Con Chim Khát Tổ

Chương 14

Sáng hôm sau trời trong mát, nắng đẹp. Strike đi tàu điện đến khu Chelsea hiền hòa, nhiều cây cối. Mặc dù từng sống lang thang khắp London, hắn hầu như không bao giờ bén mảng đến đây. Mẹ Strike chưa bao giờ với tới nổi một tấc đất gần Bệnh viện Hoàng Gia Chelsea, ngay trong những giai đoạn bà phung phí tiền bạc mạnh tay nhất. Dưới ánh nắng mùa xuân, tòa nhà bệnh viện hiện lên trầm mặc và nền nã.

Trước mặt Strike là con phố Franklin Row xinh đẹp với những dãy nhà gạch đỏ, hàng cây tiêu huyền và một bãi cỏ rộng lớn có hàng rào bao quanh. Một đám học sinh tiểu học đang chơi thể thao trên bãi cỏ, mặc áo thun Aertex và quần short màu xanh sẫm, xung quanh có các thầy cô mặc đồ thể thao đứng trông chừng. Tiếng cười đùa của bọn trẻ làm ngắt quãng sự yên lặng tĩnh tại ở khu phố vốn dường như chỉ có tiếng chim hót. Strike sải bước trên vỉa hè, hai tay đút túi quần. Đường phố không một bóng xe chạy qua.

Phía trên bốn bậc cấp bằng đá trắng là một cánh cửa lắp kính. Kế đó là bảng chuông cửa bằng nhựa Bakelite kiểu cũ xưa gắn trên tường. Strike kiểm tra lại có đúng là tên của phu nhân Yvette Bristow nằm bên cạnh dòng chữ Căn hộ E hay không rồi quay xuống vỉa hè, đứng đợi trong ánh nắng ấm áp dìu dịu, thỉnh thoảng nhìn về hai phía đầu đường.

Mười giờ rưỡi. John Bristow vẫn chưa đến. Khu phố không một bóng người, trừ khoảng hai mươi đứa trẻ con bên kia hàng rào bãi cỏ. Chúng đang chơi đến trò chạy qua những vòng tròn và cột mốc đủ màu.

Mười giờ bốn mươi lăm phút, điện thoại của Strike rung lên trong túi. Robin nhắn tin:

Alison vừa gọi để báo rằng JB bận không tới được. JB không muốn anh nói chuyện với bà mẹ mà không có mặt ông ấy.

Ngay lập tức Strike nhắn tin của Bristow:

Anh còn bận bao lâu nữa? Vẫn gặp hôm nay được chứ?

Hắn chưa kịp gởi tin nhắn thì điện thoại đổ chuông.

“A lô?” Strike nói.

“Oggy?” Giọng lành lạnh của Graham Hardacre vang lên, từ tận nước Đức. “Tao có thông tin về Agyeman rồi.”

“Mày thiêng quá xá.” Strike rút cuốn sổ ra. “Nói đi.”

“Anh chàng này là Trung úy Jonah Francis Agyeman, Kỹ sư Quân đội Hoàng gia. Hai mươi mốt tuổi, chưa kết hôn, đợt làm nhiệm vụ gần đây nhất bắt đầu từ ngày Mười Một tháng Giêng, kết thúc vào tháng Sáu tới. Người thân gần nhất là mẹ. Không anh chị em, không con cái.”

Strike hí hoáy viết hết vào sổ, điện thoại kẹp giữa cằm và bả vai.

“Tao nợ mày vụ này rồi, Hardy,” hắn vừa nói vừa cất cuốn sổ. “Không có hình ảnh gì hả?”

“Để đó tao email cho một cái.”

Strike đọc cho Hardacre địa chỉ email của văn phòng. Sau vài màn hỏi thăm thông thường về cuộc sống và chúc tụng lẫn nhau, hắn dập máy.

Mười một giờ kém năm. Strike vẫn đứng đợi giữa khu phố hiền hoà, xanh tươi, điện thoại cầm trong tay. Đám trẻ con vẫn mải chơi với mấy cái vòng và túi hạt xốp. Một chiếc máy bay màu bạc bé xíu vạch một đường trắng dày trên nền trời xanh nhàn nhạt. Cuối cùng, điện thoại phát ra tín hiệu báo tin nhắn, nghe rất rõ trên con phố vắng lặng. Bristow trả lời:

Hôm nay không được rồi. Tôi phải đi Rye có việc. Hay ngày mai vậy?

Strike thở dài.

“Xin lỗi nhé John,” hắn lẩm bẩm rồi leo lên bậc tam cấp và bấm chuông nhà phu nhân Bristow.

Sảnh đón khách yên tĩnh, rộng rãi và sáng sủa, nhưng vẫn có vẻ gì đó ảm đạm của những nơi công cộng, mặc dù có đặt thêm bình hoa trông như cái xô cắm đầy hoa khô, thêm thảm lót màu xanh mờ và tường sơn vàng nhạt, chắc chủ nhân cố ý chọn toàn những thứ nhẹ nhàng dễ chịu như vậy. Giống với toà nhà chung cư Kentigern Gardens, ở đây cũng có thang máy, nhưng cửa bằng gỗ. Strike quyết định đi cầu thang bộ. Toà nhà trông hơi cũ kỹ nhưng vẫn lặng lẽ toát lên vẻ giàu có.

Cô y tá Macmillan[1] người Caribe ra mở cửa, mỉm cười thân thiện. Cô cũng chính là người bấm nút mở cửa vào sảnh ở tầng dưới cho Strike sau khi hắn bấm chuông.

[1. Một tổ chức chuyên chăm sóc người bệnh ung thư ở Anh quốc.]

“Tôi cứ tưởng là anh Bristow,” cô ta nhanh nhẹn nói.

“Không, tôi là Cormoran Strike. John vẫn đang trên đường đi.”

Cô y tá cho hắn vào. Hành lang dẫn vào phòng khách nhà phu nhân Bristow ấm cúng dễ chịu. Giấy dán tường màu đỏ phai, trên tường treo nhiều tranh màu nước lồng khung mạ vàng cũ xưa. Giá để dù đi mưa đựng đầy các loại gậy chống. Mấy chiếc áo khoác được treo lên một hàng móc áo ngay ngắn. Strike liếc qua phải, thoáng thấy thư phòng ở cuối hành lang, bên trong có một chiếc bàn gỗ nặng nề và chiếc ghế xoay, lưng ghế quay ra phía cửa.

“Phiền anh đợi trong phòng khách. Tôi đi xem phu nhân đã sẵn sàng gặp anh chưa nhé.”

“Vâng, được.”

Hắn bước qua cánh cửa cô y tá vừa chỉ, vào một phòng khách trang nhã với tường sơn màu hoa anh thảo, đầy kệ sách và khung ảnh. Một chiếc điện thoại quay số kiểu cổ đặt trên chiếc bàn con, cạnh đó là ghế sofa bọc vải hoa. Strike đợi cô y tá đi ra hẳn, rồi nhấc ống nghe điện thoại lên, khéo léo gác kênh máy, nhìn lướt qua khó nhận ra.

Gần cửa sổ lớn là chiếc bàn mặt tủ kiểu cọ, trên bàn có một tấm ảnh lớn lồng khung bạc, chụp đám cưới của Ngài Alec Bristow và phu nhân. Chú rể trông già hơn nhiều so với cô dâu. Ngài Alec phốp pháp, râu ria, đang mỉm cười rạng rỡ bên cô dâu mảnh khảnh, tóc vàng, xinh đẹp kiểu nhàn nhạt. Giả vờ đang chiêm ngưỡng bức ảnh, Strike đứng quay lưng về phía cửa và nhanh tay mở ngăn kéo nhỏ ngay dưới mặt chiếc bàn gỗ xoan đào tinh tế. Bên trong là giấy viết thư màu xanh nhạt và bì thư cùng màu. Hắn đóng ngăn kéo lại ngay.

“Anh Strike? Anh có thể vào gặp phu nhân được rồi.”

Hai người trở ra hành lang có giấy dán tường đỏ rồi đi một đoạn ngắn đến một phòng ngủ rộng lớn với hai màu chủ đạo trắng và xanh trứng sáo. Mọi thứ trong phòng toát lên vẻ thanh lịch, trang nhã. Bên trái là hai cánh cửa đang khép hờ, một mở vào buồng tắm, một mở vào tủ áo quần siêu lớn. Bàn ghế trong phòng tinh tế, mang hơi hướm phong cách Pháp. Bình truyền nước gắn trên giá đứng bằng thép, bộ vệ sinh sạch sẽ sáng bóng đặt trên tủ ngăn kéo cùng với vô số thuốc men. Những món đạo cụ của bệnh tật lạc lõng trong căn phòng thanh nhã như những kẻ trà trộn không mời.

Người đàn bà đau yếu mặc áo khoác len dày màu trắng ngà, nằm lọt thỏm trên chiếc giường gỗ chạm trổ, đỡ lưng bằng những chiếc gối màu trắng. Vẻ đẹp thanh xuân của phu nhân Bristow đã hoàn toàn biến mất. Dưới làn da mỏng manh, trong suốt, và đã bắt đầu bong vảy, những đốt xương lộ rõ, gầy guộc và góc cạnh. Đôi mắt của phu nhân trũng sâu, mờ đục. Mái tóc bạc trắng lơ thơ như tóc trẻ con, lộ cả lớp da đầu hồng nhạt. Hai cánh tay xương xẩu đặt hờ trên lớp chăn, trên tay gắn kim truyền dịch. Cái chết đã hiện diện trong căn phòng, chừng như đang lịch sự và kiên nhẫn đứng chờ ngay sau lớp màn cửa.

Mùi hoa chanh thoang thoảng trong không khí, nhưng vẫn không át được mùi thuốc sát trùng và bệnh tật, khiến Strike nhớ đến mấy tháng dai dẳng nằm viện. Cửa sổ lớn thứ hai đã được nâng lên khoảng vài tấc, hứng lấy chút không khí ấm áp trong lành và tiếng trẻ con chơi đùa từ xa vọng vào, nhìn ra những cành cao nhất trên hàng cây tiêu huyền xanh mát trong nắng.

“Anh là thám tử à?”

Giọng của phu nhân Bristow mỏng manh, khàn và hơi nhịu. Trước đó Strike vẫn còn băn khoăn không biết liệu Bristw đã nói thật với mẹ ông ta về hắn chưa. Hắn mừng là phu nhân đã biết trước.

“Vâng, tôi là Cormoran Strike.”

“John đâu rồi?”

“Anh ấy bận việc ở văn phòng.”

“Lại bận nữa à,” bà ta lẩm bẩm, rồi nói tiếp, “Tony bắt John làm việc cực khổ quá. Không công bằng chút nào.” Bà ta cố nheo mắt nhìn hắn, rồi khẽ đưa ngón tay lên chỉ một chiếc ghế nhỏ. “Ngồi xuống đi.”

Hai mống mắt đã bạc màu của phu nhân Bristow có những đường trắng đục viền quanh. Khi ngồi xuống Strike để ý trên bàn con cạnh giường có thêm hai khung ảnh bạc nữa. Một luồng điện chạy qua người Strike khi hắn nhìn vào đôi mắt của Charlie Bristow trong ảnh. Gương mặt tròn trịa, đuôi tóc hơi dài, Charlie dừng lại mãi ở tuổi lên mười trong chiếc áo sơ mi đồng phục có cổ áo chìa ra và nút thắt cà vạt to tướng. Trông Charlie y hệt như lúc vẫy tay tạm biệt Cormoran Strike, cậu bạn thân nhất, ríu rít hẹn gặp nhau sau kỳ nghỉ Phục Sinh.

Bên cạnh ảnh của Charlie là một tấm ảnh nhỏ hơn, chụp một cô bé xinh lạ thường, tóc đen dài xoăn từng lọn, đôi mắt to màu nâu, mặc đồng phục màu xanh sẫm. Lula Landry trong ảnh chắc chỉ độ sáu tuổi.

“Mary,” phu nhân Bristow gọi khẽ, cô y tá chạy ngay đến. “Cô có thể lấy cho anh Strike đây ít cà phê? Hay anh dùng trà nhỉ?” bà ta quay sang hỏi hắn. Trong giây lát, Strike như quay trở về khoảnh khắc cách đây hai thập kỷ rưỡi, trong khu vườn rực nắng ở nhà Charlie với người mẹ tóc vàng duyên dáng tay cầm bình nước chanh mát lạnh.

“Cho tôi một tách cà phê vậy, cảm ơn cô nhiều.”

“Xin anh bỏ quá cho vì tôi không tự pha được,” phu nhân Bristow nói, sau khi cô y tác đã đi ra ngoài, bước chân vội vã, “nhưng anh thấy đó, giờ tôi phải nương nhờ lòng tốt của kẻ khác. Như Blanche Dubois[2] tội nghiệp.”

[2. Nhân vật chính trong tác phẩm nổi tiếng A streetcar named desire của Tennessee Williams, từng được dịch ra tiếng Việt với tựa Chuyến tàu mang tên dục vọng (NXB Trẻ, 2011) - ND]

Bà nhắm mắt lại trong giây lát, như để tập trung cảm nhận sự đau đớn bên trong cơ thể. Hắn không biết phu nhân Bristow đã uống bao nhiêu thuốc và còn tỉnh táo tới đâu. Đằng sau phong thái nền nã đó, Strike vẫn thấy vương vấn chút chua chát trong từng lời nói, tựa như mùi hoa chanh không thể át hết mùi bệnh tật trong phòng. Hắn thấy ngạc nhiên, chẳng phải Bristow gần như lúc nào cũng túc trực cạnh bên để tận tình chăm sóc bà mẹ đó sao?

“Tại sao John không tới?” phu nhân Bristow lại hỏi, mắt vẫn nhắm.

“Anh ấy bận việc ở văn phòng,” Strike lặp lại.

“À, đúng rồi. Anh có nói.”

“Thưa phu nhân, tôi muốn hỏi bà một vài câu. Tôi xin bà lượng thứ nếu câu hỏi quá riêng tư, hoặc làm bà phải phiền lòng.”

“Nếu anh đã gặp những chuyện mà tôi phải trải qua,” bà ta lặng lẽ nói, “thì chẳng còn gì có thể gây đau đớn được nữa. Cứ gọi tôi là Yvette.”

“Cảm ơn phu nhân. Bà không phiền nếu tôi ghi chép lại chứ?”

“Không, không sao cả,” bà ta trả lời, nhìn hắn lấy cây viết và cuốn sổ ra, vẻ hơi tò mò.

“Nếu bà không phiền, tôi muốn bắt đầu từ việc Lula đã đến với gia đình như thế nào. Khi nhận nuôi bà có biết gì về gốc gác của cô ấy không?”

Phu nhân Bristow giờ đây như hiện thân của sự bất lực và thụ động, hai cánh tay vẫn hờ hững đặt trên lớp chăn.

“Không,” bà ta trả lời. “Tôi chẳng biết gì cả. Chắc Alec biết, nhưng nếu có đi nữa thì ông ấy cũng không bao giờ kể với tôi.”

“Tại sao bà nghĩ Alec biết gì đó?”

“Alec luôn tìm hiểu tường tận mọi thứ,” bà ta trả lời, dịu dàng mỉm cười hoài niệm. “Ông ấy là người làm ăn giỏi, anh biết đó.”

“Nhưng ông ấy chưa bao giờ nói gì với bà về gia đình đầu tiên của Lula?”

“Ôi không, ông ấy không nói những chuyện đó đâu.” Có vẻ như phu nhân Bristow thấy câu hỏi thật kỳ lạ. “Tôi muốn con bé chỉ là của tôi, của riêng tôi mà thôi, anh hiểu không. Alec nếu có biết gì thì vẫn muốn che chở cho tôi. Tôi không thể chịu được cái ý nghĩ rằng ai đó sẽ tìm đến và đòi lại nó. Tôi đã mất Charlie; tôi rất muốn có một đứa con gái; ý nghĩ sẽ mất nó thật…”

Cô y tá quay trở lại cầm theo một chiếc khay với hai cái tách và một đĩa bánh qui sô cô la.

“Một cà phê,” cô ta vui vẻ nói, đặt cái tách bên cạnh Strike trên chiếc bàn con gần hắn, và “một trà hoa cúc.”

Rồi cô ta lại vội vã bước ra. Phu nhân Bristow khép mắt lại. Strike uống một ngụm cà phê đen, rồi hỏi tiếp:

“Năm ngoái Lula bắt đầu đi tìm bố mẹ ruột, có phải vậy không thưa bà?”

“Đúng thế,” phu nhân Bristow trả lời, mắt vẫn nhắm. “Lúc đó tôi vừa phát hiện ung thư.”

Cả hai im lặng. Strike khẽ đặt tách cà phê xuống. Tiếng trẻ con hò hét từ xa vọng vào qua ô cửa sổ đang mở.

“John và Tony rất giận nó,” phu nhân Bristow nói tiếp. “Cả hai đều thấy nó không nên đi bắt đầu đi tìm mẹ đẻ trong khi tôi ốm đau như vậy. Khi phát hiện thì khối u đã tiến triển. Tôi phải làm hoá trị ngay. John rất ngoan; nó lái xe chở tôi đi về bệnh viện, đến ở cùng tôi những ngày tệ hại nhất. Đến Tony cũng hay ghé qua. Vậy mà Lula dường như chỉ biết có…” Bà ta thở dài, mở đôi mắt mờ, nhìn mặt Strike. “Tony luôn nói con bé được chiều quá hoá hư. Lỗi tại tôi cả. Tôi từng mất Charlie, anh thấy đó, tôi yêu con bé bao nhiêu cũng không đủ.”

“Bà có biết được Lula đã tìm ra những gì về gia đình ruột thịt của cô ấy không?”

“Không, tôi không biết gì cả. Tôi nghĩ nó cũng biết chuyện đó làm tôi rất phiền. Nó không kể gì nhiều. Tôi biết nó đã tìm ra mẹ ruột, đương nhiên rồi, vì báo chí ồn ào kinh khủng sau đó. Bà ta đúng như những điều Tony đoán. Bà ta còn không muốn sinh ra Lula. Một người đàn bà chẳng ra gì, chẳng ra gì cả.” phu nhân Bristow thì thầm. “Nhưng Lula cứ đi gặp bà ta mãi. Trong lúc tôi vẫn còn hoá trị. Tôi bị rụng hết tóc…”

Giọng bà ta yếu dần đi. Strike thấy mình thật thô lỗ (mà có lẽ bà ta cũng thấy vậy) khi vẫn phải tiếp tục hỏi:

“Còn người cha ruột thì sao? Cô ấy có bao giờ kể gì về ông ta không?”

“Không,” phu nhân Bristow đáp, giọng yếu ớt. “Tôi không hỏi. Tôi có cảm giác nó không thiết tha gì nữa sau khi tìm ra bà mẹ khủng khiếp đó. Tôi không muốn nói chuyện đó với nó, không muốn chút nào cả. Quá đau lòng. Tôi nghĩ nó cũng biết vậy.”

“Cô ấy không nói gì về người cha ruột khi gặp bà lần cuối sau?” Strike vẫn hỏi tiếp.

“Ôi không có,” bà ta trả lời, giọng nhẹ nhàng. “Không nói gì. Nó cũng chẳng ở lâu, anh biết đó. Tôi còn nhớ vừa vào đến nơi nó đã nói là không ở được lâu. Nó phải đi gặp Ciara Porter bạn nó.”

Strike nhận ra chút tủi thân phảng phất trong giọng nói của bà ta, tựa như mùi đau ốm lâu ngày vương vấn trong phòng: có chút gì ẩm mốc, chết chóc. Phu nhân Bristow làm hắn nhớ đến Rochelle, mặc dù hai người nhìn bên ngoài thật như một trời một vực. Cả hai đều có cái hờn tủi của những người nghĩ mình bị người khác quay lưng, bỏ rơi.

“Bà có nhớ là hôm đó bà và Lula nói những chuyện gì không?”

“Anh biết đó, tôi uống rất nhiều thuốc giảm đau. Tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Tôi không nhớ hết được.”

“Nhưng bà nhớ Lula có ghé vào thăm?” Strike hỏi.

“Có chứ,” bà ta nói. “Nó đánh thức tôi dậy vì trước đó tôi vẫn còn ngủ.”

“Bà có nhớ hai người nói chuyện gì không?”

“Chuyện ca phẫu thuật, đương nhiên rồi,” bà ta nói, thoáng sự khó chịu. “Sau đó có nói một chút về anh của nó.”

“Anh của cô ấy…?”

“Charlie,” phu nhân Bristow trả lời, giọng buồn bã. “Tôi kể lại ngày Charlie chết. Trước đó tôi chưa bao giờ nói chuyện đó với Lula cả. Ngày tồi tệ nhất, kinh khủng nhất trong đời tôi.”

Strike có thể hình dung cảnh phu nhân Bristow vừa mệt mỏi kiệt sức nhưng cũng không kém phần ai oán, cố giữ cô con gái đang miễn cưỡng ngồi lại bằng cách nói về sự đau đớn hành xác, rồi về đứa con trai đã chết.

“Làm sao tôi biết được đó lại là lần cuối cùng tôi thấy con bé?” bà ta nói, thở nặng nhọc. “Khi đó tôi không biết sẽ lại mất thêm một đứa con nữa.”

Đôi mắt phu nhân Bristow đỏ ngàu, ngấn nước. Bà ta khẽ chớp mắt, hai giọt nước mắt tròn mẩy lăn dài trên gò má hốc hác.

“Phiền anh mở ngăn kéo,” phu nhân Bristow thì thào, chỉ ngón tay gầy guộc về chiếc bàn con cạnh giường, “lấy cho tôi mấy viên thuốc?”

Strike mở ngăn kéo bàn. Bên trong có nhiều hộp trắng, đủ loại thuốc men được dán nhãn khác nhau.

“Thuốc nào…”

“Loại nào cũng được. Như nhau cả,” bà ta nói.

Hắn lấy ra một chiếc hộp trắng có dán nhãn ghi chú rõ ràng là Valium. Chỗ thuốc trong hộp đủ cho bà ta uống quá liều mười lần.

“Anh cho tôi vài viên được không?” bà ta nói. “Tôi sẽ uống với trà, nếu đã nguội bớt.”

Hắn đưa mấy viên thuốc và tách trà cho phu nhân Bristow. Đôi bàn tay bà ta run rẩy, hắn phải đưa tay đỡ lấy cái đĩa tách. Hắn tự dưng (thật vô duyên) thấy mình như một vị linh mục đang cử hành thánh lễ.

“Cảm ơn anh,” bà ta thì thào, ngả người lên gối khi hắn đặt tách trà xuống bàn, rồi lại não nùng nhìn hắn. “Hình như John có nói với tôi là anh biết Charlie?”

“Vâng, đúng thế.” Strike đáp. “Tôi không bao giờ quên được anh ấy cả.”

“Đương nhiên rồi. Nó là đứa trẻ đáng yêu nhất. Ai cũng nói thế. Đứa trẻ xinh xắn, dễ thương nhất mà tôi từng biết. Không ngày nào mà tôi không nhớ nó cả.”

Bên ngoài cửa sổ, đám trẻ con vẫn đang hò hét, hàng cây tiêu huyền lao xao. Strike nghĩ đến một sáng mùa đông vài tháng trước. Khi đó hẳn hàng cây đã rụng lá, chỉ còn trơ trụi cành khô, còn Lula đang ngồi ngay chỗ hắn đây, đôi mắt xinh đẹp dán vào tấm hình của Charlie quá cố, trong khi bà mẹ mê man kể lại một câu chuyện khủng khiếp.

“Trước đó tôi chưa bao giờ kể chuyện Charlie cho Lula cả. Tôi còn nhớ, hôm đó Charlie và John đạp xe ra ngoài chơi. Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng John gào thét, và tiếng Tony la hét, rồi la hét…”

Strike vẫn chưa đặt bút viết. Hắn mải quan sát gương mặt người đàn bà hấp hối đang kể chuyện.

“Alec không để tôi nhìn thấy cảnh đó, không cho tôi tới gần mỏ đá. Khi ông ấy kể lại, tôi ngất xỉu. Tôi tưởng tôi chết mất thôi. Tôi muốn chết. Tôi không hiểu tại sao Chúa có thể để chuyện đó xảy ra được.

“Nhưng sau đó tôi nghĩ rằng có lẽ tôi đáng chịu tất cả,” phu nhân Bristow mơ hồ nói, mắt dán lên trần nhà. “Tôi luôn tự hỏi phải chăng mình đang bị trừng phạt. Vì tôi yêu thương cả ba quá mức. Tôi nuông chiều chúng. Tôi không biết nói không Charlie, Alec rồi cả Lula. Tôi nghĩ ắt hẳn đó phải là sự trừng phạt bởi vì nếu không thì quá độc ác, phải vậy không? Chúa khiến tôi phải chịu đau đớn đến ba lần.”


Strike không biết nói sao. Dường như bà ta muốn tìm kiếm chút thương hại, một sự thương hại vượt ra ngoài khả năng của hắn. Phu nhân Bristow nằm đó, quấn trong lớp áo choàng vô hình của một vị thánh tử vì đạo, mang thêm sự bất lực và thụ động như những món đồ trang sức. Nhưng khi nhìn bà ta, Strike vẫn thấy không quý mến nổi.

“Tôi rất muốn có Lula,” phu nhân Bristow nói, “nhưng tôi không nghĩ nó… Nó là một đứa bé đáng yêu. Rất xinh đẹp. Vì nó tôi có thể làm tất cả. Nhưng nó không yêu tôi như Charlie và John yêu tôi. Có lẽ đã quá trễ. Có lẽ vì chúng tôi nhận nuôi nó quá trễ.

“Khi nó mới về John ghen tị lắm. Thằng bé rất đau khổ sau khi Charlie… nhưng rồi hai đứa trở nên rất thân thiết. Thân lắm.”

Một cái nhướng mày khiến lớp da mỏng như giấy trên trán bà ta nhăn lại.

“Vậy nên Tony đã nói sai.”

“Ông ấy nói sai chuyện gì?” Strike khẽ hỏi.

Ngón tay phu nhân Bristow co lại trên tấm chăn. Bà ta nuốt nước bọt.

“Tony nghĩ chúng tôi không nên nhận nuôi Lula.”

“Tại sao không?” Strike hỏi.

“Tony không thích đứa nào trong đám con tôi cả” Yvette Bristow trả lời. “Em trai tôi là người rất nghiệt ngã. Rất lạnh lùng. Cậu ấy nói những lời thật khủng khiếp sau khi Charlie chết. Alec xông vào đánh cậu ấy. Những chuyện Tony nói không hề đúng sự thật. Không đúng tí nào cả.”

Đôi mắt mờ đục của bà ta nhìn mặt Strike, hắn thoáng nhận ra người đàn bà của ngày trước, khi hãy còn nhan sắc: một chút quyến luyến, một chút trẻ con, xinh đẹp, thích phụ thuộc vào người khác. Một người đàn bà cực kỳ nữ tính, được nâng niu, bảo vệ trong vòng tay Ngài Alec; mọi ước ao, mọi ý thích tình cờ đều được thoả mãn.

“Tony nói gì vậy?”

“Những điều khủng khiếp về John và Charlie. Rất kinh khủng. Tôi không…” bà ta nói, yếu ớt, “… muốn lặp lại. Rồi khi nghe rằng chúng tôi sắp nhận nuôi một bé gái, cậu ấy gọi ngay cho Alec để ngăn cản. Alec giận lắm," bà ta thì thào. “Sau đó ông ấy cấm cửa Tony”.

“Hôm đó bà có kể hết chuyện này cho Lula không?” Strike hỏi. “Về Tony, về những điều ông ấy nói sau khi Charlie chết, rồi cả khi bà sắp nhận nuôi cô ấy?”

Câu hỏi đó với phu nhân Bristow dường như một lời quở trách. Bà ta khống chế:

“Tôi không nhớ chính xác đã nói gì với nó. Khi đó tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Nhiều thuốc men quá nên tôi hơi buồn ngủ. Tôi không nhớ rõ lắm…”

Và rồi, phu nhân Bristow bất ngờ đổi chủ đề:

“Anh chàng đó khiến tôi nhớ đến Charlie. Bạn trai của Lula ấy. Một cậu rất đẹp trai. Tên gì nhỉ?”

“Evan Duffield?”

“Đúng vậy. Anh ta có đến thăm tôi. Cũng mới đây thôi. Tôi không biết chính xác… tôi không còn nhớ ngày tháng nữa. Nhiều thuốc men quá. Nhưng anh ta có đến thăm tôi. Thật là tử tế. Anh ta muốn nói chuyện về Lula”.

Strike nhớ Bristow từng nói mẹ anh ta không biết Duffield là ai. Hắn tự hỏi phải chăng phu nhân Bristow đã vờ vĩnh với ông con trai, kiểu như cố tỏ ra đãng trí để được Bristow chú ý chăm sóc hơn.

“Charlie mà còn sống hẳn cũng sẽ đẹp trai như thế. Hẳn nó phải thành ca sĩ, hay diễn viên. Nó rất thích trình diễn, anh có nhớ không? Tôi thấy thương Evan quá. Anh ta ngồi đây khóc với tôi. Anh ta nói cứ tưởng Lula có người khác”.

“Người khác là ai?”

“Tay ca sĩ ”, phu nhân Bristow nói mơ hồ. “Tay ca sĩ viết bài hát về Lula. Khi còn trẻ và đẹp như vậy người ta dễ cư xử tàn nhẫn. Tôi thấy tội Evan. Anh ta nói rằng anh ta rất ân hận. Tôi nói anh ta không có việc gì phải ân hận cả”.

“Tại sao anh ta ân hận?”

“Vì đã không theo nó vào nhà. Vì đã không có ở đó, để ngăn nó lại”.

“Nếu bà có thể nhớ lại thêm một chút, ngay hôm trước khi Lula mất…?”

Bà ta tỏ vẻ hơi trách móc.

“Tôi e là tôi không nhớ gì nữa. Tôi đã kể với anh tất cả những gì tôi còn nhớ. Lúc đó tôi vừa ra viện. Tôi không tỉnh táo. Nhiều thuốc giảm đau quá”.

“Tôi hiểu. Tôi chỉ muốn biết hôm đó Tony có ghé thăm bà không?”

Im lặng một lúc. Gương mặt yếu ớt của phu nhân Bristow đanh lại.

“Không, tôi không nhớ là Tony ghé qua”, cuối cùng bà ta lên tiếng. “Tôi biết cậu ấy nói là có ghé qua thăm, nhưng tôi không nhớ. Có lẽ khi đó tôi đang ngủ”.

“Ông ấy nói lúc đó Lula cũng đang ở đây”, Strike nói.

Phu nhân Bristow khẽ nhún đôi vai gầy gò yếu ớt.

“Có lẽ vậy”, bà ta nói tiếp, “nhưng tôi không nhớ”. Rồi bà ta nói to hơn một chút. “Cậu ấy đã dễ chịu hơn với tôi, vì biết tôi gần đi rồi. Cậu ấy hay ghé thăm lắm. Đương nhiên là lúc nào cũng nói xấu John. Xưa nay cậu ấy vẫn thế. Nhưng John rất hiếu thảo với tôi. Nó đã đỡ đần tôi rất nhiều khi ốm đau…làm cả những việc mà đáng ra con trai không phải làm. Những việc đó nếu Lula làm thì hợp lý hơn… nhưng con bé được chiều quá. Tôi yêu nó lắm, nhưng nhiều khi nó khá ích kỷ. Rất ích kỷ”.

“Vậy vào cái ngày cuối cùng đó, lần cuối cùng bà gặp Lula…” Strike cố tìm cách trở lại chuyện chính, nhưng phu nhân Bristow đã ngắt lời hẳn.

“Sau khi nó ra về, tôi rất buồn”, bà ta nói. “Buồn quá đỗi. Mỗi khi nhắc chuyện Charlie tôi đều cảm thấy như thế. Con bé thấy tôi đang rất buồn, nhưng vẫn đi gặp bạn. Lúc đó tôi phải uống thuốc, rồi tôi thiếp đi. Không, tôi không hề gặp Tony; cũng không hề gặp ai khác. Tony nói cậu ấy có ghé qua, nhưng tôi không nhớ gì nữa, cho đến khi John đánh thức tôi dậy để ăn tối. John rất giận. Nó còn rầy tôi nữa”.

“Tại sao vậy?”

“Nó nói tôi uống nhiều thuốc quá”, phu nhân Bristow trả lời, bối rối như một bé gái. “Tôi biết nó chỉ muốn tốt cho tôi, tội nghiệp John, nhưng nó không nhận ra rằng… nó không thể… Đời tôi đã quá nhiều đau đớn. Đêm đó nó ngồi với tôi rất lâu. Chúng tôi nói về Charlie. Nói đến tận sáng sớm. Và trong khi chúng tôi nói chuyện”, bà ta hạ giọng, thì thào, “ngay đêm đó, Lula ngã xuống… từ ban công.

“John phải làm cái việc là báo tin cho tôi biết, ngay sáng hôm sau. Cảnh sát đến trước nhà khi trời vừa sáng. Sau đó John vào phòng ngủ để nói với tôi và…”

Bà ta nghẹn ngào, khẽ lắc đầu chậm chạp, dường như không còn sinh khí.

“Vì vậy mà ung thư tái phát, tôi biết mà. Người ta chỉ chịu được chừng đó đau đớn”.

Giọng bà ta càng lúc càng nhịu. Hắn tự hỏi không biết bà ta uống bao nhiêu Valium rồi. Hai mắt phu nhân Bristow nặng trĩu, khép lại.

“Yvette, tôi dùng nhà vệ sinh của bà được không?” hắn hỏi.

Bà ta cho phép bằng cái gật đầu thiêm thiếp.

Strike đứng dậy, nhanh nhẹn và nhẹ nhàng di chuyển thân hình bệ vệ. Hắn đi thẳng vào tủ quần áo siêu lớn.

Những cánh cửa gỗ gụ trong tủ chạm đến trần nhà. Hắn mở một cánh ra, thấy những giá treo đầy nhóc các loại áo đầm và áo khoác, bên trên có kệ đựng túi xách và mũ. Mùi âm ẩm của giầy cũ và vải vóc khiến hắn cảm giác như đang đứng trong cửa hàng từ thiện bán đồ cũ, mặc dù đám đồ đạc ở đây hẳn cực kỳ đắt đỏ. Hắn khẽ mở hết cánh cửa này đến cánh cửa khác, đến cánh thứ tư, hắn thấy mấy cái túi xách còn mới nguyên, đủ màu sắc, tất cả được nhồi nhét trên kệ.

Hắn lấy xuống chiếc túi màu xanh, mới cứng, sáng bóng. Chiếc túi có logo GS và lớp vải lót bên trong bằng lụa có dây kéo. Hắn cho tay vào bên trong chiếc túi, miết ngón tay khắp các góc rồi khéo léo đặt vào chỗ cũ.

Tiếp đến hắn chọn chiếc túi màu trắng có lớp lót in hoa văn cách điệu kiểu châu Phi. Hắn lại miết ngón tay trong túi. Rồi hắn mở khoá kéo, tháo lớp vải lót.

Y như Ciara đã mô tả, lớp vài lót rời ra thành một chiếc khăn quàng cổ có viền là dây khoá kéo, để lộ phần da nham nhám màu trắng bên trong túi. Vẫn không thấy gì cả, cho tới khi hắn nhìn thật kỹ. Một đường màu xanh nhạt lộ ra dọc theo tấm bìa cứng bọc vải hình chữ nhật ở đáy túi. Hắn nhấc tấm bìa lên. Bên dưới là một tờ giấy màu xanh nhạt đã được gấp lại. Chữ viết trên tờ giấy khá cẩu thả.

Strike nhanh tay nhét lớp vải lót trở lại túi rồi đặt vào chỗ cũ. Hắn rút từ trong túi áo ra một cái bao ni lông, bỏ tờ giấy xanh vẫn chưa kịp đọc vào đó, rồi đóng cánh cửa lại và tiếp tục mở các cánh khác. Đằng sau cánh cửa gần cuối là một cái két sắt có khoá mã số.

Strike lấy ra thêm một bao ni lông nữa, lồng tay vào và bắt đầu bấm mã số. Nhưng trước khi hắn kịp thử thì bên ngoài có tiếng động. Hắn vội vàng nhét bao ni lông vào trong túi áo, đóng cửa tủ không một tiếng động và quay trở lại phòng ngủ. Cô y tá Macmillan đang cúi xuống bên phu nhân Bristow. Khi nghe tiếng bước chân hắn cô ta ngẩng lên nhìn quanh.

“Tôi đi nhầm”, Strike nói. “Tôi cứ tưởng là nhà vệ sinh”.

Rồi hắn đi vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại. Trước khi bấm xả bồn cầu và vặn vòi nước để cô y tá có thể nghe được, hắn đọc bản di chúc cuối cùng của Lula Landry, viết tháu trên tờ giấy lấy từ thư phòng của phu nhân Bristow. Người làm chứng là Rochelle Onifade.

Khi hắn trở ra, Yvette Bristow vẫn nằm đó, mắt nhắm nghiền.

“Bà ấy thiếp đi rồi”, cô y tá dịu dàng nói. “Bà ấy dạo này hay ngủ như vậy lắm”.

“Vâng”, Strike nói, hai tai nóng bừng. “Khi phu nhân tỉnh dậy, phiền cô nhắn lại là tôi xin phép ra về. Tôi phải đi đây”.

Hai người cùng đi ra, dọc theo hành lang ấm cúng.

“Phu nhân Bristow trông rất yếu”, Strike bình luận.

“Ồ vâng, đúng vậy”, cô y tá đáp lời. “Bà ấy có thể đi bất cứ lúc nào. Bà ấy yếu lắm rồi”.

“Tôi nghĩ hình như tôi để quên…” Strike băng quơ nói rồi rẽ trái vào căn phòng khách sơn vàng lúc hắn mới đến. Hắn cúi người trên chiếc sofa, che tầm nhìn của cô y tá và cẩn thận đặt ống nghe điện thoại ngay ngắn trở lại lên giá đỡ.

“À đây rồi”, hắn nói, giả vờ nắm lấy một vật rất nhỏ trong bàn tay rồi bỏ vào túi. “Cảm ơn cô đã mời cà phê”.

Tay cầm nắm cửa, hắn quay lại hỏi cô y tá.

“Phu nhân vẫn lạm dụng Valium như xưa, nhỉ?”

Không hề nghi ngờ gì cả, cô y tá mỉm cười độ lượng.

“Vâng, thì vậy, nhưng bây giờ cũng không thể hại gì nữa. Mà nói thật”, cô ta tiếp, “phải tay tôi, tôi mắng cho mấy tay bác sĩ đó một trận. Bà ấy có tới ba bác sĩ chuyên kê đơn cho bà mua Valium từ bao năm nay, nhìn trên nhãn dán hộp thì biết”.

“Thật chẳng ra gì”, Strike nói. “Một lần nữa cảm ơn cô. Tạm biệt”.

Hắn gần như chạy xuống cầu thang, điện thoại đã cầm sẵn trong tay. Hắn phấn chấn đến nỗi không nhìn lối đi, hụt chân trên cầu thang. Chiếc chân giả bị lệch về một bên, hắn rống lên đau đớn. Đầu gối trật ra khiến hắn ngã rầm xuống sáu bậc thang, nằm nguyên một đống. Khớp gối và mỏm chân cụt của hắn đau đớn kinh hoàng như lúc vừa mới bị cưa, lớp da non còn đang kéo lại.

“Mẹ kiếp! Đau quá!”

“Anh không sao chứ?”, cô y tá Macmillan gọi hắn từ trên lan can, từ dưới nhìn lên gương mặt của cô ta lộn ngược trông rất buồn cười.

“Tôi ổn… Không sao cả!” hắn hét ngược trở lại. “Trượt chân thôi! Đừng lo! Chó chết, khốn nạn, mẹ kiếp”, hắn rên rỉ, thở hồng hộc rồi vịn tay vào trụ cầu thang gần nhất để đứng dậy, rón rén không dám đứng thẳng trên chiếc chân giả đã bị lệch.

Hắn đi cà nhắc xuống phần cầu thang còn lại, cố dựa vào lan can; vừa đi vừa nhảy lò cò qua sảnh đón khách rồi bám vào cánh cửa dày để lết xuống bậc tam cấp trước toà nhà.

Đám trẻ con học thể dục đang chuẩn bị về lại trường để kịp bữa trưa, đi thành hàng rồng rắn xanh xanh ở phía xa. Strike đứng dựa lưng vào bức tường gạch ấm áp, vừa chửi thề liên tục, vừa tự hỏi rằng không biết chân cẳng mình đã hư hại đến đâu. Hắn thấy đau đớn kinh khủng, cảm giác như lớp da mỏm chân đang sưng tấy bị rách ra, rát buốt trong lớp lót bảo vệ. Viễn cảnh đi bộ về trạm tàu điện ngầm trở nên vô cùng thê thảm.

Hắn ngồi ở bậc tam cấp và gọi taxi. Trong khi chờ xe đến hắn gọi cho Robin, rồi Wardle, rồi văn phòng công ty luật Landry, May, Patterson.

Chiếc xe taxi đen đỗ xịch ở góc đường. Lần đầu tiên hắn nhận ra xe taxi ở London trông giống hết như những cỗ xe tang nhỏ. Hắn gượng đứng dậy, lê lết xuống vỉa hè, mỏm chân đau buốt.

Phần Năm

Felix qui potuit rerum cognoscere causas

Người đời ai dễ gặp may

Ngọn ngành nguyên cớ tỏ hay tận tường.

- Virgil, Georgics, Quyển 2

1

“Tôi cứ nghĩ”, Eric Wardle chậm rãi nói, nhìn xuống tờ di chúc đựng trong bao ni lông, “hẳn anh muốn đưa cái này cho thân chủ xem trước”.

“Thì vậy, nhưng ổng đang ở Rye”, Strike nói, “mà vụ này thì rất khẩn. Tôi đã nói rồi, tôi đang cố ngăn ngừa hai vụ án mạng nữa. Hiện giờ chúng ta đang đối mặt với một kẻ điên loạn, Wardle à”.

Mồ hôi hắn rịn ra vì đau đớn. Hắn ngồi bên cạnh cửa sổ nắng rọi của quán Feathers vừa khẩn thiết kêu gọi tay cảnh sát vào cuộc vừa lo lắng không biết đầu gối có bị trật khớp không và khúc xương chày ngắn ngủn còn lại liệu có bị nứt thêm không sau cú ngã cầu thang vừa rồi. Lúc còn ở trong xe hắn không muốn giở chân ra xem. Chiếc taxi chở hắn đến vẫn còn đang đứng đợi ngay bên mép đường. Đồng hồ tính tiền đang dần dần ngấu nghiến khoản ứng trước mà Bristow đã trả. Có thể hắn sẽ không được nhận thêm khoản nào nữa vì lệnh bắt hung thủ có thể được phát ra ngay hôm nay, nếu Wardle chịu đứng dậy ra tay.

“Đồng ý là cái này có thể cho thấy động cơ…”

“Có thể?” Strike lặp lại. “Có thể?” Mười triệu bảng mà chỉ có thể là động cơ hả? Nói nghe hay quá…”

“…nhưng tôi cần có chứng cứ rõ ràng tại toà, mà anh lại không mang tới”.

“Tôi vừa nói chứng cứ ở đâu rồi đó! Từ đầu đến giờ tôi đã sai chưa? Tôi đã nói là có tờ di chúc, rồi đây”, Strike giật mép cái túi nhựa, “Cái quỷ gì đây? Anh còn chờ gì nữa mà còn chưa xin lệnh soát?”

Wardle đưa tay lên vuốt ve gương mặt điển trai, như thể đang bị sâu răng, rồi cau mày nhìn tờ di chúc.

“Trời đất”, Strike nói, “bao nhiêu lần nữa đây? Tansy Bestigui lúc đó ở ngoài ban công, bà ta nghe tiếng Landry nói “Đã xong hết rồi…”

“Anh liều quá đó bồ tèo”, Wardle nói. “Luật sư bên bị sẽ chụp ngay vụ anh dám nói dối với nghi can. Một khi Bestigui biết anh bịa vụ tấm ảnh, lão ta sẽ phủ nhận tất cả”.

“Cứ để lão phủ nhận. Tansy sẽ nói thật. Bà ta muốn nói lắm rồi. Nhưng nếu anh gan sứa tới mức không chịu làm gì cả, Wardle à”, Strike nói, mồ hôi lạnh chảy dọc sống lưng còn khúc chân phải thì đau như thiêu như đốt, “và nếu thêm một người thân nữa của Landry bị giết chết, tôi sẽ đi thẳng tới chỗ bọn báo chí to mồm đó. Tôi sẽ nói rằng tôi đã cung cấp cho anh đủ mọi thông tin anh tìm được, rằng anh đã có mọi cơ hội để bắt tên giết người mà vẫn không chịu bắt. Lúc đó tôi sẽ bán độc quyền câu chuyện cho chúng, rồi bù vào tiền công điều tra, anh cứ nhắn lại với Carver như vậy.

“Đây”, hắn nói, đẩy một mẩu giấy vừa xé về phía Wardle, trên mẩu giấy có vài mật mã sáu số hắn vừa ghi ra. “Cứ thử mấy số này trước. Giờ thì lo đi xin lệnh soát nhà đi”.

Hắn đẩy tờ di chúc về phía Wardle, trượt xuống khỏi chiếc ghế cao. Mấy phút đi bộ từ quán rượu ra taxi dài dằng dặc. Hắn cứ tì người lên chân phải là vết thương nhức buốt.

~*~

Từ một giờ chiếu, cứ mười phút Robin lại gọi cho Strike, nhưng hắn vẫn không bốc máy. Cô gọi lại lần nữa khi hắn đang chật vật leo lên cầu thang, bám tay vào tay vịn, nặng nhọc nhấc người lên. Cô nghe tiếng chuông điện thoại vọng lên từ cầu thang, bỏ máy xuống và chạy ngay ra.

“Anh đây rồi! Tôi gọi cho anh mãi, có nhiều… Có chuyện gì vậy, anh không sao chứ?”

“Tôi ổn mà,” hắn nói dối.

“Không, anh đang… Chuyện gì vậy?”

Cô chạy xuống cầu thang đỡ hắn. Mặt hắn trắng bệch, mồ hôi rịn ra, Robin thấy như hắn sắp nôn.

“Anh uống nữa hả?”

“Không, uống iếc gì!” Hắn gắt. “Tôi vừa… xin lỗi cô, Robin. Tôi hơi đau. Cần phải ngồi xuống một lát”.

“Mà có chuyện gì? Để tôi…”

“Không sao. Không sao cả. Tôi tự đi được”.

Hắn chậm rãi nhấc người lên bậc thang rồi lê lết về phía chiếc ghế sofa cũ. Khi hắn ngồi phịch xuống, Robin nghe tiếng khung ghế kêu cái rắc. Cô nhủ thầm, Phải mua một cái mới, ngay sau đó lại nghĩ tiếp Nhưng mình sắp đi khỏi đây rồi.

“Có chuyện gì vậy?” cô hỏi.

“Tôi bị ngã cầu thang,” Strike đáp, thở hổn hển một lúc, vẫn còn chưa cởi áo khoác. “Như thằng đần.”

“Cầu thang nào? Có chuyện gì vậy?”

Mặc dù đang rất đau, nhìn vẻ mặt Robin nửa sợ hãi, nửa hồi hộp, hắn không nhịn được cười.

“Tôi không đánh đấm gì cả, Robin à. Tôi chỉ bị trượt chân ngã thôi”.

“Ồ, hiểu rồi. Anh trông hơi… hơi tái. Anh nghĩ có gì nghiêm trọng không? Để tôi gọi taxi… có khi anh phải đi bác sĩ?”

“Không cần đâu. Còn thuốc giảm đau hôm trước không?”

Cô mang ra cho hắn nước lọc và paracetamol. Strike uống thuốc, rồi duỗi chân ra, nhăn mặt. hắn hỏi Robin:

“Sáng giờ có chuyện gì không? Graham Hardacre có gởi tấm ảnh nào không?”

“Có”, Robin trả lời, vội chạy về phía màn hình máy tính. “Đây này”.

Cô kéo chuột ra, nhấp một cái. Bức ảnh Trung uý Jonah Agyeman phóng lớn trên màn hình.

Cả hai im lặng ngắm gương mặt của người thanh niên đẹp trai không thể chối cãi, mặc dù được di truyền hai cái tai to quá khổ từ người cha. Quân phục màu đỏ, đen và ánh vàng rất hợp với anh ta. Nụ cười hơi lệch một bên, xương gò má cao, cằm bạnh và nước da đen hơi ánh đỏ au như màu trà mới pha. Cũng như Lula, anh ta có một vẻ quyến rũ tự nhiên, một điều gì đó không gọi thành tên, nhưng khiến người ta không thể rời mắt.

“Anh ta giống Lula thật,” Robin thì thầm.

“Ừ, giống thật. Còn gì nữa không?”

Robin tập trung trở lại.

“Trời đất, còn nữa… John Bristow gọi cách đây nửa tiếng, nói là không cách gì liên lạc được với anh, còn Tony Landry gọi tổng cộng ba lần.”

“Tôi cũng đoán vậy. Ông ta nói gì?”

“Ổng rất là… lần thứ nhất ổng đòi nói chuyện với anh, rồi khi tôi nói là anh không có ở đây thì dập máy ngay, tôi còn không kịp đưa số di động. Lần thứ hai thì nói là anh phải gọi ngay cho ổng, nhưng dập máy trước khi tôi kịp nói anh vẫn chưa về. Nhưng lần thứ ba thì… ổng rất giận dữ. Chửi bới om sòm.”

“Ở đó mà chửi với bới,” Strike nói, nhăn nhó.

“Thực ra thì ổng không có chửi bới gì tôi, toàn là chửi anh thôi.”

“Ổng nói gì?”

“Tôi cũng chẳng hiểu ổng nói gì, ổng gọi John Bristow là ‘cái thằng đần’ rồi tự nhiên oang oang gì đó về chuyện Alison bỏ việc, hình như nghĩ là có anh nhúng vô, vì sau đó ổng dọa sẽ kiện anh tội phỉ báng, rồi lại tiếp tục chửi bới loạn cả lên.”

“Alison bỏ việc?”

“Đúng vậy.”

“Ổng có nói Alison đi đâu… mà không, đương nhiên là ổng không biết, làm sao mà biết được?” Dường như Strike đang tự nói với mình, thay vì đáp lời Robin.

Hắn nhìn xuống cổ tay. Chiếc đồng hồ rẻ tiền hình như đã va vào một chỗ nào đó khi hắn ngã cầu thang, kim dừng lại ở một giờ kém mười lăm.

“Mấy giờ rồi?”

“Năm giờ kém mười.”

“Trễ vậy sao?”

“Ừ. Anh cần gì nữa không? Tôi có thể ở lại thêm một lúc nữa.”

“Không, tôi muốn cô đi về.”

Giọng hắn nghe kỳ khôi đến nỗi thay vì đi lấy áo khoác và túi xách, Robin vẫn đứng lì tại chỗ.

“Anh nghĩ sẽ có chuyện gì hả?”

Strike vẫn loay hoay với chỗ gắn chân giả, ngay dưới đầu gối.

“Không có gì cả. Gần đây cô làm quá giờ nhiều rồi. Hẳn Matthew sẽ rất vui nếu hôm nay cô về sớm.”

Hắn không thể chỉnh lại chân giả mà không kéo ống quần lên.

“Thôi mà Robin, đi về đi,” hắn nói, ngước nhìn cô thư ký.

Robin chần chừ một lúc nữa rồi đi lấy áo khoác và túi xách.

“Cảm ơn cô,” hắn nói. “Hẹn mai gặp lại.”

Robin đã đi khỏi. Strike đợi nghe tiếng giày Robin gõ lên cầu thang sắt rồi mới kéo ống quần lên, nhưng hắn chẳng nghe gì cả. Cửa kính mở ra, Robin quay trở lại.

“Anh đang chờ một người nào đó,” Robin lên tiếng, nắm chặt mép cửa. “Phải vậy không?”

“Cũng có thể,” Strike trả lời, “nhưng không có gì đâu.”

Nhìn vẻ căng thẳng lo lắng trên gương mặt cô thư ký, hắn cố mỉm cười.

“Đừng lo gì cho tôi cả.” Sắc mặt Robin vẫn chưa giãn ra. Hắn nói tiếp. “Hồi còn tại ngũ tôi có chơi đấm bốc đó, cô biết không.”

Robin thoáng cười.

“Đúng rồi, anh có kể chuyện đó.”

“Thật sao?”

“Kể đi kể lại nữa là khác. Đêm đó… anh nhớ mà.”

“À, ra vậy. Nhưng mà tôi có chơi đấm bốc thật.”

“Thực ra anh chờ ai vậy?”

“Matthew sẽ không cảm ơn tôi đâu nếu tôi nói cho cô biết. Về nhà đi Robin. Tạm biệt cô, mai gặp lại nhé.”

Lần này, mặc dù vẫn còn miễn cưỡng, Robin ra về thật. Hắn đợi nghe tiếng cánh cửa mở ra phố Denmark đóng sầm lại rồi mới kéo ống quần lên, tháo chân giả ra và kiểm tra phần đầu gối bị sưng phồng, rồi cả mỏm chân cụt trầy trụa tấy đỏ. Không biết cái chân bị hành tội tới cỡ nào, nhưng tối nay hắn không còn thời gian để đi bác sĩ.

Hắn hơi tiếc. Giá mà lúc nãy hắn nghĩ ra chuyện nhờ Robin đi mua ít thức ăn trước khi cô về. Strike chật vật nhảy lò cò, bám vào bàn, nóc kệ đựng hồ sơ rồi tay vịn ghế sofa. Loay hoay một lúc hắn cũng pha được trà. Hắn ngồi xuống ghế của Robin, ăn hết nửa gói bánh qui và ngắm gương mặt của Jonah Agyeman. Mấy viên paracetamol dường như vẫn chưa ngấm gì cả.

Sau khi ăn sạch sẽ gói bánh, Strike mở điện thoại ra kiểm tra. Có rất nhiều cuộc gọi nhỡ từ Robin và hai cuộc từ John Bristow.

Trong số ba người mà Strike dự đoán sẽ mò tới văn phòng tối nay, hắn muốn Bristow là người đầu tiên xuất hiện. Nếu cảnh sát muốn bằng chứng rõ ràng thì một mình thân chủ của hắn cũng có thể cung cấp được (mặc dù có lẽ ông ta vẫn chưa nhận ra điều đó). Nếu Tony Landry hoặc Alison Creswell xuất hiện. Mình sẽ phải… Strike thoáng phì cười một mình, vì hắn vừa nghĩ trong đầu câu “vững chân mà tùy cơ ứng biến”. Chân với chả cẳng!

Nhưng đã sáu giờ, rồi sáu giờ rưỡi. Vẫn không có ai bấm chuông. Strike xoa kem vào mỏm chân cụt, rồi nghiến răng gắn chân giả vào, vẫn vô cùng nhức nhối. Hắn lê lết vào văn phòng bên trong, miệng rên hừ hừ vì đau, ngồi phịch xuống ghế. Strike bỏ cuộc, không chờ đợi gì nữa. Hắn tháo chân giả ra, úp mặt xuống bàn, không thiết làm gì hơn là chợp mắt một lúc.

2

Có tiếng bước chân trên cầu thang. Strike ngồi bật dậy, không biết vừa ngủ năm phút hay năm mươi phút. Rồi có tiếng đập rầm rầm vào cửa kính.

“Vào đi, cửa mở!” hắn ngồi tại chỗ hét lên, tranh thủ cúi xem ống quần đã thả xuống chưa. Chiếc chân giả vẫn chưa được gắn lại.

Strike thấy nhẹ cả người khi John Bristow bước vào, mắt liên tục hấp háy đằng sau cặp kính dày, trông rất kích động.

“Chào anh. Anh ngồi xuống đi.”

Nhưng Bristow bước về phía hắn, mặt đỏ rần rần, giận dữ hệt như lúc hắn từ chối không nhận điều tra vụ án. Thay vì ngồi xuống, ông ta đứng đó, với tay chụp lấy lưng ghế.

“Tôi đã nói với anh rồi,” ông ta nói, mặt thoắt đỏ thoắt tái, chỉ ngón tay xương xẩu vào mặt hắn. “Tôi đã nói rõ ràng là tôi không muốn anh gặp mẹ tôi mà không có mặt tôi.”

“Tôi biết là anh đã nói vậy nhưng…”

“Mẹ tôi giờ bấn loạn không thể tưởng. Tôi không biết anh đã nói gì với mẹ tôi, nhưng cả buổi chiều hôm nay tôi cứ phải nghe mẹ tôi khóc lóc rền rĩ trên điện thoại!”

“Tôi rất tiếc; vậy mà tôi thấy phu nhân không phiền gì khi tôi…”

“Mẹ tôi yếu lắm rồi!” Bristow hét lên, hàm răng thỏ lấp ló. “Ai cho anh đi đi gặp mẹ tôi mà không có tôi? Ai cho anh làm chuyện đó?”

“John à, như tôi đã nói hôm đám tang Rochelle, tôi nghĩ chúng ta đang phải đối mặt với một tên giết người hàng loạt,” Strike đáp. “Tình hình vô cùng nguy hiểm, tôi muốn chuyện này phải chấm dứt.”

“Anh muốn nó chấm dứt à? Thế anh nghĩ tôi muốn gì?” Bristow la hét, giọng ông ta khàn khàn, the thé. “Anh có biết là anh vừa làm gì không? Mẹ tôi thì bấn loạn, còn bạn gái tôi thì biến mất, Tony đang đổ hết cho anh đó! Anh đã làm gì với Alison? Cô ấy ở đâu rồi?”

“Tôi không biết. Anh thử gọi điện cho cổ chưa?”

“Alison không bốc máy. Chuyện quái gì thế này? Ngày hôm nay tôi chạy đến bở cả hơi tai mà công cốc cả, rồi tôi về lại văn phòng…”

“Chạy bở hơi tai mà công cốc?” Strike lặp lại, kín đáo nhấc đầu gối, đặt ngay lên chân giả.

Bristow ngồi vào ghế đối diện, thở hồng hộc, nheo mắt nhìn Strike đang ngồi trong ánh nắng chiều gay gắt rọi qua cửa sổ sau lưng tay thám tử.

“Có ai đó” ông ta giận dữ nói, “gọi cho thư ký của tôi ngay sáng nay, giả vờ là một khách hàng rất quan trọng của công ty ở Rye, đòi họp khẩn cấp. Tôi cất công đi đến đó, chỉ để nghe người ta nói rằng ông ấy đang ở nước ngoài, mà cũng chẳng có ai ở đó gọi tôi cả. Anh làm ơn,” ông ta nói thêm, đưa tay che mắt, “kéo cái rèm cửa xuống? Chói quá tôi chẳng thấy gì cả.”

Strike giật sợi dây, tấm rèm lạt xạt rơi xuống. Căn phòng mát hẳn, mờ tối, chỉ còn mấy vạt nắng qua khe rèm.

“Nghe lạ thật,” Strike nói. “Cứ như thể có người muốn dụ anh đi khỏi thành phố vậy.”

Bristow không đáp lại. Ông ta nhìn hắn chằm chằm, thở phập phồng.

“Đủ rồi,” Bristow đột ngột lên tiếng. “Tôi muốn chấm dứt cuộc điều tra ở đây. Anh cứ giữ hết phần tôi đã trả. Tôi phải lo cho mẹ tôi trước.”

Strike rút điện thoại ra khỏi túi quần, bấm vài nút rồi đặt lên đùi.

“Anh không muốn biết hôm nay tôi tìm thấy gì trong tủ quần áo của mẹ anh hả?”

“Anh tìm… anh dám lục lọi tủ của mẹ tôi?”

“Đúng vậy. Tôi muốn xem mấy cái túi xách tay được gởi cho Lula, ngay hôm cô ấy chết.”

Bristow bắt đầu lắp bắp:

“Anh… anh…”

“Mấy cái túi đó có lớp vải lót ở trong, có thể tháo rời được. Kỳ khôi thật, đúng không? Trong cái túi màu trắng, ngay dưới lớp vải lót là một tờ di chúc viết tay của Lula, viết trên giấy màu xanh lấy từ thư phòng nhà mẹ anh. Rochelle Onifade ký tên làm chứng. Tôi đã nộp cho cảnh sát rồi.”

Bristow há hốc miệng. Trong vòng vài giây dường như ông ta cứng họng, không nói được. Cuối cùng, ông ta thì thào:

“Nhưng… di chúc viết gì vậy?”

“Rằng cô ấy để lại mọi thứ, tất cả tài sản, cho anh trai, Trung úy Jonah Agyeman, Kỹ sư Quân đội Hoàng gia.”

“Jonah… ai kia?”

“Anh ra xem máy tính ở bên ngoài. Có hình trên đó.”

Bristow đứng dậy, đi như mộng du ra phòng ngoài. Strike thấy màn hình máy tính sáng lên khi Bristow kéo chuột. Gương mặt điển trai của Agyeman hiện lên, nhếch mép cười trong bộ quân phục tinh tươm.

“Ôi trời đất ơi,” Bristow thốt lên.

Ông ta quay lại chỗ Strike, ngồi xuống ghế, miệng vẫn còn há hốc.

“Tôi… tôi không thể tin nổi.”

“Đó cũng chính là người bị camera an ninh quay lại,” Strike nói, “khi đang bỏ chạy từ hiện trường trong đêm Lula chết. Khi đó anh ta đang nghỉ phép. Anh ta ở cùng bà mẹ góa bụa dưới Clerkenwell. Vì vậy mà hai mươi phút sau anh ta phải ba chân bốn cẳng chạy về phía phố Theobalds để về nhà.”

Bristow há hốc, nấc một tiếng.

“Vậy mà họ nói là tôi bị hoang tưởng,” ông ta gần như hét lên. “Nhưng tôi chẳng hề hoang tưởng chút nào!”

“Không, anh không hề hoang tưởng,” Strike nói. “Không hoang tưởng. Mà là điên loạn vô đối.”

m thanh của London vọng vào qua khung cửa sổ phủ rèm. Thành phố dường không lúc nào ngơi nghỉ, luôn có những tiếng ầm ầm, la lối, cả tiếng máy lẫn tiếng người. Trong phòng lúc này không có tiếng động nào trừ hơi thở gấp gáp của Bristow.

“Xin lỗi?” ông ta lên tiếng, lịch sự đến lố bịch. “Anh vừa nói gì đó?”

Strike mỉm cười.

“Tôi nói là anh điên loạn vô đối. Anh giết em gái mà không hề bị phát hiện, rồi lại đi nhờ tôi điều tra cái chết của cô ấy.”

“Anh đừng… đừng có đùa chuyện này.”

“Tôi nói rất nghiêm túc. Ngay từ ban đầu tôi đã thấy anh chính là người hưởng lợi nhiều nhất từ cái chết của Lula. Mười triệu bảng, sau khi mẹ anh cũng lên đường. Không hề nhỏ, đúng không? Nhất là khi anh chẳng có gì hơn là tiền lương hiện tại, mặc dù anh cứ ra rả về mớ thừa kế của ông già. Cổ phiếu của Albris dạo này rẻ hơn vé số, phải vậy không?”

Bristow tiếp tục há hốc thêm mấy giây nữa, rồi ngồi thẳng dậy, liếc về chiếc giường xếp trong góc phòng.

“Một người nghèo mạt rệp, phải ăn nhờ ở đậu ở ngay chỗ làm mà dám nói vậy, tôi thấy thật nực cười.” Giọng của Bristow bình thản, nhạo báng nhưng hơi thở lại gấp gáp lạ thường.

“Tôi biết anh có nhiều tiền hơn tôi,” Strike đáp. “Nhưng, như anh đã nhận xét hoàn toàn đúng, thực ra ai mà chẳng có nhiều tiền hơn tôi. Thế mà, tôi có thể tự nói rằng tôi chưa bao giờ thụt két thân chủ nào cả. Anh chôm của Conway Oates được bao nhiêu thì Tony mới phát hiện ra?”

“Ồ, bây giờ tôi còn thêm tội tham ô nữa à?” Bristow đáp trả, bật ra một tiếng cười giả tạo.

“Đúng thế,” Strike nói. “Nhưng chuyện đó chẳng liên quan gì tới tôi. Tôi không quan tâm chuyện anh giết Lula vì anh muốn có tiền bù vào chỗ đã ăn cắp của Conway Oates, hay vì anh muốn có mấy triệu bảng của cô ấy, hay vì anh căm ghét Lula. Nhưng chắc bồi thẩm đoàn sẽ muốn biết. Mấy người đó lúc nào cũng quan tâm tới động cơ phạm tôi.”

Hai đầu gối Bristow lại giật lia lịa.

“Anh mất trí rồi,” ông ta nói, cố cười thành tiếng. “Anh tìm ra được một tờ di chúc, theo đó Lula không để lại gì cho tôi, mà cho cái người kia.” Ông ta chỉ tay về phía phòng ngoài, nơi có hình ở Jonah. “Anh vừa nói đó là người đi về phía căn hộ của Lula đúng cái đêm con bé ngã khỏi ban công, rồi mười phút sau bỏ chạy, hình ảnh bị ghi lại hết trên đoặn băng. Vậy mà anh dám buộc tội tôi. Thật lố bịch.”

“John, ngay từ trước khi tìm đến thuê tôi điều tra, anh đã biết người trong đoạn băng là Jonah. Rochelle đã nói với anh. Cô ta có mặt ở Vashti lúc Lula gọi cho Jonah, hẹn gặp ngay đêm đó. Rồi sau đó chính cô ta làm chứng tờ di chúc. Rochelle đã tìm gặp anh, kể lại mọi thứ để tống tiền. Cô ta muốn có tiền để mua nhà và mấy thứ quần áo đắt đỏ. Đổi lại cô ta sẽ ngậm miệng về chuyện thực ra anh không phải là người thừa kế của Lula.

“Rochelle không hề biết anh giết Lula. Cô ta tưởng chính Jonah đẩy Lula qua cửa sổ. Cô ta rất hận vì phải làm chứng một tờ di chúc không hề có phần mình, rồi sau đó bị Lula bỏ rơi ngay trong cửa hàng. Vậy nên miễn có tiền thì cô ta cũng chẳng thèm quan tâm chuyện thủ phạm vẫn còn nhơn nhơn đâu đó.

“Toàn là bịa đặt. Anh điên rồi.”

“Anh đã tìm mọi cách gây khó để tôi không tìm ra Rochelle,” Strike tiếp tục nói, như thể không nghe thấy Bristow vừa nói gì. “Anh giả vờ là không biết tên cô ta, không biết cô ta sống ở đâu. Anh làm ra vẻ hoài nghi khi tôi nói rằng Rochelle có thể giúp được quá trình điều tra. Chưa hết, anh còn xóa sạch hình trên máy tính của Lula, để tôi không biết Rochelle trông như thế nào. Đành rằng, Rochelle có thể chỉ ngay đến người mà anh muốn gán tội, nhưng mặt khác, cô ta cũng biết có một tờ di chúc không hề có tên anh. Mục tiêu hàng đầu của anh là giữ im lặng về tờ di chúc đó, cho đến khi anh tìm ra và thủ tiêu nó hoàn toàn. Thật là trớ trêu, vì trong suốt thời gian đó, tờ di chúc vẫn nằm trong tủ áo ở nhà mẹ anh.

“Nhưng ngay cả khi anh đốt tờ di chúc thì sao? Anh vẫn không biết liệu Jonah có hay chính anh ta mới là người thừa kế của Lula. Rồi có thêm một nhân chứng từng thấy tờ di chúc mà anh vẫn chưa biết: Bryony Radford, chuyên viên trang điểm của Lula.”

Bristow liếm môi. Strike thấy tay luật sư bắt đầu sợ hãi.

“Bryony không muốn thừa nhận chuyện cô ta lục lọi đồ đạc của Lula. Nhưng cô ta đã nhìn thấy tờ di chúc ở nhà Lula, trước khi Lula kịp giấu đi. Phải tội Bryony bị chứng loạn chữ, nên đọc “Jonah” thành “John”. Cô ta khớp ngay chuyện đó với chuyện Ciara nói Lula sẽ để lại hết cho anh trai, rồi tự thấy khỏi cần khai đã đọc trộm được gì vì đằng nào anh cũng được thừa kế. Anh đúng là được quỷ thần phù hộ, John à.

“Nhưng tôi vẫn hiểu được, với một người bệnh hoạn như anh, giải pháp tốt nhất vẫn là gán tội cho Jonah. Nếu anh ấy bị án chung thân thì chuyện di chúc có xuất hiện hay không cũng không thành vấn đề, lúc đó thì nếu Jonah hay bất kỳ ai khác biết đến tờ di chúc cũng không thay đổi được gì. Đằng nào tiền cũng nằm trong túi anh rồi.”

“Thật nực cười,” Bristow nói, hổn hển. “Anh nên từ bỏ nghề thám tử, chuyển qua viết tiểu thuyết đi Strike. Anh chẳng có lấy một chút bằng chứng nào cả…”

“Tôi có đấy.” Strike ngắt lời ông ta. Bristow im lặng ngay lập tức, gương mặt xanh xao của ông ta hiện ra trong bóng tối. “Đoạn băng hình.”

“Đoạn băng đó cho thấy Jonah Agyeman bỏ chạy từ hiện trường vụ án, như anh vừa công nhận đó thôi!”

“Trên đoạn băng có một người nữa.”

“Vậy anh ta có đồng phạm… một tên cảnh giới.”

“Tôi tự hỏi luật sư bào chữa sẽ viện cớ gì cho anh hả John?” Strike nhẹ nhàng hỏi. “Chứng ái kỷ? Một thứ rối loạn phức cảm, nghĩ mình là Thượng đế? Anh nghĩ không ai làm gì được anh, phải không, vì anh là thiên tài còn tất cả chỉ là khỉ đột? Người bỏ chạy thứ hai không phải là đồng phạm hay cảnh giới của Jonah, cũng không phải là tên trộm xe. Anh ta thậm chí còn không phải là người da đen nữa kia. Anh ta là người da trắng mang găng tay màu đen. Là anh.”

“Không,” Bristow đáp. Tiếng kêu cộc lốc bật ra, đầy hoảng loạn, nhưng sau đó, ông ta gắng nhếch mép cười mai mỉa. “Làm sao là tôi được? Lúc đó tôi ở Chelsea với mẹ tôi. Bà ấy nói với anh thế còn gì. Tony cũng gặp tôi ở đó. Lúc đó tôi ở Chelsea.”

“Mẹ anh là một bệnh nhân nghiện Valium, gần như suốt ngày hôm đó bà ấy ngủ li bì. Sau khi giết Lula anh mới đến Chelsea. Tôi nghĩ hẳn anh đã vào phòng mẹ anh lúc sáng sớm, vặn ngược đồng hồ, đánh thức mẹ anh dậy và giả vờ chỉ mới đến giờ ăn tối. Anh tưởng anh là một tay tội phạm thiên tài nhưng mánh đó đã được làm hàng triệu lần rồi, chỉ là không được dễ dàng như vậy. Với chừng ấy thuốc men trong người, mẹ anh còn không biết hôm đó là ngày nào, nói gì đến giờ giấc.

“Tôi ở Chelsea cả ngày hôm đó,” Bristow lặp lại, đầu gối giật lia lịa. “Cả ngày, chỉ trừ lúc đến văn phòng lấy hồ sơ.”

“Anh lấy cái áo thun dây liền mũ và đôi găng tay từ căn hộ ngay bên dưới nhà Lula. Trong đoạn băng anh mặc hai thứ đó.” Strike nói tiếp, bất chấp câu chen ngang của Bristow, “Sai lầm là ở chỗ đó. Vì cái áo anh mặc là thứ độc nhất vô nhị. Trên thế giới chỉ có một cái, của Guy Somé làm riêng để tặng Deeby Macc. Anh chỉ có thể lấy nó được từ căn hộ của Deeby Macc, nhờ đó mà tôi suy ra được anh nấp ở đâu.”

“Anh không hề có bằng chứng gì cả,” Bristow nói, “Tôi vẫn đợi bằng chứng đây.”

“Đương nhiên là anh đợi rồi,” Strike nói, thản nhiên. “Một người vô tội sẽ không ngồi im nghe tôi nói, mà đã bỏ đi ra từ lâu. Nhưng đừng lo. Tôi có bằng chứng.”

“Anh không thể có gì cả,” Bristow khàn giọng.”

“Động cơ phạm tội, phương tiện và cơ hội, John à. Anh có đủ hết.

“Thôi thì, trở lại ban đầu vậy. Anh không chối chuyện anh đến gặp Lula sáng hôm đó…”

“Đương nhiên tôi không chối.”

“…bởi vì có người thấy anh ở đó. Nhưng tôi nghĩ Lula không hề đưa cho anh hợp đồng với Somé, để anh phải cầm lên lầu cho cô ấy. Tôi đoán anh xoáy cái hợp đồng từ trước. Wilson để cho anh lên nhà. Chỉ vài phút sau anh và Lula cãi nhau dữ dội ngay trước cửa nhà cô ấy. Anh không thể chối vụ đó, vì người lao công có nghe thấy. Thật may cho anh, tiếng Anh của Lechsinka rất tệ nên cô ấy xác nhận đúng như anh kể: rằng anh giận dữ vì Lula vừa quay lại với tay bạn trai nghiện ngập đào mỏ.

“Nhưng tôi nghĩ cuộc cãi vã đó thực ra là về chuyện Lula từ chối không cho anh đồng nào. Bạn bè của Lula, những người tinh ý một chút đều kể rằng từ lâu anh đã nhăm nhe tiền bạc của cô em. Nhưng hôm đó ắt hẳn anh phải bấn lắm, mới xông vào la lối như vậy. Phải chăng hôm đó Tony vừa nhận ra con số thất thoát trong tài khoản của Conway Oates? Lúc đó anh cần tiền gấp lắm sao?”

“Phỏng đoán vô căn cứ,” Bristow nói, đầu gối vẫn giật lên xuống lia lịa.

“Cứ đợi ra tòa rồi biết có căn cứ hay không,” Strike đáp.

“Tôi chưa bao giờ phủ nhận chuyện Lula và tôi có cãi nhau.”

“Sau khi Lula từ chối ký séc cho anh và đóng sầm cửa lại, mặc anh đứng ngoài, anh quay trở xuống. Ngay lúc đó căn hộ tầng hai đang mở cửa. Wilson và nhân viên bảo trì vẫn mải đứng xem bảng điều khiển. Lechsinka hẳn vẫn còn ở trong đó, có lẽ đang hút bụt. Nhờ tiếng động đó mà anh có thể lẻn vào ngay sau lưng hai người kia.

“Nhưng thực ra vụ này cũng chẳng liều lĩnh gì lắm. Nếu họ quay lại và trông thấy anh, anh có thể giả vờ vào tìm Wilson để cảm ơn vì ông ta đã cho anh vào nhà khi sáng. Trong khi hai người còn mải loay hoay với hộp cầu chì, anh lẻn vào rồi nấp đâu đó trong căn hộ. Có nhiều chỗ nấp mà. Tủ áo trống trơn. Hay dưới gầm giường.

Bristow lại lắc đầu, lặng lẽ phủ nhận tất cả. Strike nói tiếp, giọng vẫn thản nhiên như không:

“Hẳn anh có nghe thấy Wilson chỉ cho Lechsinka cách đặt lại báo động và cả mã số 1966. Cuối cùng Lechsinka, Wilson và nhân viên Securibell đi ra, chỉ còn có mỗi một mình anh trong căn hộ. Không may là Lula cũng vừa đi khỏi, nên anh không thể trở lên lầu để tiếp tục bức ép cô ấy nhả tiền ra.”

“Toàn là bịa đặt” ông luật sư nói. “Trong đời tôi chưa bao giờ đi vào căn hộ số Hai. Tôi rời chỗ Lula rồi đến thẳng văn phòng để lấy hồ sơ...”

“Lấy từ Alison, như anh đã kể lúc gặp tôi lần đầu tiên?” Strike hỏi.

Những đốm đỏ bắt đầu hiện ra trên chiếc cổ nổi gân của Bristow. Sau một thoáng ngập ngừng, ông ta hắng giọng nói:

“Tôi không nhớ là có lấy từ... Tôi chỉ nhớ là tôi lấy rất nhanh; tôi muốn trở về chỗ mẹ tôi ngay.”

“John à, anh nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi Alison ra trước tòa và kể lại với bồi thẩm đoàn rằng anh bắt cô ta nói dối? Trước mặt cô ta, anh đóng vai người anh đau buồn vì vừa mới mất cô em gái, rồi mời cô ta đi ăn tối. Có dịp chứng tỏ với Tony là mình cũng có giá nên Alison nhận lời ngay. Sau vài cuộc hẹn anh thuyết phục Alison nói rằng đã gặp anh tại văn phòng buổi sáng ngày Bảy tháng Giêng. Cô ta cứ tưởng anh chỉ bị rối trí, hoảng loạn, đúng vậy không? Cô ta còn tin là anh đã có sẵn chứng cứ ngoại phạm ngay trong ngày hôm đó từ Tony, người cô ta thầm yêu trộm nhớ. Cô ta nghĩ có đáng gì khi nói dối một chút, chỉ để anh bình tĩnh lại.

“Nhưng hôm đó Alison không có ở văn phòng, John à, không hề đưa hồ sơ giấy tờ gì cho anh cả. Vừa tới công ty, Cyprian đã sai cô ta đi Oxford để tìm Tony. Sau đám tang của Rochelle anh bắt đầu thấy căng thẳng khi nhận ra tôi đã biết hết mấy chuyện đó, đúng vậy không?

“Alison không được lanh lợi lắm,” Bristow chậm rãi nói, hai tay liên tục xoa vào nhau, đầu gối vẫn giật lia lịa. “Cô ta hẳn đã nhầm lẫn ngày tháng. Cô ta rõ là đã hiểu lầm tôi. Tôi chưa bao giờ nhờ cô ta nói có gặp tôi ở văn phòng hôm đó cả. Ở đây là chuyện ông nói gà bà nói vịt. Có thể cô ta đang tìm cách trả thù tôi, vì tụi tôi vừa chia tay.”

Strike bật cười.

“Đúng ra phải nói là anh bị Alison đá. Sau khi trợ lý của tôi gọi điện cho anh sáng nay để dụ anh đi tới Rye...”

“Trợ lý của anh?”

“Đương nhiên rồi. Chẳng lẽ tôi lại muốn có anh đứng bên cạnh khi tôi lục lọi trong nhà mẹ anh? Chính Alison đưa cho tụi tôi tên của vị khách hàng ở Rye đó. Tôi đã gọi điện cho Alison, kể hết mọi chuyện, luôn cả chuyện tôi có bằng chứng Tony ăn nằm với Ursula May, và chuyện anh sắp bị bắt vì tội giết người. Nghe xong cô ta quyết định bỏ cả việc lẫn bồ. Tôi hi vọng cô ta đã đến nhà mẹ ở Sussex... như tôi khuyên. Anh cặp kè với Alison vì anh nghĩ cô ta là chứng cứ ngoại phạm của anh, và cũng muốn lợi dụng Alison để biết Tony đang nghĩ gì. Vì anh rất sợ ông cậu. Nhưng gần đây tôi lo là Alison chẳng có lợi ích gì với anh nữa, nên biết đâu cô ta sẽ lại phải ngã xuống từ một chỗ khá cao.”

Bristow cố bật cười thành tiếng, nhưng tiếng cười nghe giả tạo và trống rỗng.

“Vậy là không có ai thấy anh vào văn phòng sáng hôm sau đó để lấy giấy tờ cả,” Strike nói tiếp. “Anh vẫn còn nấp trong căn hộ tầng giữa ở tòa nhà số mười tám, Kentigern Gardens.”

“Tôi không có ở đó. Tôi ở Chelsea với mẹ.” Bristow nói.

“Lúc mới nấp trong căn hộ tầng hai tôi nghĩ anh vẫn chưa tính đến chuyện giết Lula,” Strike tiếp tục nói. “Có lẽ anh chỉ định chặn đường gây gổ tiếp khi cô ấy về nhà. Hôm đó mọi người ở công ty đều biết rằng anh làm việc ở nhà, để trông bà mẹ đang ốm. Tủ lạnh trong căn hộ thì đầy nhóc thức ăn. Anh còn biết cả cách đi ra đi vào mà không kích hoạt báo động. Từ bên trong anh có thể nhìn thấy rõ dưới phố, nếu Deeby Macc và bầu đoàn có xuất hiện anh vẫn có đủ thời gian để chạy ra rồi đi xuống cầu thang, ai hỏi thì chỉ cần bịa chuyện vớ vẩn là phải ngồi đợi Lula rất lâu trên lầu. Rủi ro duy nhất, mà cũng không đáng kể, là nhỡ có người chuyển bưu kiện hay đồ đạc lên đúng phòng đó, nhưng khi bình hoa hồng được mang vào vẫn không ai thấy anh cả, đúng vậy không?

“Tôi đoán tới lúc đó anh mới nhen nhóm ý định giết người, sau hàng tiếng đồng hồ nấp trong chỗ sang trọng đó. Phải chăng anh bắt đầu tưởng tượng ra nếu Lula chết thì sao? Anh không nghĩ Lula đã lập sẵn di chúc. Hẳn mẹ anh cũng sẽ dễ chịu hơn với anh nếu bà chỉ còn một mình anh. Như thế chẳng phải tuyệt vời hay sao, đúng không John? Rằng cuối cùng anh cũng được làm cục cưng duy nhất? Không bao giờ phải bị ra rìa khi có thêm đứa em xinh xắn, đáng yêu hơn một lần nữa?”

Trong bóng tối đang đặc dần lại, hắn thấy Bristow bắt đầu nghiến răng, cặp mắt bạc nhược nhìn chằm chằm.

“Anh có chu đáo đến đâu, đóng trọn vai người con hiếu thảo dường nào thì vẫn không bao giờ là số một trong lòng mẹ anh, đúng vậy không? Bà ấy lúc nào cũng yêu Charlie nhất, phải không? Mà ai cũng thế cả, kể cả cậu Tony. Sau khi Charlie mất, anh cứ tưởng mình sẽ có được mọi sự chú ý, nhưng không, chuyện gì xảy ra nữa? Lula xuất hiện, rồi mọi người bắt đầu lo lắng cho Lula, chăm sóc Lula, ngưỡng mộ Lula. Mẹ anh còn không muốn để hình của anh bên giường bệnh. Chỉ có Charlie và Lula thôi. Chỉ có hai đứa con được bà ta yêu mến.”

“Khốn khiếp,” Bristow gào lên. “Đồ chó đẻ. Mày thì biết cái gì, với con mẹ đĩ thõa đó? Mẹ mày chết vì cái quỷ gì vậy, lậu liếc gì hả?”

“Hay thật!” Strike nói, cảm thán. “Tôi vừa định hỏi là không biết ban đầu anh có tìm hiểu đời tư của tôi không, khi anh muốn tìm một thằng khờ để giật dây. Tôi cá là anh nghĩ tôi sẽ rất cảm thông với John Bristow tội nghiệp vừa mất em gái, đúng không, vì mẹ tôi cũng chết rất trẻ, cũng trong hoàn cảnh mờ ám? Anh cứ tưởng sẽ tha hồ giật dây tôi như một con rối...

“Nhưng không sao, John à. Nếu luật sư của anh không tìm ra được một chứng rối loạn nào để gán cho anh, tôi đoán hẳn họ sẽ lý luận rằng chính môi trường nuôi dạy của anh mới có lỗi. Không được yêu mến. Bị bỏ rơi. Luôn ở trong bóng tối. Lúc nào cũng thấy bị thiệt thòi, đúng không John? Tôi nhận ra ngay hôm đầu tiên gặp anh, khi anh bật khóc nức nở kể lại chuyện Lula được bế vào nhà. Bố mẹ anh còn không chở anh theo khi đi đón Lula, đúng không? Họ để anh một mình ở nhà, như một con chó cảnh. Anh không thể nào bù đắp khoảng trống sau khi Charlie chết, rồi một lần nữa anh phải đứng vị trí thứ hai.”

“Tôi không phải nghe những chuyện này,” Bristow thì thào.

“Anh cứ ra về,” Strike nói, nhìn vào cặp mắt đang tối sầm lại sau hai tròng kính. “Tại sao anh chưa đi?”

Nhưng ông luật sư vẫn ngồi đó, một bên đầu gối vẫn giật lên xuống, hai bàn tay xoa vào nhau, chờ đợi Strike đưa ra bằng chứng.

“Lần thứ hai chắc dễ ra tay hơn phải không?" tay thám tử khẽ hỏi. “Giết Lula dễ hơn giết Charlie?”

Hắn thấy hàm răng Bristow lộ ra khi ông ta hé miệng, nhưng rồi ông ta không nói tiếng nào cả.

“Tony biết chính anh xô Charlie, phải không? Anh bịa ra chuyện Tony nói xấu mẹ anh sau khi Charlie chết. Sự thật là Tony có ở đó. Ông ấy thấy anh đạp xe bỏ chạy sau khi đã xô Charlie xuống. Anh thách Charlie tới gần mỏm đá, đúng không? Tôi biết Charlie: cậu ta không bao giờ từ chối một lời thách đố. Tony thấy Charlie nằm chết ngay dưới mỏ đá. Ông ấy nói với bố mẹ anh rằng ông ấy đoán chính anh đã ra tay, đúng vậy không? Vì vậy mà bố anh xông vào đánh Tony. Vì vậy mà mẹ anh ngất xỉu. Bố anh cấm cửa Tony sau khi Charlie chết không phải vì Tony nói rằng mẹ anh dạy hư con, mà vì ông ta dám nói rằng mẹ anh đang nuôi một kẻ điên loạn bệnh hoạn.”

“Thật là... Không,” Bristow thốt lên, giọng khàn. “Không!”

“Nhưng Tony không muốn làm lớn chuyện. Ông ấy giữ im lặng. Mặc dù vậy ông ấy hoảng sợ khi nghe bố mẹ anh sắp nhận nuôi một bé gái, đúng không? Ông ấy gọi điện, cố cản họ. Tony lo là đúng. Tôi nghĩ xưa nay anh luôn sợ ông ta. Thật là trớ trêu làm sao khi cuối cùng Tony phải ngậm miệng, cắn răng tạo chứng cớ ngoại phạm cho anh.”

Bristow không nói gì cả. Hơi thở càng gấp gáp hơn.

“Tony phải giả vờ là hôm đó ông ta không hề đi khách sạn với vợ của Cyprian May, nên mới nói đã lái xe về London để thăm chị bị ốm. Rồi ông ta nhận ra lúc đó cả anh và Lula dường như đều có đến Chelsea.

“Lula đã chết, không thể đối chất gì được; vậy là Tony không còn sự lựa chọn nào khác, đánh giả vờ là có trông thấy anh trong thư phòng, nhưng không nói năng gì với anh lúc đó. Anh cũng xác nhận như vậy. Cả hai vừa nói dối không ghê răng, vừa tự hỏi không biết người kia đang giở trò gì, nhưng không dám nói thẳng. Tôi nghĩ Tony định khi sau mẹ anh mất sẽ làm ra lẽ với anh. Có lẽ ý định đó làm ông ta đỡ áy náy. Nhưng ông ta vẫn rất lo lắng, đến nỗi phải nhờ Alison theo dõi anh. Trong khi đó anh bịa chuyện Lula ôm anh chào tạm biệt, rồi hai người làm hòa trước khi cô ấy đi khỏi nhà mẹ anh, thật là lâm ly.”

“Tôi có ở đó,” Bristow nói, thì thào nghiến răng ken két. “Tôi có ở nhà mẹ tôi. Nếu Tony không tới đó thì là việc của ông ấy. Anh không thể vin vào đó mà chứng minh là tôi cũng không có ở Chelsea.”

“Tôi không chứng minh gì ở đây cả John ạ. Tôi chỉ muốn nói là hiện giờ chứng cớ ngoại phạm duy nhất còn lại của anh chính là bà mẹ nghiện Valium.

“Nhưng thôi, quay trở lại câu chuyện lúc nãy. Trong khi Lula đến thăm bà mẹ đau ốm và Tony đang vui vẻ với Ursula ở một khách sạn nào đó, anh vẫn nấp trong căn hộ số Hai. Anh chợt nghĩ ra một phương án táo bạo hơn để giải quyết vụ kẹt tiền. Anh chờ đợi. Rồi anh mang đôi găng tay da màu đen làm tặng cho Deeby để sẵn trong tủ, để tránh lưu lại vân tay. Thật là đáng ngờ. Cứ như thể anh chuẩn bị làm chuyện gì ác ôn.

“Cuối cùng, chiều hôm đó Lula trở về nhà, nhưng không may là cô ấy có bạn đi cùng. Hẳn anh đã nhìn thấy qua lỗ nhìn trộm trên cửa.

“Và bây giờ đây,” Strike nói, giọng hắn đanh lại. “Tôi nghĩ tội của anh bắt đầu nặng. Lý lẽ bào chữa theo hướng ngộ sát, cho rằng tất cả chỉ là tai nạn, hai người giằng co rồi Lula ngã xuống từ ban công, vẫn có thể chập nhận được, nếu cả ngày hôm đó anh không nấp ngay ở tầng dưới, trong khi anh biết Lula đang có khách. Nếu anh chỉ chăm chăm bắt nạt Lula để cố ấy nhả cho một tờ séc, thì có lẽ anh chỉ cần đợi đến lúc cô ấy ở nhà một mình. Nhưng anh đã thử rồi, không thành công. Vậy tại sao ngay lúc đó anh không đi lên lầu, nhân lúc Lula vui vẻ hơn khi sáng, để cố xin một lần nữa? Biết đâu vì có bạn trong nhà cô ấy sẽ đưa phứt cho anh một ít, chỉ để anh biến cho rồi?”

Strike gần như cảm thấy đừng đợt sóng sợ hãi và căm ghét ngùn ngụt bốc lên từ bóng đen ngồi bên kia bàn đang dần hòa vào màn đêm.

“Nhưng không,” hắn nói tiếp, “anh tiếp tục chờ đợi. Anh đợt suốt buổi tối hôm đó. Lula lại rời khỏi nhà một lần nữa. Hẳn khi đó anh rất cay cú. Nhưng anh cũng có đủ thời gian để tính kế. Anh đã quan sát đường phố; anh biết chắc chắn ai đang có mặt trong tòa nhà, ai đang ở ngoài. Anh nghĩ ra cách chuồn đi êm thấm nhất, mà không để ai biết. Và cũng đừng quên là anh từng ra tay giết người rồi. Ở đây chuyện đó rất quan trọng.”

Bristow giật người lên; Strike gồng căng người chờ đợi, nhưng Bristow vẫn ngồi yên. Strike lo lắng nhớ ra chiếc chân giả chỉ đang khớp hờ vào đầu gối.

“Anh nhìn ra cửa sổ, thấy lần này Lula về nhà một mình, nhưng đám săn ảnh vẫn còn ở đó. Hẳn khi đó anh thấy nản lắm, đúng không?

“Và rồi, như một phép màu, cứ như trời muốn giúp John Bristow có được những gì anh ta muốn, đám săn ảnh tản đi hết. Tôi cá là tay lái xe của Lula đã nháy với đám này rằng Deeby còn lâu mới về. Tay này rất chịu khó o bế bọn phóng viên.

“Vậy là đường phố vắng tanh. Thời cơ đã đến. Anh mặc áo của Deeby vào. Sai lầm nghiêm trọng. Nhưng không lẽ cứ gặp may mãi sao?

“Và rồi... lần này tôi cho anh mười điểm, vì anh làm tôi đau đầu khá lâu... anh rút vài cành hoa từ trong lọ ra, đúng không? Anh lau cuống hoa cho đỡ ướt... không kỹ càng lắm nhưng cũng tạm ổm... rồi anh cầm hoa, ra khỏi căn hộ số Hai, để cửa hé và lên nhà em gái.

“Anh không biết rằng mình đã đánh rơi mấy giọt nước trên đường đi, làm Wilson trượt chân ngã sau đó.

“Anh lên đến căn hộ của Lula, gõ cửa. Khi nhìn qua lỗ nhìn trộm trên cửa, cô ấy thấy gì? Hoa hồng trắng. Cô ấy vừa đứng trên ban công, cửa sổ mở toang, hồi hộp ngóng chờ người anh thất lạc đã lâu. Không hiểu sao anh ấy lên tận đây rồi mà cô không thấy! Lula rất phấn khích, mở cửa ngay. Anh bước vào.”

Bristow ngồi im như tượng. Ngay cả đầu gối cũng không còn giật nữa.

“Rồi anh giết Lula, giống như cách anh từng giết Charlie, và sau đó là Rochelle: anh đẩy cô ấy, thật mạnh và thật nhanh... có thể anh đã nhấc cô ấy lên, nhưng cũng như hai người còn lại, cô ấy bị bất ngờ, đúng không?

“Anh hét vào mặt Lula vì cô ấy không đưa tiền cho anh, cô ấy giành hết phần yêu thương của bố mẹ, làm anh lúc nào cũng phải thiệt thòi, đúng không John?

“Rồi Lula hét lại rằng anh sẽ không được một xu nào, ngay cả khi anh giết cô ấy. Rồi anh ra tay, dồn Lula về phía ban công và đẩy cô ấy xuống. Nhưng Lula đã kịp nói rằng cô ấy có một người anh trai khác, anh ruột. Rằng anh ta đang trên đường đến, và rằng cô ấy đã lập di chúc để lại hết cho anh ta.

“Muộn rồi. Đã xong cả rồi!” cô ấy hét lên. Và anh gọi Lula là con láo toét khốn nạn, rồi anh ném cô ấy xuống đường, chết ngay tại chỗ.”

Bristow ngồi im, dường như nín thở.

“Tôi nghĩ hẳn anh đã vứt lại mấy cái hoa ở trước cửa. Anh chạy trở ra, nhặt chúng lên, chạy xuống tầng dưới và vào căn hộ số Hai, nhét lại vào bình. Thật không tưởng tượng được là anh lại tiếp tục gặp may. Cái bình hoa sau đó bị một tay cảnh sát hậu đậu đánh vỡ tan tành. Mà chỉ có mấy cái hoa đó mới cho thấy có người vừa nấp trong căn hộ; vì chắc chắn rằng anh không thể cắm lại chúng y như ban đầu, nhất là khi chỉ có vài phút để tẩu thoát.

“Đoạn tiếp theo vô cùng gay cấn. Anh không ngờ là có người phát hiện ra ngay. Tansy Bestigui khi đó bị nhốt ngoài ban công tầng một. Anh nghe tiếng bà ta la hét và nhận ra anh có rất ít thời gian để trốn thoát, trái với dự tính ban đầu. Lúc này Wilson chạy ra đường để xem có đúng Lula vừa rơi xuống không. Sau đó anh thấy ông ta chạy lên cầu thang, qua lỗ nhìn trộm trên cửa.

“Anh đặt lại báo động, ra khỏi căn hộ rồi chạy xuống cầu thang. Hai vợ chồng nhà Bestigui đang gào vào mặt nhau. Anh chạy xuống... Freddie Bestigui có nghe tiếng chân anh, nhưng lúc đó ông ta còn bận nghĩ việc khác... Sảnh lễ tân trống trơn... Anh chạy ra ngoài, tuyết vẫn rơi dày.

“Rồi anh chạy tiếp, đúng không, mũ áo kéo lên, mặt che lại, hai tay đeo găng nắm chặt. Khi chạy đến cuối đường anh thấy một người khác cũng đang trối chết chạy khỏi góc đường, nơi anh ta vừa thấy cô em gái rơi xuống. Khi đó anh không biết anh ta là ai. Tôi nghĩ khi đó anh còn chẳng thèm để ý đến anh ta. Anh chạy thật nhanh, mặc áo của Deeby Macc, qua mặt camera và chạy xuống phố Halliwell, tới đây anh lại tiếp tục gặp may vì không còn camera nào nữa.

“Tôi đoán anh đã vứt cái áo và đôi găng tay vào thùng rác và nhảy lên taxi, đúng không? Cảnh sát không bao giờ nghi ngờ hay bỏ công tìm kiếm một người đàn ông da trắng mặc complet trong đêm đó. Anh về nhà mẹ, soạn thức ăn tối, vặn ngược đồng hồ và đánh thức bà ấy dậy. Đến giờ bà ấy vẫn tin rằng hai người đang nói chuyện về Charlie ngay lúc Lula ngã xuống. Anh khá thật đấy, John à.

“Anh đã thoát một cách ngoạn mục. Anh đã có thể bịt miệng Rochelle bằng tiền cả đời. Rồi biết đâu, Jonah Agyeman sẽ bỏ mạng ở Afghanistan. Cứ mỗi khi nhìn thấy hình một người lính da đen tử trận trên báo anh lại khấp khởi hi vọng, đúng không? Nhưng anh không thể phó mặc hết cho vận may. Anh là một tên khốn tráo trở, ngạo mạn nên muốn tự tay sắp đặt mọi thứ.”

Im lặng một hồi lâu, không ai nói gì nữa.

“Không có bằng chứng,” cuối cùng Bristow lên tiếng. Bóng tối ngập khắp phòng, Strike chỉ còn thấy mờ mờ bóng ông ta trước mặt. “Không có bằng chứng gì cả.”

“Tôi e là anh sai rồi,” Strike nói. “Bên cảnh sát hẳn đã có lệnh soát nhà.”

“Soát gì?” Bristow hỏi, cuối cùng cũng đủ tự tin để bật cười. “Soát thùng rác ở London để tìm ra cái áo bị vứt cách đây ba tháng à?”

“Không, soát két sắt ở nhà mẹ anh chứ,”

Strike tự hỏi không biết hắn có đủ thời gian để kéo rèm lên không. Hắn đang ở khá xa công tắc đèn, văn phòng hiện giờ tối om. Nhưng hắn không muốn rời mắt khỏi Bristow đang ngồi lù lù trước mặt. Hắn chắc rằng tên giết người ba lần này không thể đến tay không.

“Tôi có ghi sẵn cho họ vài mã số mở két,” Strike nói tiếp, “Nếu mở không được chắc họ phải gọi chuyên gia đến. Nhưng nếu phải cá cược, tôi sẽ đặt tiền cho số 030483.”

Có tiếng sột soạt, một cánh tay tai tái đưa lên cao, Bristow lao tới. Mũi dao sượt qua ngực Strike khi hắn đẩy Bristow qua một bên. Ông luật sư trượt khỏi mặt bàn, ngã lăn quay rồi lại lao vào hắn. Lần này cả Strike và chiếc ghế bật ra sàn, kẹt giữa bức tường và chiếc bàn, Bristow ngồi lên người hắn.

Strike nắm lấy cổ tay Bristow, nhưng hắn không thấy con dao ở đâu: chung quanh là bóng tối. Hắn đấm một cú thật lực vào ngay dưới cằm Bristow, đầu ông ta bật ngửa ra sau, cặp kính văng xa. Strike bồi thêm cú nữa, Bristow dội vào tường, Strike cố ngồi dậy trong Bristow dùng chân kìm chiếc chân cụt của hắn xuống đất. Mũi dao đâm vào cánh tay Strike. Hắn cảm thấy lưỡi dao sắc nhọn xuyên qua da thịt, máu ấm chảy ra, nhức nhối.

Trên cửa sổ mờ mờ bóng cánh tay Bristow lại đưa lên. Strike cố gượng ngồi dậy vật ông luật sư xuống, né mũi dao thứ hai và lấy hết sức bình sinh đẩy Bristow qua một bên. Chiếc chân giả trượt ra khỏi ống quần khi hắn cố đè kẻ giết người xuống. Máu bắn khắp nơi, vẫn còn ấm. Hắn vẫn không thấy con dao đâu.


Chiếc bàn đã bị lật qua một bên khi Strike vật Bristow xuống. Hắn tì đầu gối của cái chân còn nguyên vẹn lên người Bristow, dùng cánh tay không bị đâm loay hoay tìm con dao. Đèn trong phòng sáng lên. Hắn lóa cả mắt. Một người đàn bà đang đứng đó, há miệng hét.

Mắt hắn hoa lên, chỉ thoáng thấy con dao đang dí thẳng xuống bụng; hắn chụp ngay lấy chiếc chân giả ở bên cạnh, phăng tới tấp vào mặt Bristow, một cú, rồi hai cú...

“Dừng lại! Cormoran, DỪNG LẠI! ANH GIẾT ÔNG TA MẤT!”

Strike tụt khỏi người Bristow, giờ đây đã bất động. Hắn vứt cái chân giả qua một bên và vật ra sàn nhà, ôm lấy cánh tay đầm đìa máu, bên cạnh là chiếc bàn chỏng chơ.

“Tôi tưởng...” hắn hổn hển, mắt hoa lên không nhìn rõ mặt Robin. “... Tôi bảo cô đi về nhà rồi kia mà?”

Nhưng Robin đã nhấc điện thoại lên.

“Cảnh sát! Cấp cứu!”

“Gọi thêm taxi nữa!” Strike làu bàu từ dưới sàn nhà, cổ họng hắn khô rang sau khi nói quá nhiều. “Tôi không đi chung xe với thằng chó này đâu.”

Hắn với tay, nhặt chiếc điện thoại nằm cách đó vài mét. Màn hình đã bị vỡ, nhưng điện thoại vẫn còn tiếp tục ghi âm.

Lời kết

Nihilestabomni

Parte beatum.

Nothing is an unmixed blessing.

Cuộc đời họa phúc ai ngờ

Tưởng may hóa rủi, tưởng mờ lại trong.

- Horace, Odes, Quyển 2

Mười Ngày Sau Đó

Quân đội Hoàng gia Anh quốc đòi hỏi mỗi quân nhân phải biết hi sinh mọi nhu cầu và quan hệ cá nhân ở một mức độ mà thường dân không thể hiểu nổi. Lợi ích của tổ chức luôn được đặt cao nhất, vượt xa bất kỳ những yêu cầu khác. Những biến cố không thể lường trước trong cuộc đời mỗi người – sinh nở, tang chế, cưới xin, ly hôn và bệnh tật thường không ảnh hưởng mấy đến các kế hoạch hành quân, tựa như mấy hòn sỏi lăn lóc dưới bụng xe tăng. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ. Nhờ có một trường hợp ngoại lệ như vậy mà chuyến làm nhiệm vụ ở Afghanistan lần thứ hai của Trung úy Jonah Agyeman bất ngờ được rút ngắn.

Sở Cảnh sát London yêu cầu Trung úy về nước ngay lập tức. Thông thường quân đội chẳng nể nang gì Sở cảnh sát London, nhưng lần này lại sẵn lòng hợp tác. Cả thế giới đang đổ xô chú ý vào câu chuyện xoay quanh cái chết của em gái Trung úy. Quân đội Hoàng gia nhận định cơn bão truyền thông bao quanh một anh lính quèn sẽ chẳng ích lợi gì cho bản thân anh ta hay tổ chức cả. Vậy là Jonah được lên máy bay về nước ngay lập tức, trong sự che chắn cực kỳ ấn tượng của nhà chức trách, khuất mắt báo giới đang háo tin.

Quần chúng theo dõi tin tức đều cho rằng Trung úy Agyeman hẳn phải mừng lắm. Đầu tiên là được về nhà khỏi phải đánh đấm gì nữa, rồi lại được thừa kế một món tài sản nằm mơ cũng không thấy nổi. Tuy nhiên, người lính trẻ mà Cormoran Strike hẹn gặp ăn trưa trong quán Tottenham, mười ngày sau khi thủ phạm giết em gái anh ta bị bắt, lại chẳng có vẻ gì như thế cả. Anh xem ra vẫn còn chưa hết sốc, thậm chí có vẻ tức giận.

Agyeman và Strike đều từng sống đời lính, đều đối mặt với cái chết. Đó là một sự gắn bó đặc biêt, người ngoài quân đội không thể hiểu được. Trong suốt nửa tiếng đồng hồ, họ chỉ nói về những ngày tháng tại ngũ.

“Hồi đó anh làm điều tra viên quân cảnh hả?” Agyeman nói. “Hèn gì, cứ có mấy tay đó nhúng vô là rối tung cả, chỉ giỏi phá đời người ta.”

Strike mỉm cười. Hắn thấy mặc dù nói vậy nhưng Agyeman không hề có ý vô ơn. Mấy mũi khâu ở cánh tay vẫn nhức nhối mỗi khi hắn nâng ly bia lên.

“Mẹ tôi muốn tôi giải ngũ,” người lính đáp. “Nói rằng vụ này chỉ được mỗi chuyện đó.”

Đó cũng là lần đầu tiên một trong hai người nhắc đến lý do thật sự khiến họ hẹn gặp ở đây hôm nay, cũng chính là lý do tại sao Jonah không còn ở bên đồng đội để sống cuộc đời mà mình từng lựa chọn nữa.

Thế rồi, khá đột ngột, Jonah bắt đầu nói, như thể đã chờ đợi Strike hàng tháng trời.

“Mẹ tôi không hề biết chuyện ông già có con riêng. Ổng có nói gì đâu. Ổng còn không chắc là mụ Marlene đó nói thật vụ có bầu. Ngay trước lúc mất, khi chỉ còn có mấy ngày, ổng kêu tôi lại rồi nói. ‘Đừng làm mẹ buồn,’ ổng nói, ‘Ba nói chuyện này vì ba sắp đi rồi, mà ba không biết là con còn có em ở ngoài nữa không.’ Ổng nói là mẹ đứa đó người da trắng, đã dọn đi đâu mất rồi. Biết đâu đã phá rồi cũng có. Gì chứ, cóc tin nổi. Nếu anh có quen ông già tôi thì anh mới hiểu. Không Chủ nhật nào không đi nhà thờ. Trước khi chết còn nhận Thánh thể. Tôi không ngờ có chuyện như vậy, không tưởng tượng nổi.

“Tôi định sẽ không nói gì với mẹ cả. Nhưng rồi, tự dưng ở trên trời rơi xuống, có người gọi điện. Lạy Chúa là lúc đó tôi vẫn còn nghỉ phép ở nhà, nên lại bốc máy. Lula…” anh ta nói tên cô em gái ngập ngừng, như thể không chắc mình có quyền gọi cô ấy như vậy, “…có nói là nếu người bốc máy là mẹ tôi thì cổ đã dập máy ngay. Cổ nói không muốn làm ai đau khổ hết. Cổ cũng không đến nỗi.”

“Tôi cũng thấy vậy.” Strike đáp.

“Ừ… nhưng mà nói thật, kỳ khôi cóc chịu được! Nếu là anh, anh có tin không, nếu tự dưng có một cô siêu mẫu gọi điện đến tự nhận là em gái anh?”

Strike nghĩ đến cái gia đình kỳ quặc của hắn.

“Có khi tôi cũng tin đó,” hắn đáp.

“Ờ há… chắc vậy. Ai lại đi bịa chuyện đó làm gì? Mới đầu tôi nghĩ vậy. Rồi tôi cho cổ số di động, rồi có nói chuyện vài lần, mỗi khi cổ gặp được Rochelle. Cổ đã tính hết, sao cho báo chí khỏi phát hiện ra. Cũng hợp ý tôi. Tôi không muốn mẹ tôi phải buồn.”

Agyeman rút ra một gói thuốc Lambert and Butler, sốt ruột vờn nó giữa mấy ngón tay. Chắc là thuốc mua rẻ ở NAAFI[1], Strike nghĩ thầm, thấy nhoi nhói trong lòng khi nhớ lại cảnh xưa người cũ.

[1. Navy, Army and Air Force Institutes: Hiệp hội hỗ trợ quân nhân – Một tổ chức chuyên cung cấp hàng hóa và dịch vụ giải trí cho quân nhân Anh quốc và người thân. - ND]

“Cổ gọi cho tôi, ngay hôm trước đó… trước khi xảy ra sự việc,” Jonah nói tiếp, “năn nỉ tôi tới gặp. Tôi đã nói là không thể gặp trong đợt phép đó được. Thiệt tình, đau đầu quá xá. Em gái tôi là siêu mẫu nổi tiếng. Mẹ tôi thì đang lo vụ tôi sắp bị điều tới tỉnh Helmand. Tôi phải ngậm miệng vụ ông già có con riêng. Không thể nói lúc đó được. Nên tôi nói với Lula là tôi không kiểu gì đi gặp được.

“Cổ cứ một hai phải gặp trước khi tôi lên đường. Nghe giọng cổ rất lo lắng. Tôi nói thôi được rồi, tôi sẽ đến. Nhưng phải đợi tới giờ mẹ tôi đi ngủ. Tôi sẽ nói là đi ra ngoài làm một ly với bạn hay gì đó. Lula còn nói tôi cứ tới thật trễ, khoảng một giờ rưỡi sáng càng tốt.

“Vậy là,” Jonah kể tiếp, lung túng đưa tay gãi đầu, “tôi tới đó. Nhưng vừa tới ngay góc đường thì… nhìn thấy…”

Anh ta đưa bàn tay quẹt qua miệng.

“Tôi chạy thục mạng. Chạy như ma đuổi. Không biết cóc khô gì cả. Tôi không muốn có mặt ở đó, tôi không muốn phải giải thích với ai hết. Tôi biết là Lula có bệnh tâm thần, tôi nhớ lại trên điện thoại nghe giọng cổ rất buồn, rồi tôi nghĩ, hay là cổ dụ tôi tới đó, để chứng kiến cổ nhảy xuống?

"Tôi không thể ngủ được. Nên thấy nhẹ cả người khi tới ngày lên đường, thiệt tình với anh. Khi đó, tôi chỉ muốn đi thật xa, khỏi phải đọc báo nghe đài gì cả.”

Quán trở nên nhộn nhịp, khách ăn trưa đông dần lên.

“Tôi nghĩ Lula rất muốn gặp anh vì bà mẹ nuôi vừa kể với cô ấy một chuyện.” Strike nói. “Phu nhân Bristow hôm đó uống rất nhiều Valium. Tôi đoán là bà ấy muốn Lula phải thấy áy náy vì không muốn ngồi lại lâu hơn. Vậy là bà ấy kể lại chuyện John xô Charlie xuống mỏ đã, theo lời Tony.”

“Vì vậy mà Lula rất bấn loạn khi rời khỏi nhà mẹ. Cũng vì vậy mà suốt buổi chiều hôm đó cô ấy liên tục gọi cho ông cậu, chỉ để hỏi chuyện đó có thật không. Và tôi nghĩ cô ấy rất muốn gặp anh, muốn gặp một người nào đó, bất kỳ một ai mà cô ấy có thể yêu thương và tin tưởng. Bà mẹ nuôi thương cổ nhưng rất chướng, lại đang hấp hối, cô ấy không ưa gì ông cậu, lại vừa nghe chuyện anh trai mình là một kẻ giết người. Hẳn lúc đó Lula rất tuyện vọng. Tôi nghĩ có khi còn sợ hãi nữa. Ngay hôm trước Bristow có đến gây gổ, bắt cô ấy phải đưa tiền. Có lẽ Lula lo không biết hắn ta sẽ giở trò gì tiếp.”

Trong quán lao xao tiếng người nói chuyện, tiếng ly tách cụng vào nhau, nhưng giọng Jonah vẫn vang lên rõ ràng.

“Tôi mừng là anh đã đấm vỡ hàm hắn.”

“Cả mũi nữa,” Strike khoan khoái nói, “Cũng còn may là hắn kịp đâm tôi một nhát, nếu không tôi cũng sẽ không viện cớ ‘tự vệ hợp lý’ được.”

“Hắn có hung khí,” Jonah trầm tĩnh nói.

“Đương nhiên rồi,” Strike đáp, “Tại đám tang Rochelle, tôi dặn thư ký phải kể với hắn là tôi liên tục nhận được thư dọa giết từ một gã điên khùng, suốt ngày đòi rạch bụng tôi. Nên trong đầu hắn đã có ý sẵn. Hẳn Bristow đã tính rằng, cùng lắm, hắn chỉ cần đổ hết cho tay Brian Mathers kia thôi. Giết tôi xong, hắn sẽ đi về nhà, vặn đồng hồ của bà già, rồi giở lại mửng cũ. Hắn không bình thường. Nhưng không có nghĩa là hắn không biết tính toán.”

Có vẻ cũng chẳng còn gì để nói nữa. Khi chuẩn bị rời khỏi quán, Agyeman trước đó đã nằng nặc đòi trả tiền bia, giờ lại muốn tặng Strike một khoản. Hẳn Jonah đã đọc trên báo về hoàn cảnh túng thiếu của tay thám tử. Strike từ chối ngay, cũng không hề tự ái. Hắn thấy rõ anh chàng kỹ sư quân đội trẻ tuổi đang phải đau đầu với khoản tài sản kếch xù vừa rơi xuống. Kéo theo đó là một mớ trách nhiệm mới, rồi những yêu cầu sinh ra từ đó, liên tục bị chú ý, rồi phải quyết định nhiều chuyện đi kèm. Jonah dường như đang lo sợ chứ không mừng rỡ gì. Lại thêm cái lý do khiến anh ta được món tiền đó, một lý do vô cùng khủng khiếp mà ai cũng biết. Strike đoán tâm trí Jonah đang bị giằng xé giữa đồng đội ở Afghanistan, những chiếc xe thể thao và cô em gái cùng cha khác mẹ nằm chết giữa tuyết. Liệu còn ai cảm nhận rõ con xúc xắc của số phận, hơn là một người lính từng vào sinh ra tử, lại tự dưng có được một khoản tài sản kếch xù?

“Hắn sẽ không thoát tội chứ?” Agyeman đột ngột hỏi, khi hai người chuẩn bị chia tay.

“Không, tất nhiên là không rồi,” Strike đáp. “Báo chí vẫn chưa biết chuyện cảnh sát tìm ra điện thoại di động của Rochelle trong két sắt ở nhà mẹ hắn. Bristow không dám thủ tiêu cái điện thoại nên đã tự tay sửa lại mã số két sắt để không ai biết. Hắn đặt mã số là 030483 – Ngày Chủ nhật Phục sinh, năm một chín tám ba, ngày hắn giết Charlie bạn tôi.”

~*~

Hôm đó cũng là ngày làm việc cuối cùng của Robin. Strike đã mời cô đi cùng hắn đến gặp Agyeman, người cô có công tìm kiếm, nhưng Robin từ chối. Strike có cảm giác như Robin đang cố tách khỏi vụ án, công việc, và cả hắn nữa. Chiều hôm đó hắn có cuộc hẹn khám ở Trung tâm Bệnh nhân Khuyết chi ở Bệnh viện Queen Mary ngoài Roehampton. Nếu để khám xong mới về lại văn phòng thì sẽ không gặp Robin được nữa. Hắn biết cuối tuần đó Matthew có kế hoạch rủ cô về Yorkshire chơi.

Strike lê lết về phố Denmark, qua những bãi đào đường hỗn độn. Hắn tự nghĩ liệu sau ngày hôm nay hắn có còn gặp lại cô thư ký tạm thời nữa không. Hắn e là không. Vậy mà cách đây không lâu, hắn chấp nhận để Robin ở lại làm chỉ vì biết trước sau gì cô cũng sẽ đi ra. Nhưng giờ đây hắn biết là sẽ rất nhớ cô. Robin đã đi cùng hắn trong chiếc taxi đến bệnh viện, lấy áo khoác bọc cánh tay đầm đìa máu me của hắn.

Những ồn ào trên báo chí sau khi Bristow bị bắt khiến công ăn việc làm của Strike cũng khá lên trông thấy. Có khi hắn phải thuê thư ký mới thật. Khi đang cà nhắc lên cầu thang, hắn nghe thấy giọng Robin trên điện thoại.

“…tôi e là phải đặt lịch hẹn vào thứ Ba, vì thứ Hai đã kín hết rồi… Vâng… đúng rồi… vậy để tôi đặt cuộc hẹn lúc mười một giờ cho ông. Vâng, cảm ơn. Chào ông.”

Khi Strike mở cửa vào, cô xoay ghế một vòng.

“Jonah là người như thế nào?” cô hỏi ngay.

“Được lắm” Strike đáp, ngồi phịch xuống ghế sofa. “Đang rất đau đầu vụ tiền nong. Nhưng vẫn còn hơn là để Bristow ẵm hết mười triệu, nên có đau cũng phải ráng mà quen thôi.”

“Có ba thân chủ mới vừa gọi,” cô nói, “nhưng tôi không chắc lắm về người cuối cùng. Hình như là phóng viên, lại nữa. Ông ta chỉ chăm chăm hỏi chuyện anh.”

Đã có một vài cuộc gọi như vậy. Báo chí hả hê chụp ngay lấy câu chuyện rối rắm ly kỳ, toàn những tình tiết giật gân. Strike cũng được lên báo khá nhiều. Hắn mừng thầm là báo chí đa số chọn đăng tấm hình hắn chụp mười năm trước, khi mới vào quân cảnh. Nhưng họ cũng kịp bới ra tấm hình chụp ngôi sao nhạc rock cùng người vợ thứ hai và fan nữ cuồng nổi tiếng.

Báo chí tốn không ít giấy mực chỉ trích cảnh sát. Carver bị chụp một pô khi đang chạy trên đường, vạt áo khoác xộc xệch, thấy cả vệt mồ hôi trên nách áo. Nhưng Wardle, anh cảnh sát bảnh bao đã có công giúp Strike bắt Bristow lại được tung hô săn đón, đặc biệt là bởi các nữ ký giả. Phần lớn tin tức truyền thông vẫn lại rỉa rói Lula Landry một lần nữa. Mỗi bài báo đều đi kèm những tấm hình chụp cô người mẫu quá cố, gương mặt không tì vết, thân hình mềm mại, cân đối như tượng.

Hình như Robin đang nói gì đó. Strike không tập trung nghe gì cả, vì tay chân vẫn còn nhức nhối.

“… ghi chú hết lại hồ sơ và lịch làm việc của anh. Bởi vì anh sẽ cần một người mới, anh biết rồi đó, một mình anh không thể lo hết mấy chuyện này.”

“Đúng vậy,” hắn đồng ý, loạng choạng đứng dậy. Hắn định sẽ đợi tới khi cô sắp về mới làm việc này. Nhưng bây giờ cũng được, tiện thể đứng dậy luôn mặc dù vô cùng khó chịu. “Robin này, tôi vẫn chưa cảm ơn cô…”

"Rồi, anh cảm ơn rồi," cô vội vã nói. "Hồi ở trong xe taxi đến bệnh viện, với lại cũng không cần. Tôi rất thích làm việc với anh. Thực sự là rất thích."

Hắn tập tễnh đi vào phòng trong. Vẫn chưa nghe thêm một tiếng "nhưng" nào cả. Món quà gói rất vụng về được cất kỹ dưới đáy túi thể thao.

“Đây,” hắn nói. “Cái này tặng cô. Không có cô tôi sẽ không làm được vụ vừa rồi.”

“Ôi,” Robin thốt lên. Strike vừa xúc động vừa lo lắng khi mấy giọt nước mắt bắt đầu lăn xuống má cô thư ký. “Anh không cần…”

“Về nhà hẵng mở,” hắn nói, nhưng đã quá muộn. Món quà tự tuột khỏi lớp giấy ngay trên tay Robin. Một màu xanh mướt, lấp lánh, mềm mại chui ra từ chỗ giấy rách, tràn xuống bàn. Robin há hốc miệng.

“Anh… Trời đất ơi, Cormoran…”

Cô cầm chiếc áo đầm lên. Chính là chiếc áo mà cô đã mê mẩn thử ở Vashti. Cô nhìn hắn, đỏ bừng mặt, đôi mắt ngấn nước.

“Anh làm sao mua nổi cái này!”

“Mua được chứ,” hắn nói, đứng dựa vào bức vách, thấy còn thoải mái hơn ngồi trên ghế sofa. “Công việc cũng bắt đầu nhiều lên rồi. Cô quá giỏi. Chỗ mới phải may lắm mới tìm được cô.”

Lúc này Robin liên tục lấy tay áo chùi nước mắt. Cô thổn thức, nói gì đó hắn nghe không rõ. Robin với tay lấy hộp khăn giấy mới mua, phòng khi có thêm những khách hàng như bà Hook. Cô sụt sùi hỉ mũi, chặm mắt, quên mất chiếc áo xanh vẫn còn nằm trên đùi. Robin nức nở:

“Tôi không muốn đi đâu cả!”

“Tôi không thuê nổi cô, Robin à,” Strike đáp, thẳng thừng.

Không phải là hắn không nghĩ đến việc này. Đêm qua hắn nằm trên chiếc giường xếp, tính toán xem liệu có thể trả cho Robin một mức lương không quá bèo so với bên công ty truyền thông hay không. Không cách nào được. Hắn không thể cứ khất nợ lần lữa mãi. Rồi tiền thuê văn phòng đang ngấp nghé tăng, mà hắn cũng phải tìm một chỗ ở mới, không thể ở đây mãi được. Tình hình có sáng sủa hơn thật, nhưng vẫn không có gì chắc chắn.

“Tôi không cần anh phải trả bằng mức lương bên phía kia,” Robin nói, giọng khàn khàn.

“Tôi còn không với được gần mức đó nữa,” Strike đáp.

(Nhưng hơn ai hết, cô biết rõ tình hình tiền nong của Strike. Cô đã đoán trước được mức cao nhất hắn có thể trả. Đêm qua, khi Matthew thấy cô sụt sùi vì sắp phải chia tay công việc ở văn phòng thám tử, cô đã nói hết suy nghĩ của mình.

“Nhưng hắn ta còn chưa nói năng gì cả mà,” Matthew đáp. “Hay hắn đã nói gì rồi?”

“Chưa, nhưng nếu…”

“Thì tùy em vậy,” Matthew nói, cứng giọng. "Lựa chọn của em. Em phải tự quyết định lấy."

Cô biết Matthew không muốn cô tiếp tục làm ở đây. Hôm đó Matthew đã ngồi đợi cả mấy tiếng đồng hồ trong khoa Cấp cứu khi người ta khâu vết thương cho Strike. Anh ấy nói (hơi bị lạnh lùng) rằng là cô đã làm đúng, cô đã rất lanh lợi bình tĩnh, nhưng sau đó cứ tỏ vẻ xa cách, có gì đó không bằng lòng. Nhất là khi bạn bè của cả hai cứ tò mò muốn biết chuyện từ người trong cuộc, sau khi báo chí làm ầm lên.

Nhưng chắc hẳn Matthew sẽ thích Strike, nếu hai người gặp nhau? Và chẳng phải Matthew đã nói tùy cô quyết định đó sao…)

Robin đứng thẳng lại, hỉ mũi một lần nữa rồi nói với Strike, cố giữ giọng bình thường sau khi vừa nấc thêm một tiếng. Cô nói ra mức lương đã nghĩ đến.

Mất vài giây Strike mới đáp lại được. Hắn có thể trả mức đó; ít hơn mức hắn đã tính tới năm trăm bảng. Robin quá giỏi, không thể nào tìm được người thay thế ở mức lương đó cả. Chỉ kẹt mỗi một chuyện nho nhỏ…

“Tôi trả được mức đó,” hắn nói, “Ừa, trả được.”

Điện thoại đổ chuông. Robin nhìn hắn cười tươi rói. Cô trả lời điện thoại, giọng phấn khích như thể đã đợi cú điện thoại đó từ lâu.

“Ôi chào anh Gillespie! Anh khỏe chứ? Anh Strike vừa gởi cho anh tấm séc, chính tôi gởi bưu điện sáng nay… Hết mấy khoản trả chậm, đúng vậy, rồi thêm một ít nữa… Vậy sao, ông Rokeby tử tế quá nhưng anh Strike muốn trả hết. Anh ấy hi vọng là sẽ trả sạch trong vòng vài tháng tới…”

~*~

Một tiếng đồng hồ sau đó, Strike ngồi trên chiếc ghế nhựa cứng tại Trung tâm Bệnh nhân Khuyết chi, duỗi thẳng cái chân bị thương. Nếu biết Robin sẽ tiếp tục ở lại, hắn đã không mua chiếc áo đầm xanh làm gì. Món quà hẳn sẽ làm Matthew phật ý khi thấy Robin mặc vào, rồi phải nghe chuyện cô từng mặc thử trước cho hắn xem.

Hắn thở dài, với tay lấy tờ tạp chí Private Eye trên bàn gần đó. Khi bác sĩ gọi hắn lần đầu tiên, Strike không nghe thấy vì mải đọc bài báo “LandryBalls”, toàn những ví dụ cho thấy báo chí đã lắm chuyện như thế nào trong vụ án mà hắn và Robin vừa phá. Rất nhiều tay ký giả còn nhắc đến Cain và Abel[2], khiến tạp chí phải tương một mục đặc biệt về chủ đề này.

[2. Hai người con trai của Adam và Eve trong Kinh thánh – Cain đã giết Abel. Ở đây giới ký giả ví von chuyện anh em chém giết lẫn nhau. – ND.]

“Anh Strick?” vị bác sĩ hét lên, lần thứ hai. “Anh Cameron Strick?”

Hắn ngẩng lên, nhe răng cười.

“Strike,” hắn nói rõ ràng. “Tên tôi là Cormoran Strike.”

“Ồ, tôi xin lỗi… mời anh vào…”

Strike đứng dậy, tập tễnh đi vào phòng khám. Hắn tự dưng nghĩ đến một câu thơ. Hắn đã nghe câu này rất lâu rồi, từ trước khi chứng kiến xác chết đầu tiên, trước khi ngẩn ngơ ngắm thác nước bên triền núi châu Phi, và trước khi thấy sắc mặt của một tên giết người tối sầm lại.

I am become a name.

“Mời anh nằm lên bàn, vui lòng tháo chân ra trước.”

Câu đó ở đâu ra ấy nhỉ? Strike nằm đó, cau mày nhìn trần nhà, miệng lẩm bẩm, mặc vị bác sĩ đang loay hoay với khúc chân còn lại.

Vài phút sau, hắn nhớ ra hết mấy câu thơ đã học từ lâu.

I cannot rest from travel: I will drink

Life to the lees; all times I have enjoy’d

Greatly, have suffer’d greatly, both with those

That loved me, and alone; on shore and when

Thro’ scudding drifts the rainy Hyades

Vext the dim sea: I am become a name…[3]

[3. Ta chẳng thể dừng chân: Ta sẽ uống

cạn chén đời; nhớ sao những ngày vui,

những tháng buồn, bên người thương,

hay cả khi đơn côi, nơi bờ bến lạ

rồi khi mưa tạt gió vờn và sao giăng báo bão

giữa đại dương mịt mờ bóng tối:

Và đời biết tên ta…