Con Chim Khát Tổ

Chương 3

Năm phút sau có tiếng gõ cửa, Strike vừa suýt ngủ gục liền bật dậy ngồi thẳng trên ghế.

“Gì đó cô?”

Hắn vẫn còn mơ màng nghĩ tới Charlotte; nên thấy ngạc nhiên khi một cô gái khác bước vào phòng. Cô đã cởi áo khoác ngoài ra, để lộ một chiếc áo len màu kem ôm dáng vừa vặn, hơi bị gợi cảm. Strike vuốt tóc.

“Ừm?”

“Có thân chủ đang đợi anh. Tôi mời ông ta vào được không?”

“Có cái gì kia?”

“Thân chủ, anh Strike.”

Strike nhìn cô trong vài giây, vẫn chưa xử lý kịp thông tin vừa rồi.

“Ừ, OK… à mà không, phiền cô cho tôi hai phút rồi hẵng gọi ông ấy vào nhé Sandra.”

Cô gái bỏ ra không nói thêm tiếng nào.

Strike thoáng tự hỏi sao mình lại gọi cô ta là Sandra rồi đứng bật dậy sửa soạn, cố sao để trông không giống với một gã đã mặc nguyên đồ đi làm mà ngủ tối qua. Hắn lục trong túi thể thao, chộp lấy một ống kem đánh răng và vặn thẳng vào miệng; rồi hắn nhận ra cà vạt vẫn còn ướt nhẹp và áo sơ mi vẫn còn dính mấy vệt máu li ti, vậy là hắn cởi phăng hết, nút bắn cả lên tường và tủ đựng hồ sơ. Hắn lôi từ trong túi ra một cái áo sơ mi sạch nhưng nhăn nhúm rồi mặc vào, mấy ngón tay thô ráp liên tục loay hoay.

Sau khi nhét cái túi ra phía sau tủ đựng hồ sơ, hắn nhanh chóng ngồi thẳng thớm lại và lia mắt quanh phòng xem còn rác rưởi gì không, mặc dù vẫn chưa tin được vị thân chủ mới tới này có thật không, và liệu khi xong việc, ông ta có chịu trả tiền công điều tra không. Sau mười tám tháng đau đầu vì tiền, Strike nhận ra rằng cả hai điều nói trên đều không hề đơn giản.

Cho tới giờ hắn vẫn còn phải chạy theo đòi nốt thù lao từ hai thân chủ trước đó; người thứ ba thì từ chối không trả một xu vì không vừa lòng với kết quả điều tra. Strike không thể nào nghĩ tới chuyện thuê luật sư đòi nợ, nhất là khi khoản nợ riêng của hắn vẫn đang phình ra còn giá thuê văn phòng thì lại đang ngấp nghé tăng, đe dọa cái cơ ngơi khiêm tốn ở ngay trung tâm London mà may mắn lắm hắn mới tìm được. Dạo này, hắn bắt đầu tưởng tượng tới những phương pháp đòi nợ dữ dằn và thô sơ hơn: chẳng hạn hắn khoái giáng một cây gậy bóng chày vào mấy kẻ quỵt nợ cho hết vênh váo.

Cánh cửa mở ra; Strike nhanh chóng rút ngón tay ra khỏi mũi và ngồi thẳng dậy, cố tỏ ra tỉnh táo lanh lợi.

“Ông Strike, đây là ông Bristow.”

Thân chủ tiềm năng theo Robin bước vào văn phòng. Ấn tượng đầu tiên khá dễ chịu. Người lạ mặt trông đặc biệt giống con thỏ: môi trên ngắn để lộ ra những mấy răng cửa lớn; nước da vàng vọt và đôi mắt cận nặng đeo kính dày cộp. Bù lại ông ta mặc một bộ complet màu xám đậm được cắt may rất khéo và thắt cà vạt màu xanh dương bóng bẩy. Cả đồng hồ đeo tay và đôi giày dưới chân ông ta đều trông rất xa xỉ.

Áo sơ mi trắng tinh thẳng thớm của người lạ mặt càng nhắc Strike nhớ đến hàng ngàn vết nhăn trên áo quần hắn đang mặc. Hắn đứng dậy, khoe hết chiều cao một mét chín và chìa bàn tay rậm lông về phía thân chủ mới, cố đáp lại sự lịch lãm của ông ta bằng cách tỏ ra ta đây bận rộn không có thời giờ ủi đồ.

“Cormoran Strike, rất hân hạnh tiếp ông!”

“John Bristow,” Người khách đáp lời, hai người bắt tay. Giọng ông ta dễ chịu, kiểu cách và hơi run. Ông ta nhìn hơi lâu vào bên mắt sưng của Strike.

“Mời hai ông dùng chút cà phê hay trà nhé?” Robin hỏi.


Bristow gọi một cà phê đen nhỏ, Strike không trả lời, hắn vừa thoáng thấy một người phụ nữ có chân mày rậm, mặc một bộ complet bằng vải dạ ngồi ngay trên chiếc ghế sofa cũ kỹ ngay cạnh cửa phòng ngoài. Thật khó tin là hai khách hàng mới cùng đến một lúc. Hay không lẽ lại có thêm một nhân viên tạm thời nữa?

“Còn ông Strike ạ?” Robin hỏi Strike.

“Gì kia? À, cà phê đen, hai viên đường, phiền cô, Sandra,” hắn buột miệng. Hắn thấy cô ta mím môi lại khi đóng cửa đi ra. Lúc đó hắn mới nhớ ra là hắn không có cà phê, đường hay tách chén gì cả.

Bristow ngồi xuống, nhìn quanh văn phòng tơi tả. Strike e là ông ta đang thất vọng. Vị thân chủ mới này có vẻ lo lắng mờ ám sao đó, đúng kiểu mấy ông chồng hay ngờ vực mà Strike từng biết, nhưng trông vẫn ít nhiều có thể, có lẽ nhờ bộ đồ đắt tiền. Strike không biết Bristow làm sao mò ra được cái văn phòng này. Không thể do bà khách duy nhất hiện giờ giới thiệu được vì bà ta (theo như nhiều lần bà khóc lóc trên điện thoại) không có bạn bè gì.

“Tôi có thể giúp gì được cho ông?” Strike hỏi, ngồi xuống ghế.

“Thực ra là… à, tôi muốn hỏi cái này… Tôi nghĩ chúng ta có gặp nhau rồi.”

“Thật vậy sao?”

“Chắc anh không nhớ tôi, bao năm rồi… nhưng tôi nghĩ anh là bạn của Charlie em trai tôi. Charlie Bristow? Nó mất trong vụ tai nạn lúc mới chín tuổi.”

“Trời đất,” Strike thốt lên. “Charlie,… vâng, tôi còn nhớ.”

Strike nhớ rất rõ là đằng khác. Charlie Bristow là một trong rất nhiều bạn bè mà Strike kết giao trong thời thơ ấu lăn lóc nay đây mai đó. Một cậu bé táo bạo, nghịch ngợm đầy sức lôi cuốn, thủ lĩnh băng siêu quậy ở ngôi trường mới của Strike ở London. Ngay lần gặp đầu tiên, Charlie đã quyết định kết nạp cậu học trò mới bự con, nói đặc sệt giọng Cornwall làm bạn thân nhất kiêm trợ thủ đắc lực. Sau đó là hai tháng cặp kè và đủ trò nghịch ngợm. Vốn luôn tò mò về cuộc sống gia đình êm ả của những trẻ khác, với ông bố bà mẹ tỉnh táo, gọn gàng và căn phòng riêng không thay đổi năm này qua năm khác, Strike vẫn còn nhớ như in căn nhà to lớn và sang trọng của Charlie. Ở đó có một bãi cỏ đầy nắng, một cái chòi gỗ dựng trên cây, và món nước chanh tươi mát lạnh mẹ Charlie bưng ra cho bọn nó.

Sau đó là nỗi kinh hoàng khủng khiếp trong ngày đầu tiên trở lại trường sau kỳ nghỉ Phục sinh. Cô giáo chủ nhiệm nói với cả lớp rằng Charlie sẽ không bao giờ quay trở lại nữa, Charlie chết rồi, rớt xuống mỏ đá lúc đạp xe ngang qua vách núi khi đang đi nghỉ ở Wales. Cô giáo đó thực là một mụ già đáng ghét, còn không nhịn được mà phải thêm vào rằng Charlie, như cả lớp đã biết thường xuyên không nghe lời người lớn, đã bị cấm rõ là không được đạp xe gần mỏ đá, nhưng vẫn cứ làm, có lẽ định thể hiện gì đó… nhưng cô chưa kịp nói hết thì phải dừng lại vì hai cô bạn học ngồi hàng đầu bật khóc nức nở.

Từ ngày hôm đó, mỗi lần nhìn thấy hay mường tượng ra một mỏ đá, Strike luôn thấy trước mặt mình là gương mặt của cậu bé tóc vàng đang cười vỡ ra thành nhiều mảnh. Strike không ngạc nhiên nếu tất cả các bạn trong lớp hồi đó đều có chung nỗi ám ảnh với cảnh hang động đen tối, cú rơi từ trên cao xuống và tảng đá vô tình.

“Vâng, tôi còn nhớ Charlie,” Strike trả lời.

Trái khế dưới cổ Bristow động đậy.

“Vâng. Thực ra là nhờ cái tên của anh cả đấy. Tôi nhớ rất rõ Charlie hay kể chuyện về anh, khi chúng tôi đi nghỉ, chỉ mấy ngày trước khi nó mất; ‘bạn em Strike’, ‘Cormoran Strike’. Thật là một cái tên lạ. ‘Strike’ có gốc từ đâu, anh có biết không? Tôi chưa bao giờ gặp ai tên vậy cả.”

Strike từng gặp nhiều người như Bristow, kiểu người thích cà kê đủ chuyện, từ thời tiết, lộ phí vào trung tâm, đến sở thích uống trà hay cà phê, chỉ để trì hoãn phải giải thích lý do muốn gặp hắn.

“Tôi có nghe nói hình như liên quan gì đó đến bắp ngô, hay một đơn vị để đong ngô.” Strike trả lời.

“Thật vậy sao? Không có gì liên quan đến đánh đấm, hay đình công hết à, ha ha… à không, thực ra là tôi đang tìm người có thể giúp tôi một việc, rồi tôi thấy tên anh trong danh bạ.” Đầu gối của Bristow cựa quậy nhấp nhô, “anh cũng có thể tưởng tượng lúc đó tôi thấy như thế nào rồi đấy… cứ như là… có một dấu hiệu gì đó vậy. Có lẽ Charlie đang dẫn đường chỉ lối cho tôi, nói rằng tôi đã đi đúng chỗ.”

Trái khế cổ họng của Bristow lại động đậy mỗi khi ông nuốt nước bọt.

“OK,” Strike đáp lời thận trọng, hi vọng là vị thân chủ mới này không nghĩ hắn ta làm nghề bói toán lên đồng.

“Chuyện của em gái tôi, anh biết đó.” Bristow nói tiếp.

“Cô ta đang gặp rắc rối à?”

“Nó chết rồi.”

Strike suýt tí nữa thì bật ra, “Gì chứ, chết luôn rồi hả?”

“Tôi rất tiếc,” Strike thận trọng nói.

Bristow cúi đầu khẽ nhận lời chia buồn.

“Tôi… việc này chẳng dễ dàng gì. Đầu tiên, anh nên biết em gái… quá cố của tôi là Lula Landry.”

Hi vọng vừa chỉ chớm nở từ vị khách hàng mới dần dần tụt xuống, như tấm bia đá rơi đánh thịch xuống bụng Strike. Người đàn ông ngồi đối diện với hắn một là ảo tưởng, hai là chập mạch. Không có lý nào trên đời mà cái tay mặt trắng bệch, trông giống thỏ này lại có cùng bộ gene với Lula Landry – biểu tượng sắc đẹp da nâu thanh mảnh, sắc sảo như kim cương.

“Bố mẹ tôi nhận nuôi Lula.” Bristow nói nhỏ nhẹ, như thể biết được Strike đang nghĩ gì.

“Tất cả chúng tôi đều là con nuôi hết.”

“Ừm…” Strike ậm ừ đáp. Vốn có một trí nhớ chính xác khác thường, hắn mường tượng lại ngôi nhà ngăn nắp, rộng rãi và mát mẻ ngày xưa, khu vườn cỏ xanh rực nắng, người mẹ tóc vàng uể oải ngồi ở bàn gỗ trong vườn, tiếng người cha nghiêm nghị gọi từ xa, cậu anh trai cáu kỉnh ngồi vọc bánh trái cây, Charlie liên tục làm trò hề chọc cười mẹ; nhưng hắn không thể nhớ ra có cô em gái nào cả.

“Anh chưa gặp Lula.” Bristow lại tiếp tục, cứ như thể Strike vừa nói ra hết ý nghĩ của hắn. “Bố mẹ tôi nhận nuôi Lula sau khi Charlie mất. Nó mới có bốn tuổi lúc về với chúng tôi, trước đó nó ở với bên bảo trợ xã hội hai năm. Khi đó tôi khoảng 15 tuổi. Tôi vẫn còn nhớ mình đứng ở ngay cửa trước nhìn thấy bố bế nó đi vào. Nó đội một cái mũ len đỏ. Mẹ tôi vẫn còn giữ cái mũ.”

Và đột ngột, đến sửng sốt, John Bristow bật lên khóc nức nở. Hai tay ôm mặt, vai khòm xuống, cả người rung lên, nước mắt nước mũi giàn giụa chảy qua kẽ ngón tay. Mỗi khi vừa kìm lại được, cơn nức nở lại trào lên.

“Tôi xin lỗi… xin lỗi. Chúa ơi…”

Vừa thở hổn hển vừa nấc cục, Bristow rút khăn mùi sao chặm mắt, cố gắng giữ bình tĩnh.

Cửa phòng mở ra. Robin bước vào, bưng theo một khay nước. Bristow quay mặt đi, hai vai vẫn rung lên. Qua cánh cửa Strike lại lần nữa thấy người phụ nữ mặc complet vẫn ngồi ở phòng ngoài, cô ta quắc mắt nhìn Strike qua tờ báo Daily Express cầm trên tay.

Robin đặt xuống bàn hai tách cà phê, một bình sữa, một cái chén đựng đường và một đĩa bánh quy sô-cô-la, toàn những thứ Strike chưa bao giờ thấy trong văn phòng, rồi cười lịch sự khi Strike cảm ơn và bước ra.

“Khoan đã, Sandra,” Strike nói với theo. “Phiền cô…?”

Hắn rút ra một tờ giấy từ bàn làm việc và đặt lên đầu gối. Trong khi Bristow nhấp ngụm cà phê, Strike cố viết nhanh và rõ nhất đến mức có thể:

Phiền cô google xem Lula Landry có phải là con nuôi không, ai nhận nuôi vậy. Đừng nói gì với bà ngồi ngoài kia (bà ta làm gì ngoài đó vậy). Viết câu trả lời và đưa ngay vô cho tôi, đừng nói gì hết.

Strike đưa tờ giấy cho Robin, cô cầm lấy, không nói tiếng nào và bước ra.

“Xin lỗi… tôi vô cùng xin lỗi,” Strike thở hắt ra, khi cánh cửa vừa đóng lại. “Thực ra… thường tôi không như vậy… tôi đã trở lại làm việc, đi gặp khách hàng bình thường rồi…”

Bristow hít sâu vài hơi. Với đôi mắt màu hồng, trông ông ta càng giống một con thỏ bị bạch tạng. Đầu gối phải nhịp lia lịa.

“Thật là tồi tệ” Bristow phều phào, lại hít hơi sâu, “chuyện của Lula… còn mẹ tôi thì bệnh nặng…”

Strike ứa nước miếng nhìn mấy cái bánh quy sô-cô-la, hắn cảm giác như mấy ngày rồi chưa ăn gì; nhưng hắn e rằng nhồm nhoàm bánh trái khi Bristow cứ run rẩy sụt sùi và chùi mắt liên tục như thế sẽ khiến hắn trông rất vô cảm. Máy khoan bên đường vẫn ầm ĩ như súng bắn.

“Mẹ tôi buông xuôi kể từ khi Lula mất. Mẹ tôi thực sự ngã gục. Bệnh ung thư của bà tưởng đã êm rồi, nhưng bây giờ tái phát, bác sĩ nói không làm gì được nữa. Lần này là lần thứ hai. Khi Charlie mất mẹ tôi như quỵ luôn. Bố tôi lúc đó nghĩ rằng có thêm một đứa con nữa sẽ làm bà nguôi ngoai. Cả hai đều thích con gái. Rất là khó khăn mới xin được, cũng may Lula là con lai, khó tìm người nhận, vậy nên,” Bristow kết thúc câu chuyện, nấc thêm một cái nữa “nhà tôi mới xin được nó.”

“Nó rất xi-xinh. Nó đ-được người ta phát hiện trên phố Oxford khi đang đi mua sắm với mẹ tôi. Công ty Athena là chỗ đầu tiên phát hiện ra nó. Một trong những công ty tiếng tăm nhất. Mười bảy tuổi nó đã là người mẫu chuyên nghiệp. Lúc mất đi nó có khoảng mười triệu bảng. Tôi không biết tại sao tôi lại đi nói với anh chuyện này. Có khi anh cũng biết hết rồi. Ai cũng biết cả, ai cũng nghĩ là mình biết mọi thứ về Luna.”

Bristow vụng về nâng tách cà phê; bàn tay run đến nỗi cà phê rơi ra lên mặt vải quần ủi thẳng thớm.

“Chính xác là ông muốn tôi làm gì?” Strike hỏi.

Bristow run run đặt tách xuống bàn, rồi nắm chặt bàn tay lại.

“Họ nói em tôi tự tử. Tôi không tin.”

Strike còn nhớ những hình ảnh trên TV: túi đựng xác màu đen nằm trên băng-ca, máy ảnh liên tục chớp khi băng-ca được đưa vào xe cứu thương, đám thở ảnh đứng chung quanh chờ đợi, giơ tay chĩa máy ảnh vào cửa xe tối om, ánh sáng dội lại từ cửa gương đen. Strike biết về vụ Luna nhiều hơn hắn muốn biết; hầu hết như mọi sinh vật có ý thức ở cái xứ Anh quốc này đều như vậy. Cứ liên tục bị “dội bom” tin tức như thế thì có không muốn người ta cũng trở nên quan tâm, và trước khi kịp có chính kiến riêng về chi tiết vụ án, đến nỗi không thể ngồi vào ghế bồi thẩm đoàn được.

“Tôi nghe nói họ có mở điều tra chính thức?”

“Có, nhưng tay điều tra viên chịu trách nhiệm vụ án từ đầu đã nghĩ đây là vụ tự tử, chỉ vì Lula có uống lithium . Hắn bỏ qua rất nhiều thứ… nhiều chỗ trên Internet người ta còn chỉ ra được.”

Bristow chỉ tay vu vơ về phía bàn làm việc trống trơn của Strike, nơi đáng ra phải có một cái máy tính.

Lại một tiếng gõ cửa lịch sự. Cửa mở, Robin bước vào, đưa cho Strike một mẩu giấy gấp lại và đi ra.

“Phiền ông đợi một lát,” Strike nói “Tôi chờ thông tin này khá lâu.”

Strike mở mẩu giấy tựa vào đầu gối, cố không để Bristow nhìn thấy mặt sau và đọc:

Lula Landry được Ngài Alec và phu nhân Yvette Bristow nhận nuôi lúc bốn tuổi. Lula có tên chính thức là Lula Bristow nhưng lấy họ của mẹ nuôi làm nghệ danh khi bắt đầu công việc người mẫu. Lula có một anh trai là John Bristow, hành nghề luật sư. Người ngồi đợi ở ngoài là bạn gái của ông Bristow, cũng là thư ký ở công ty luật của ông này. Công ty tên là Landry. May. Patterson, do ông ngoại của Luna và John lập ra. Thân chủ giống hệt như ảnh chân dung của John Bristow trên trang web công ty LMP.

Strike vò mẩu giấy lại rồi ném vào thùng rác dưới chân. Hắn choáng váng. John Bristow không phải là người hoang tưởng và hắn – Strike, vừa có được một nhân viên tạm thời vừa có năng lực lại biết chấm phẩy đàng hoàng, hơn tất cả những người trước đó.

“Xin lỗi ông, làm ơn nói tiếp.” Strike nói với Bristow. “Ông đang nhắc tới vụ điều tra?”

“Vâng,” Bristow trả lời, cầm cái khăn mùi soa ướt nhẹp dặm mũi. “Tôi không phủ nhận là Lula cũng từng gây nhiều chuyện. Nó từng khiến mẹ tôi đau khổ ghê gớm, quả có thế. Tất cả bắt đầu khi bố tôi mất… chắc anh cũng biết hết rồi, Chúa mới biết báo chí viết bao nhiêu cho đủ… lúc đó Lula bị đuổi học vì dùng ma túy; nó bỏ chạy lên London, mẹ tôi tìm ra nó đang vạ vật với đám nghiện hút; ma túy làm bệnh của nó trầm trọng hơn; nó trốn khỏi trung tâm điều trị… đủ thứ chuyện rắc rối. Cuối cùng họ nhận ra là nó bị rối loạn lưỡng cực và cho thuốc phù hợp. Kể từ đó, cứ uống thuốc đều là nó ổn; người ngoài nhìn vào không thể biết nó có bệnh. Thậm chí nhân viên điều tra cũng chấp nhận rằng trước đó nó có uống thuốc, khám nghiệm tử thi cũng cho thấy vậy.”


“Nhưng cảnh sát và điều tra viên không thể thấy gì hơn ngoài một cô gái có tiền sử tâm thần. Họ cứ nói là nó trầm cảm, nhưng tôi có thể chắc với anh là lúc đó Luna không hề trầm cảm. Sáng hôm đó tôi còn gặp nó, nó hoàn toàn bình thường. Mọi thứ đang rất tốt đẹp, nhất là công việc. Nó vừa ký một hợp đồng trị giá năm triệu bảng trong vòng hai năm; nó nhờ tôi xem qua, đúng là hợp đồng ngon lành. Nhà thiết kế cũng là bạn thân của nó, Somé, chắc anh cũng có nghe tên? Lịch làm việc mấy tháng sau của nó kín đặc; sắp có chuyến đi chụp hình ở Morocco, nó rất mê đi đây đó. Anh thấy đó, chẳng có lý do gì khiến nó phải tự tử cả.”

Strike gật đầu lịch sự dù trong bụng chả thấy thuyết phục gì. Những người tự tử, theo kinh nghiệm của hắn, đều hoàn toàn có khả năng giả vờ quan tâm đến tương lai, một tương lai mà họ không hề có ý định dự phần. Tâm trạng phấn khởi, nhìn đời màu hồng vào buổi sáng của Landry hoàn toàn có thể dễ dàng chuyển sang u ám và vô vọng ngay buổi chiều và đêm hôm đó, trước khi cô chết. Strike từng biết đến những vụ tương tự. Hắn còn nhớ tay trung úy ở Trung đoàn Súng trường Hoàng gia. Tay này thức dậy trong đêm ngay sau tiệc sinh nhật tưng bừng, viết một mẩu giấy để lại cho gia đình, bảo họ họi cảnh sát và đừng đi vào nhà để xe. Đứa con trai mười lăm tuổi là người đầu tiên phát hiện ra xác chết trong tư thế treo cổ từ trần nhà xe khi đi ngang qua bếp vào nhà xe để lấy xe đạp mà không hề thấy mẩu giấy. “Nhưng đó không phải là tất cả.” Bristow nói tiếp. “Có chứng cứ, chứng cứ rành mạch. Đầu tiên là lời khai của Tansy Bestigui.”

“Có phải là người hàng xóm khai là có nghe thấy cãi nhau ở tầng trên?”

“Chính xác! Bà ta nghe thấy tiếng một người đàn ông la hét, ngay trước khi Lula rơi xuống! Cảnh sát lơ chứng cứ này, bởi vì… ừ thì, bà ta có sử dụng cocaine. Nhưng điều đó không có nghĩa là bà ta không biết mình nghe thấy gì. Đến giờ Tansy vẫn khẳng định là Lula có cãi nhau với một người đàn ông chỉ vài giây trước khi nó rơi xuống. Tôi biết, vì tôi vừa nói chuyện với bà ấy mà. Công ty của tôi đang làm vụ ly dị của Tansy. Tôi chắc rằng tôi có thể thuyết phục bà ta nói chuyện với anh.”

“Rồi còn nữa,” Bristow nói tiếp, quan sát Strike một cánh lo lắng, cố phán đoán phản ứng của hắn, “vẫn còn mấy đoạn băng hình từ camera công cộng. Một người đàn ông đi về phía khu Kentigern Gardens khoảng hai mươi phút trước khi Lula ngã, và thêm một đoạn phim quay cảnh cũng người này chạy thục mạng từ Kentigern Gardens sau khi Lula bị giết. Cảnh sát không bao giờ biết được người này là ai, không tìm được tung tích gì cả.”

Với một vẻ sốt sắng lén lút, Bristow rút ra từ trong túi áo complet một bì thư hơi nhăn nhúm, đưa về phía Strike.

“Tôi viết ra hết rồi. Mốc thời gian và mọi chi tiết. Tất cả đều ở trong đó. Anh sẽ thấy mọi thứ khớp với nhau ra sao.”

Cái bì thư không làm cho Strike tin tưởng Bristow hơn chút nào. Hắn từng được dúi cho nhiều thứ như vậy: mấy dòng nghuệch ngoạc sinh ra từ những ám ảnh cô độc và lầm lạc; những câu chuyện lan man ly kỳ; những biểu đồ thời gian rối rắm, bị bóp méo để khớp với các loại giả thuyết hoang tưởng. Mí mắt bên trái của vị luật sự giật giật, một bên đầu gối vẫn nhịp lên xuống và mấy ngón tay cầm bì thư vẫn run run.

Trong vài giây Strike cân nhắc giữa những dấu hiệu căng thẳng đó và đôi giày chắc chắn là hàng thủ công của Bristow cùng chiếc đồng hồ Vacheron Constatin lộ ra trên cổ tay tái xanh mỗi khi ông ta huơ tay. Đây rõ là một người hoàn toàn có khả năng trả và sẽ trả thù lao nếu hắn nhận làm. Có lẽ dù để Strike trả một đợt cho món nợ lớn nhất. Thở dài, vừa tự nguyền rủa lương tâm của mình, Strike nói:

“Ông Bristow.”

“Cứ gọi tôi là John.”

“John… Tôi phải nói thật với anh thôi. Tôi nghĩ thật không phải nếu tôi lấy tiền của anh.”

Những vết đỏ bắt đầu nổi lên trên cái cổ xanh tái và gương mặt không có nét gì nổi bật của Bristow. Tay ông ta vẫn cầm chặt cái bì thư.

“Ý anh là sao, không phải là sao?”

“Cái chết của em gái anh có lẽ được điều tra đến mức thấu đáo nhất có thể. Hàng triệu người, giới truyền thông trên cả thế giới theo sát từng cử động của cảnh sát. Họ có lẽ đã phải làm kỹ gấp đôi bình thường. Tự tử luôn là chuyện rất khó chấp nhận…”

“Tôi không chấp nhận gì cả. Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận. Em tôi không tự tử. Có ai đó đã đẩy nó xuống từ ban công.”

Máy khoan bên kia đường đột nhiên dừng lại, giọng của Bristow đột nhiên vang dội khắp phòng. Bristow bùng nổ, theo kiểu một người yếu đuối bị ép tới đường cùng.

“Tôi hiểu. Tôi hiểu rồi. Anh cũng giống họ thôi, phải không? Lại một nhà tâm lý tự phong khốn nạn? Charlie chết, bố tôi chết, Lula chết và mẹ tôi cũng đang chết… Tôi mất hết rồi, tôi cần đi bác sĩ tâm lý, không phải thám tử, chứ gì? Anh nghĩ tôi chưa nghe những thứ như vậy cả trăm lần rồi sao?”

Bristow đứng bật dậy, dứt khoát, khác hẳn với vẻ ngoài răng thỏ và làn da đốm đỏ.

“Tôi khác giàu có, Strike. Xin lỗi tôi nói thẳng nhưng anh cũng thấy đó. Bố tôi để lại cho tôi một gia tài khá lớn. Tôi cũng có tìm hiểu chi phí những dịch vụ như thế này. Tôi đã tính trả anh gấp đôi.”

Trả gấp đôi. Lương tâm vốn cứng rắn và không khoan nhượng của Strike mấy hôm nay hơi sứt mẻ sau một loạt xui xẻo, giờ đây chính thức bị một đòn gục hẳn. Con người thực dụng trong hắn hớn hở nghĩ ngay tới những viễn cảnh xán lạn: thù lao một tháng sẽ trả nốt chỗ phí thuê nhân viên tạm thời và một phần khoản nợ tiền thuê nhà; hai tháng thì dọn luôn mấy khoản nợ đang gay go… ba tháng, xóa sạch một phần lớn trong chỗ thâm hụt tài khoản… bốn tháng…

Nhưng Bristow đang vừa nói vừa đi ra cửa, tay vò nát cái bì thư mà Strike từ chối không nhận.

“Tôi muốn anh làm vụ này phần vì Charlie, nhưng tôi cũng có biết chút ít về anh, tôi đâu có phải là thằng ngu hoàn toàn. Cục điều tra đặc biệt, quân cảnh, đúng không? Từng được huy chương nọ kia. Ngoài ra, tôi không thể khen gì cái chỗ này được.” Bristow gần như gào lên, và Strike nhận ra những giọng phụ nữ nói chuyện ở phòng ngoài cũng im bặt, “nhưng tôi đã sai, và anh thì không cần việc. Được rồi! Quên mẹ nó đi. Tôi chắc tôi sẽ tìm được người khác làm. Xin lỗi đã làm phiền anh!”