói: “Tình thế hậu phương, có thể miêu tả bằng bài từ này!” Lữ Đức ngạc nhiên nói: “Bài từ nào? Nói ra nghe xem!”
Vân Thù hừ lạnh một tiếng rồi cao giọng ngâm: “Tương Phàn tứ tái lộng
can qua, bất kiến ngư ca, bất kiến tiều ca, thí vấn như kim sự như hà?
Kim dã tiêu ma, cốc dã tiêu ma. Thác Chi bất dụng vũ bà sa, xú dã năng
đa, ác dã năng đa! Chu môn nhật nhật mãi chu nga, quân sự như hà? Dân sự như hà?”
Dịch nghĩa:
Tương Phàn tứ phía động can qua,
chẳng thấy tiếng ngư dân hát, tiếng tiều phu ca. Thử hỏi bây giờ chuyện
ra sao? Vàng cũng thành không, cốc cũng thành không. Thác Chi không cần
nhảy múa, xấu cũng có thể có nhiều, ác cũng có thể có nhiều! Nhà giàu
ngày ngày mua son phấn, quân sự ra sao? Dân sự ra sao?” (Thác Chi vũ:
một điệu múa cổ truyền có nguồn gốc từ Tây Vực, lưu truyền rất rộng rãi ở đời Đường)
Dịch thơ:
Bài này là của bạn Hậu:
Tương Phàn bốn phía động can qua
Chẳng thấy ngư tiều cất tiếng ca
Người xưa chẳng biết còn hay mất?
Bạc vàng thức uống chẳng ngó qua!
Thác Chi người hỡi đành để ngỏ
Xấu ác người đời cứ phô ra
Lũ giàu sang ngập chìm nhung lụa
Chính sự, dân đen chẳng ngó màng
Còn đây là của I&M:
Tương Phàn ơi, bốn phía can qua
Chẳng thấy tiều, ngư tiếng hát ca
Muốn hỏi thế gian sao thảm thiết
Vàng không, thóc gạo cũng lùi xa
Thác Chi điệu ấy còn đâu múa
Gian, xấu nơi nơi lắm ác tà
Giàu có đắm chìm son phấn lụa
Quân, dân thế sự biết ra sao?
Bài từ này nói rõ ràng sự thờ ơ không quan tâm tới sự an nguy trên tiền
tuyến của giới quyền quý hậu phương, vẫn sống mơ mơ màng màng, tham
hoang vô sỉ. Sau khi được Vân Thù ngâm lên, mọi người trên cầu nổi đều
có thể nghe thấy, từ Lữ Đức trở xuống, tướng sĩ Tống quân đều lộ ra thần tình tuyệt vọng. Cận Phi thấy tình thế không hay bèn tức giận nói: “Vân Thù, bài từ sai lệch này chẳng qua là những lời tào lao của văn nhân
Cùng Toan, đâu có chính xác, sao có thể nói ra làm loạn lòng quân?” Vân
Thù hừ lạnh một tiếng quay đầu đi.
Lữ Đức lắc đầu cảm thán:
“Thôi, những chuyện này vốn không hỏi cũng biết, các hạ đừng tức giận!”
Nói đoạn nhìn về phía quần hào lên tiếng: “Các vị dùng sức của mấy nghìn người lập nên công lao của mấy chục vạn đại quân, đúng là đáng để kinh
ngạc, đáng để kính phục, các phụ lão ở Tương Phàn cảm kích vô cùng. Các
vị hào kiệt, xin nhận của Lữ Đức một lạy.” Nói xong bèn như muốn quỳ
xuống. Cận Phi cả kinh, vội vàng tiến lên đỡ lấy: “Đại nhân đừng như
vậy, ngài tử thủ Tương Phàn, dựa vào hai thành trì nhỏ bé này chống lại
hai chục vạn quân Nguyên mới đáng khiến người ta kính phục vô cùng.“ Lữ
Đức cũng chỉ là làm bộ vậy, đã liệu trước đối phương nhất định sẽ đến
đỡ. Lúc này bèn đứng dậy luôn, cười lên ha hả, truyền lệnh mở đại yến
mừng công. Lần này nghĩa quân mang theo rất nhiều giáp trụ và lương
thảo, bách tính trong thành vô cùng mừng rỡ, trong thành đốt đèn hoa,
vui mừng một trận.
Lúc này, trong Khâm Sát đại doanh lại vang lên tiếng khóc rầm trời. Nguyên quân dùng thi thể Tống quân trao đổi lấy
thi thể của mấy người bọn Hợp Xi Nhan. Hơn hai nghìn Khâm Sát quân ôm
lấy những thi thể bừa bộn của đồng bào, khóc rống lên như những đứa trẻ. Lương Tiêu trong lòng cảm thấy thê lương không nỡ nhìn xuống, ra khỏi
Khâm Sát doanh. Nghĩ đến A Tuyết, đang muốn tới doanh trại của A Lý Hải
Nha thăm nom, đột nhiên thân binh của A Thuật chạy tới truyền hắn vào
soái trướng.
Lương Tiêu lên ngựa đi đến trước đại soái trướng
trung quân, thấy có hơn mười lạt ma đang ngồi giữa khoảng đất trống
trước trướng, tay cầm ống tròn, miệng niệm kinh văn, mấy chục ngọn đèn
đang đốt bằng một loại dầu kì lạ phát ra những hương vị đặc biệt. Lương
Tiêu trước kia cũng thấy qua những nghi thức này, biết bọn họ đang siêu
độ vong linh, lòng không ngừng suy nghĩ: “Người sau khi chết còn có vong linh không? Nếu như cha, Tam Cẩu trên trời linh thiêng, liệu có nghe
được lời ta nói, nhìn thấy việc ta làm không?” Nhưng nghĩ tới chuyện quỷ thần chỉ là vô căn cứ, buồn bã thở dài một hơi, tiến vào trong trướng.
Soái trướng rất lớn, có hai ngon đèn mỡ trâu đang thắp nhưng vẫn mờ mịt. Mọi người đều ngồi xếp bằng bên trong, liếc mắt nhìn qua, thấy đều là trọng thần đại tướng. Chúng nhân nhìn thấy Lương Tiêu bước vào thì đều liếc
xéo. Lương Tiêu hành lễ xong, Bá Nhan gật đầu nói: “Ngươi ngồi phía sau
Lan Á hỏa giả (1).” Lương Tiêu đưa mắt nhìn đi, thấy Lan Á ngồi ở sau
cùng bên trái, ngồi bên cạnh nàng là một lão giả người hồ mắt xanh, râu
đen, đầu quấn khăn trắng, trường bào trắng xóa. Lan Á thấy hắn đến, thần sắc lãnh đạm. Lương Tiêu cũng không nói gì, xếp bằng ngồi xuống.
Chúng nhân lặng yên không nói, không khí trong trướng vô cùng trầm trọng. Qua một hồi, Bá Nhan mới từ từ cất tiếng: “Hiện nay xích sắt đã đứt, viện
quân cũng đã vào thành, lông cánh của Phàn Dương thành cũng cứng, các
ngươi không có gì để nói sao?” A Thuật liền nói: “Đều là do tôi chỉ huy
sai lầm, xin nguyên soái trách tội.” Bá Nhan hừ lạnh một tiếng: “Trương
Hoằng Phạm thua còn có thể chấp nhận! Đối phương có trận pháp đặc biệt,
ngươi chưa nhìn qua, chẳng thể phá giải. Nhưng Khâm Sát quân thì sao?
Những người râu rậm mắt xanh đó đã bị ngươi chiều chuộng thành ra sao
rồi? Trong cổ họng chúng đều bị mắc xương trâu, không cúi xuống được nữa rồi? Hợp Xi Man đó, đường đường thiên phu trưởng, không ngờ lại bị mỡ
trâu che mắt, không chịu nghĩ ngợi gì đã xông vào Tương Dương. Nếu Tương Dương dễ đánh như vậy chúng ta cần gì phải phí nhiều công phu để vây
khốn thế? Hắn cho rằng hắn là ai, là Thành Cát Tư Hãn sao?”
A
Thuật mồ hôi tuôn ra như mưa, chẳng dám nói gì. Sử Thiên Trạch đứng dậy
mở lời: “Đại nguyên soái, để tôi nói mấy câu. Khâm Sát quân tuy ngang
ngược kiêu ngạo, nhưng cũng có những chỗ lợi của nó. Đối thủ mỗi lần gặp phải khí thế đó, tự nhiên ba quân bị mất khí thế, không đánh mà tan; A
Thuật đại nhân dung túng bọn họ là không muốn làm bọn họ mất đi cái khí
thế dũng mãnh đó mà thôi.” Bá Nhan suy nghĩ một chút rồi gật đầu nói:
“Ngươi nói cũng có đạo lý! A Thuật, ngươi đứng dậy đi!” A Thuật lúc này
mới ngồi về nguyên vị. Bá Nhan nói: “Binh pháp của người Hán nói: ’Kiêu
binh tất bại’, tuy không phải hoàn toàn chính xác nhưng cũng rất có đạo
lí. Binh sĩ có thể kiêu ngạo, nhưng tướng lĩnh thì phải bình tĩnh. Binh
sĩ xung phong sát địch tất phải có khí thế mạnh mẽ, nhưng tướng quân lại cấn phải tỉ mỉ xem xét, trong loạn cục phải tìm ra cơ hội chiến thắng
kẻ địch.” A Thuật gật đầu công nhận. Bá Nhan lại hỏi: “Hiện nay Khâm
sách quân còn lại bao nhiêu?”
A Thuật nói: “Theo như bách phu
trưởng Lương Tiêu kiểm kê, còn hai nghìn hai trăm ba mươi sáu người.” Bá Nhan nói: “Hiện nay đại quân tụ tập, binh mã bộ hạ của ngươi càng ngày
càng đông, cũng càng ngày càng không chuyên tâm rồi. Thường có lời rằng, một người khi giết trâu thì không thể đi xe lông cừu được! Thất bại
ngày hôm nay chính là như vậy, nếu ngươi tự mình dẫn quân thì sao có thể thua như vậy? Ừm, Ngươi có nhân tuyển thích hợp chỉ huy đội quân râu
rậm chưa?” A Thuật lặng yên không nói. Bá Nhan lại hướng về các tướng
hỏi: “Ai có thể thống lĩnh bọn họ?” Nhất thời trong trướng không có
tiếng động nào, Sử Thiên Trạch khẽ ho một tiếng rồi nói: “Khâm Sách quân cậy công tự phụ, bài trừ người ngoài. Đừng nói tướng lĩnh Sắc Mục, cho
dù là tướng lĩnh Mông Cổ bình thường thường cũng không thể làm cho bọn
họ phục tùng. Trừ phi là những bậc anh kiệt Mông Cổ công lao cái thế như đại nguyên soái hay A Thuật đại nhân, mới có thể chỉ huy bọn họ.” A
Thuật tiếp lời nói: “Chắc gì đã là thế, đám kỵ binh này tuy kiêu ngạo
nhưng lại khâm phục cường giả, rất thích nói đến nghĩa khí. Nếu có người có thể dùng bản sự chế phục bọn họ, lại có ân cứu mệnh với bọn họ, chế
ngự bọn họ cũng dễ như trở bàn tay thôi.”
Chúng nhân nghe đến
sững sờ, nhao nhao nhìn vào Lương Tiêu. A Thuật đứng dậy, cao giọng nói: “Tôi đề cử bách phu trưởng Lương Tiêu đảm nhận thống soái Khâm Sách
quân.” Lương Tiêu nghe xong thì cả kinh, trong trướng lại càng ồn ào,
đại tướng quân A Lạt Hãn Cao cất tiếng: “Sao có thể như vậy? Y vừa tới
được một tháng.” Lưu Chỉnh cũng lên tiếng: “Kinh nghiệm của y quá ít,
hôm nay tuy lập được đại công nhưng để làm thống soái một quân thì vẫn
còn chưa đủ.” Sử Thiên Trạch cũng trầm giọng nói: “Không sai, y tuổi còn quá nhỏ, khó đảm đương trọng trách.” Nhất thời trừ A Thuật và A Lý Hải
Nha ra, gần như mọi người đều nói là không được. Nguyên do rất đơn giản, các tướng thân kinh bách chiến, công lao vô số mới có được địa vị ngày
hôm nay. Lương Tiêu chẳng qua chỉ vừa mới tới, luận về tư cách có lau
giầy cho bọn họ cũng không đáng, làm sao có thể làm thống soái của đạo
kị binh tinh nhuệ nhất trong Nguyên quân được? Như vậy mà nói há chẳng
phải là cá chép vượt long môn, cùng với những trọng thần danh tướng ở
đây ngồi ngang hàng hay sao. Tự nhiên ai cũng không thể cam tâm rồi.
A Thuật đợi các tướng lĩnh trong trướng yên ổn trở lại mới cười lạnh nói: “Vậy thì tốt thôi! Các vị đều nói không được. Ta hỏi các vị, ai có thể
dùng sáu người sáu ngựa xung phá trùng vây của ba nghìn Khâm Sách quân?
Ai có thể chấn chỉnh lại Khâm Sách quân trên bờ vực thất bại đây? Ai có
thể nhận biết thủy trận mà hôm nay Tống quân sử dụng đây?” Y nói đến
đây, liếc mắt nhìn Lan Á rồi khẽ cười nói: “Ai có thể đứng ngoài trăm
bước bắn đứt một sợi kim tuyến trên hạt minh châu đây?” Lan Á lườm Lương Tiêu một cái, trên gò má trắng như tuyết lộ ra thần sắc giận giữ.
Trong trướng không một tiếng động, mọi người đều nhìn nhau. A Thuật lại cao
giọng nói: “Nếu có người tự nhận là mình có thể làm được hai điều trong
đó ta sẽ thu lại những lời vừa rồi.” Trong trướng nội vẫn không hề có
một tiếng động. A Thuật ánh mắt sáng ngời, lại hướng về chúng nhân nói:
“Người Hán có một câu rằng: Người làm đại sự thì không câu nệ tiểu tiết. Chúng ta muốn đánh bại quân Tống thì không nên câu nệ tiểu tiết. Công
lao đều là ngày trước lập nên, các vị thân kinh bách chiến, hôm nay
không phải cũng thất bại sao? Khi ta đảm nhận chức vạn phu trưởng, tuổi
tác có hơn kém y bao nhiêu, công lao của ta bây giờ ít hơn các vị sao?”
Chúng tướng nhất thời im lặng, hàng mi dầy của Bá Nhan giãn ra, y nói: “A
Thuật nói rất đúng! Ta tán thành ý kiến này!” Ngay sau đó liền cao giọng nói: “Lương Tiêu nghe lệnh!” Lương tiêu lập tức đứng dậy. Bá Nhan nói:
“Ta lệnh cho ngươi đảm nhận chức Vạn phu trưởng của Khâm Sách quân, nếu
thống lĩnh tốt, chiến công đủ lớn ta sẽ khởi tấu với thánh thượng, chính thức lệnh cho ngươi làm thống soái của Khâm Sách quân.” Lương Tiêu tính tình bướng bỉnh ngoan cố, mọi người đồng loạt phản đối càng làm trỗi
dậy ngạo khí của hắn, cho nên lập tức chắp tay vui vẻ nhận lời.
Phân phó Lương Tiêu xong, Bá Nhan lại ngồi xuống nói: “Hiện nay Tống quân
lại thêm lực lượng, quân ta không thể đánh lâu, chư vị có cách nào phá
thành không?” A Lý Hải Nha nói: “Phải đợi chế tạo xong ‘Hồi Hồi pháo’
mới có thể tiếp tục công thành.” Bá Nhan ánh mắt thay đổi nhìn sang lão
giả mắt xanh nói: “Trát Mã Lỗ Đinh (2), chế tạo đại pháo cần mấy ngày
nữa.” Trát Mã Lỗ Đinh nói: “Cái này tôi cũng không rõ ràng lắm, thầy của tôi, Hiền minh giả chi vương, hỏa giả Nạp Tốc Lạp Đinh (3) sau khi vẽ
ra tấm sơ đồ này thì chưa từng chế tạo qua, nhưng theo lời người nói cỗ
máy đánh thành đáng sợ nhất này bắn được xa nhất, công phá mạnh nhất,
cho dù tường thành kiên cố thế nào cũng có thể phá hủy.”
Chú thích:
(1): Bắt nguồn từ tiếng Ả Rập và Ba Tư, là cách xưng hô tôn kính với những nhà giáo học đời sau của giáo tổ Islam giáo.
(2): Một nhân vật có thật, người Tây Vực, đến Trung Quốc vào cuối đời Tống đầu đời Nguyên.
(3): Nasraddin, một nhà hiền triết, số học gia, chính trị gia Trung Á.
Bá Nhan vui vẻ hỏi: “Ngài có nắm chắc mười phần không?” Trát Mã Lỗ Đinh
lắc đầu đáp: “Loại vũ khí này chưa từng xuất hiện trên mặt đất, uy lực
của nó chỉ là theo lời thầy ta miêu tả.” Bá Nhan nắm chặt tay, nhíu mày
không nói.
Lương Tiêu khẽ cười lạnh, đột nhiên đứng dậy cao giọng nói: “Ta không tin trên thế gian có loại pháo bắn đá lợi hại như vậy,
máy móc nào cũng có cách phá giải. Tạo ra những vũ khí từ trước đến giờ
chưa từng nhìn thấy cũng chẳng bằng được những mưu kế tuyệt diệu.” Hai
hàng lông mày của Bá Nhan giãn ra, y trầm giọng nói: “Ngươi nói!“ Lương
Tiêu tiếp tục: “Hôm nay ta ở trên thạch đài quan sát hai thành Tương
Phàn, phát giác khi chúng ta tấn công một thành thì cả hai thành cùng
tác chiến.” Sử Thiên Trạch ngắt lời hắn: “Ngươi muốn nói đến chiếc cầu
nổi giữa hai thành sao?”
Lương Tiêu nói: “Không sai, Tống quân ở
hai thành thông qua cầu nổi mà cứu viện lẫn nhau. Có câu: Giết được một
mãnh hổ nhưng đánh không lại hai trâu bệnh.” Bá Nhan gật đầu nói: “Ngươi chỉ vừa mới tới đã có thể nhìn thấy mấu chốt để công thành đã là không
dễ dàng rồi. Đạo lý này mọi người đều đã hiểu, cũng đã từng phái người
tấn công vài lần, nhưng Tống quân phòng thủ nghiêm mật, không thể thành
công.” Lương Tiêu nói: “Thủy quân không thể đến gần chẳng lẽ không thể
phái người lặn tới tập kích sao?” Sử Thiên Trạch nhíu mày nói: “Nói thì
dễ, nhưng có bao nhiêu người có thể bơi xa như vậy mà không bị Tống quân phát giác?” A Lý Hải Nha thở ra một hơi rồi nói: “Nói như vậy ta lại
nghĩ ra một cách. Đại nguyên soái, ngài còn nhớ năm đó khi thánh thượng
chinh thảo Đại Lí, vượt qua sông Lan Thương như thế nào không?” Bá Nhan
cười nói: “Ngươi nói là dùng bao da vượt sông phải không? Ta hiểu rồi!
Ta và Lưu Chỉnh sẽ thử xem.” Lương Tiêu nghe thấy lại có chút không hiểu ra sao.
Bá Nhan lại dặn dò những việc chỉnh đốn lại quân đội rồi mới lệnh cho mọi người lui đi. Lương Tiêu cưỡi ngựa về doanh trại, vừa
ra khỏi cửa thì nghe có người nói: “Lương Tiêu đứng lại!” Lương Tiêu
quay đầu nhìn lại, thấy Lan Á tức giận giục ngựa lao tới. Lương Tiêu
nhíu mày. Lan Á tới trước mặt hắn, thần sắc tức giận quát lớn: “Ngươi
bằng cái gì mà xem thường người khác vậy?” Lương Tiêu ngạc nhiên nói:
“Ta làm gì mà xem thường người khác đây?” Lan Á tức giận nói: “Ngươi coi thường ‘Hồi Hồi pháo’ mà thầy của ta, Nạp Tốc Lạp Đinh thiết kế.”
Lương Tiêu nhẹ nhàng nói: “Ta chỉ nói thẳng một chút thôi, nhưng nghĩ lại
cũng không có gì quá lắm.” Lan Á tức giận trợn mắt, mặt đỏ hồng lên
quát: “Tốt lắm, ngươi coi thường sư phụ ta, ta muốn cùng ngươi tỷ thí!”
Lương Tiêu ha ha cười lớn nói: “Đấu cái gì, thi cưỡi ngựa bắn cung hay
sao?” Lan Á khẽ hừ một tiếng nói: ”Cái đó ngươi lợi hại, ta không bằng
ngươi! Nhưng ta hỏi ngươi, ngươi có biết hình học Ơclit không? Biết
chiêm tinh học không? Biết cơ quan học không? Biết thủy lợi học không?
Biết dùng sa bàn để suy diễn ảo phương không?”
Lương Tiêu nghe
xong thì hơi nhíu mày, trừ thủy lợi học và cơ quan học ra những cái khác hắn đều đã nghe qua, ngập ngừng một chút hắn mới hỏi: “Cái cô nói là gì thế?” Lan Á cười lạnh nói: “Ngươi không biết phải không? Đó đều là học
vấn mà sư phụ ta tinh thông. Với sự vô tri của ngươi căn bản không biết
đến sự vĩ đại của người. Nạp Tốc Lạp Đinh là một trí tuệ gia siêu tuyệt
được truyền tụng khắp trên thế giới, còn ngươi, bất quá chỉ là một nô
tài của hoàng đế Nguyên triều thôi.
Nạp Tốc Lạp Đinh quả đúng là
nhà hiền triết Y Tư Lan (Islam) vĩ đại nhất đương đại, Lan Á đối với ông tôn trọng vô cùng, quyết không chịu để người khác khinh thường. Nàng
tức giận đến nói không tiếc lời, tuôn ra những lời đầy tính vũ nhục.
Lương Tiêu chỉ cảm thấy một luồng máu nóng xông lên mặt, tay trái nắm
chặt lại. Lan Á thấy hắn mặt đỏ như máu, mục quang lăng lệ, trong lòng
cảm thấy sợ hãi, nhưng chuyện liên quan đến sự tôn kính của sư phụ, nàng quyết không thể lùi bước, bèn nói lớn: “Ngươi trừ việc đánh giết ra còn biết làm cái gì khác không? Được lắm, ngươi lấy cung tên bắn ta đi, ta
không sợ ngươi!”
Lương Tiêu nhìn nàng, nghĩ tới chuyện ban ngày
liền cảm thấy áy náy, khẽ thả lỏng tay ra: “ Nghe nói cô là học giả Hồi
Hồi Tinh?“ Lan Á nói: “Vậy thì sao?” Lương Tiêu nói: “Nghe nói cô tinh
thông số thuật, có thể thiết kế cơ quan xảo diệu, biết được sự vận hành
của các vì sao, sự thay đổi dòng chảy của sông, tạo ra những phòng ốc
không bị mục nát, phải không?” Lan Á cảm thấy kì quái, nhưng vẫn gật đầu nói: “Ngươi cũng biết?” Lương Tiêu cười lạnh cao giọng nói: “Được, ta
tiếp nhận lời khiêu chiến của cô, học trò của Nạp Tốc Lạp Đinh, ta cùng
cô thi thiên văn, thi cơ giới, thi thủy lợi! Phàm là những gì thuộc về
số học sẽ do cô lựa chọn.” Lan Á kinh ngạc, khẽ bĩu môi lộ ra thần sắc
khinh miệt, cười lạnh nói: “Tự chuốc lấy nhục nhã.”
Lương Tiêu
cười lạnh: “Tốt, cô đi theo ta!” Dứt lời liền giục ngựa bước đi. Lan Á
tuy thấy không đúng lắm, nhưng nghĩ tự mình gây hấn trước sao lại có thể rút lui, lập tức thúc ngựa đuổi theo. Theo Lương Tiêu tiến đến một đại
trướng, Lương Tiêu tiến vào bên trong, Lan Á chần chừ một chút rồi cũng
tiến vào theo, vừa vén tấm bạt lên thì nghe thấy một nữ tử dùng tiếng
Hán nói: “Ca ca! Huynh trở lại rồi!” Lan Á trời sinh thông minh, thông
hiểu rất nhiều loại ngôn ngữ, nhìn theo hướng tiếng nói thì thấy một nữ
hài tử trên mặt hằn đầy vết roi đang từ trên giường ngồi dậy, Lương Tiêu đỡ lấy thiếu nữ đó, nắm tay nàng ta nói: “A Tuyết, hai ngày nay không
tới thăm muội, thật là vô cùng nhớ nhung!” Lời còn chưa dứt, thiếu nữ
tên A Tuyết kia đã lao vào lòng hắn bật khóc nức nở. Lương Tiêu bối rối
tay chân: “Sao rồi? Sao rồi?“ A Tuyết nức nở nói: “Ban ngày nghe thấy
tiếng chém giết muội lo lắng muốn chết.” Nàng khóc đến thương tâm, Lương Tiêu cũng không nhịn được, khóe mắt ươn ướt: “Nha đầu ngốc, đừng khóc
nữa!” Nheo mắt lại nhìn, thấy Lan Á đang đứng ngơ ngẩn một bên, trong
lòng kinh ngạc: “Ta chỉ chú ý đến A Tuyết mà quên mất còn nàng ta ở bên
cạnh.” A Tuyết cũng ngẩng đầu lên lau nước mắt, ngạc nhiên nói: “Ca ca,
nàng ta là ai vậy?”
Lương Tiêu nói: “Nàng ta tới cùng huynh tỉ
thí toán số.” A Tuyết lộ xuất thần sắc ngạc nhiên, nhìn trân trân vào
Lan Á nói: “Cô muốn cùng ca ca ta tỉ thí toán thuật sao? Ca ca ta là
người thông minh đệ nhất thiên hạ, không có người giỏi hơn đâu!” Lan Á
không phục cười lạnh nói: “Lương Tiêu, người trong nhà ngươi đều biết
khoác lác như thế này sao?” Lương Tiêu không nhịn nổi tức giận nói: “Cô
có hiểu toán pháp của người Hán không?” Lan Á cười lạnh nói: “Cũng hơi
biết một hai.” Lương Tiểu cười nói: “Giỏi lắm, đến một hai cũng biết.”
Hắn rút bảo kiếm ra, khắc lên mặt đất ba đề toán. Đề thứ nhất “Thất diệu châu liên toán”, đề cập đến thiên văn; đề thứ hai “Đại Vũ trị thủy đồ”, đề cập đến thủy lợi; đề thứ ba “Lỗ Ban thụ hạ vấn”, nói đến chuyện Lỗ
Ban đứng trước một cái cây lớn dài sáu trượng mà hỏi, chặt cây đại thụ
này như thế nào mới có thể tạo thành được chiếc thang mây công thành lớn nhất, đề này đề cập đến kích thước của cơ quan. (Tác giả chú: Tương
đương với vấn đề cực hạn của số học hiện nay.)
Ba đề này tinh vi
ảo diệu, vô cùng phức tạp. Lan Á xem qua mấy lần, thần sắc đại biến,
ngồi xổm xuống, chọn lấy một viên đá, vẽ ra xung quanh trên mặt đất,
viết xuống mấy kí hiệu kì lạ “ 1,2.........57”, vừa nghĩ vừa tính. Lương Tiêu biết nàng là học giả Hồi Hồi Tinh, trình độ số thuật chắc chắn bất phàm, nên có ý làm khó, ba đề toán này khó khăn vô cùng. Lan Á tính đề
thứ nhất được mấy bước thì đã bị lâm vào khó khăn.
Chú thích:
(1): Loại thương có tua ở phần mũi, hình bên dưới!
(2): Máy bắn đá
(3): Đổi khách thành chủ
(4): Một mẫu bằng 666,67 mét vuông
(5): Quân đội bị tổn thất, quốc gia bị sỉ nhục