Bao giờ cũng là một bài thuyết giáo dài, ê a, xen giữa một lô những lời hát và cầu nguyện cũng ẽo ợt như vậy và khi xong xuôi tất cả, ai nấy bèn nối đuôi nhau từng người một đi ra, bắt tay cha giảng đạo, và Kunta thích thú nhận thấy cả đám "cùng đinh" lẫn những kẻ thuộc giai cấp ông chủ đều mỉm cười ngả mũ chào nhau, cứ như việc họ cùng là dân da trắng khiến cho họ giống hệt nhau vậy. Nhưng rồi khi rải bữa ăn trưa ngoài trời dưới bóng cây thì bao giờ cũng phân ra làm hai hạng ở hai mé đối diện của sân nhà thờ - y như thể họ mới vừa chỉ tình cờ ngồi tách riêng ra thôi.
Một hôm chủ nhật, trong khi cùng với các lái xe khác ngồi đợi và theo dõi thể thức quan trọng ấy. Ruxbi thì thầm vừa đủ cho những người kia nghe thấy: "Tuồng như dân da trắng chẳng thấy khoái gì trong việc ăn uống cũng như lễ bái". Kunta nghĩ thầm là trong suốt những năm anh biết Bel, cứ đến giờ tụ họp cầu Chúa "Jêxu nhà chị" là bao giờ anh cũng viện cớ có việc khẩn cấp chuồn mất, nhưng suốt dọc đường từ nhà kho đổ đi, anh đã nghe thấy họ làm rộn lên như mèo gào, đến mức khiến anh thấy một trong những điều hiếm hoi đáng phục ở đám tubốp là việc họ thích lễ bái một cách lặng lẽ hơn.
Độ một tuần lễ sau, Bel mới nhắc Kunta về một cuộc "họp trại lớn" mà chị định đi dự vào cuối tháng bảy. Đó là sự kiện lớn mùa hè hàng năm của dân da đen kể từ khi anh đến đồn điền, và vì mọi năm trước anh đều kiếm cớ từ chối không đi, nên anh ngạc nhiên thấy chị vẫn kiên trì hỏi anh. Anh chẳng biết gì mấy về các điều diễn ra tại các cuộc tụ tập lớn ấy, ngoài việc là nó có dính dáng đến cái tôn giáo trần tục của Bel, và anh chẳng muốn dự phần vào đấy. Nhưng Bel lại năn nỉ một lần nữa: "Tui biết mình bao giờ cũng rất muốn đi mà", chị nói giọng đầy giễu cợt, "tui cho là nói sớm với mình để mình còn đưa vào chương trình riêng mà".
Kunta không thể nghĩ ra một câu đối đáp cho sắc sảo và dù sao cũng không muốn gây sự cãi nhau, nên anh chỉ nói: "Để tui nghĩ", trong khi anh không hề có ý định cùng đi.
Đến ngày hôm trước cuộc họp trại, khi anh dừng xe ở trước tòa đại sảnh sau một chuyến đi lên tỉnh, ông chủ bảo:
"Ngày mai ta không cần đến xe, Tôbi ạ. Nhưng ta đã cho phép Bel và các phụ nữ khác đi dự buổi họp trại ngày mai và ta có bảo anh có thể đánh xe chở họ đến đó được".
Giận sôi lên, tin chắc đây là mưu mô của Bel sắp đặt ra như vậy, Kunta buộc ngựa sau chuồng ngựa, chưa vội tháo chúng ra khỏi gióng, và đi thẳng về lều, Bel đưa mắt nhìn anh đứng ở khung cửa một cái rồi nói: "Không nghĩ ra cách nào khác để đến đây vào lúc Kitzi được rửa tội à?"
"Được gì?"
"Được rửa tội, có nghĩa là nó đã vào nhà thờ"
"Nhà thờ nào? Cái đạo "Lạy chúa" nhà các người í à?"
Thôi đừng có giở cái trò ý ra nữa. Chuyện này không dính dáng gì đến tui. "Mămzen" An đã xin với người nhà nó các chủ nhật cho mang Kitzi đến tụ đường của họ ngồi đằng sau trong khi họ cầu nguyện ở đằng trước. Cơ mà nếu nó không rửa tội thì không thể đến nhà thờ của người da trắng được".
"Thế thì nó không cần đến nhà thờ nào hết!"
"Ông vẫn chẳng hiểu gì cả, ông nội người Phi ạ. Được vời đến nhà thờ của họ là một đặt quyền đấy. Ông nói không, là liền đó, ông với tui, mời cả hai xéo ngay ra đồng hái bông".
Sáng hôm sau, khi khởi hành, Kunta ngồi ngay đuỗn trên chiếc ghế cao của xà ích, nhìn thẳng trước mặt, thậm chí không buồn ngoái lại nhìn đứa con gái phấn khởi cười khanh khách trong lòng mẹ, giữa những người phụ nữ khác với những chiếc giỏ đựng bữa ăn ngoài trời. Hồi lâu, họ chỉ líu lo nói chuyện với nhau, rồi họ bắt đầu hát: "Chu-úng ta trèo lên chiếc thang của Jacốp…[1] Chu-úng ta trèo lên chiếc thang của Jacốp…Chu-úng Chu-úng ta trèo lên chiếc thang của Jacốp…chúng ta, những người lính thập tự.. Kunta ớn đến nỗi phải ra tay quật mạnh dây cương vào mông những con la, làm cho cỗ xe chúi về đằng trước và những hành khách của anh xóc nảy người lên - song dường như vẫn chưa đủ mạnh để khiến họ im mồm. Thậm chí, anh còn có thể nghe thấy cái giọng e é của Kitzi giữa tiếng những người khác nữa. Bọn tubốp không cần phải bắt lén con anh, Kunta cay đắng nghĩ, nếu như vợ anh sẵn lòng đem cho nó đi.
Những chiếc xe cũng chật ních người như thế từ các con đường nhánh của các đồn điền đi ra và cứ thấy họ mừng rỡ, vẫy tay chào hỏi nhau, Kunta lại càng trở nên bất bình. Lúc họ đến bãi cắm trại, trong một cánh đồng cỏ rập rờn, nở hoa, thì anh đã tự khích động mình lên tới mức hầu như không buồn để ý thấy khoảng cách hơn một tá xe kéo đã đậu ở đó cùng những chiếc khác đang đến cùng khắp ngả. Cứ mỗi xe dừng lại, những người ngồi trong lại ồn ã túa ra, la hú, phút chốc đã nhập bọn với Bel và những người khác đang hôn nhau, ghì lấy nhau trong đám đông nhộn nhạo. Một ý nghĩ từ từ chớm nở trong đầu Kunta là anh chưa bao giờ thấy đông đảo người da đen đến thế tập hợp ở một điểm trên đất tubốp và anh bèn bắt đầu chú ý.
Trong khi phụ nữ tập trung các giỏ thức ăn trong một lùm cây, cánh đàn ông bắt đầu dồn về phía một mô đất ở giữa đồng cỏ. Kunta buộc la vào một cái cọc đóng xuống đất, rồi ngồi xuống đằng sau cỗ xe - nhưng làm sao vẫn trông thấy được mọi điều diễn ra. Một lát sau, tất cả bọn đàn ông đã ngồi sát nhau trên mặt đất, gần chỏm gò - trừ bốn người có vẻ lớn tuổi nhất; những người này vẫn đứng. Rồi như theo một hiệu lệnh đã quy định trước, người già nhất trong số bốn vị cao niên - ông cụ rất đen, lưng còng, gầy gò, râu bạc trắng - đột nhiên ngật đầu ra đằng sau và hô to về phía đám phụ nữ: "Ta truyền hỡi con cái của JÊXU!".
Không thể tin ở mắt mình, ở tai mình, Kunta theo dõi trân trân trong khi đám phụ nữ nhanh nhẹn quay lại, đồng thanh hô: "Dạ, lạy Chúa!" rồi vội vã chen chúc đến ngồi đằng sau người đàn ông đã tập hợp trước. Kunta ngạc nhiên thấy cảnh đó sao mà giống cái cách dân làng Jufurê ngồi dự các cuộc họp của Hội đồng Bô lão mỗi tuần trăng triệu tập một lần.
Ông già lại hô: "Ta truyền - tất cả các người có phải là con cháu JÊXU không?"
"Dạ, lạy Chúa!"
Lúc này, ba ông già kia ra đứng trước mặt cụ già nhất và lần lượt kêu lên:
"Đến một thời chúng con chỉ là tôi tớ của CHÚA"
"Dạ, lạy Chúa!", những người dưới đất hô.
"Các người hãy sẵn sàng, Jêxu BAO GIỜ CŨNG VẪN sẵn sàng!"
"Dạ, lạy Chúa!"
"Các con có biết Đức chúa Cha vừa bảo gì ta không?" Người nói: "Có ai là kẻ lạ ở đây không?"
Một tiếng hô nhập cục lại nổi lên, gần như dìm hẳn những lời cụ già nhất trong số bốn vị cao niên bắt đầu nói. Kỳ lạ thay, ngay cả Kunta cũng thấy xúc động phần nào. Cuối cùng, đám đông im lặng dần, đủ để cho anh nghe được những điều ông lão râu bạc đang nói.
"Hỡi con cái của Chúa, có một miền đất CHÚA! Đó là nơi mà mọi người tin ở Chúa thảy đều sẽ tới! Kẻ có đức tin sẽ tới đó SỐNG đ-ờ-i đ-ờ-i chẳng cùng!…"
Chẳng mấy chốc cụ già đã mồ hôi đầm đìa hai cánh tay quều quàu trong không, người run lẩy bẩy vì phải dùng sức để hô truyền quá mạnh, giọng khàn đi vì xúc động: "Kinh thánh dạy chúng ta rằng chiên non và sư tử sẽ CÙNG nằm bên nhau!" Ông lão ngật đầu ra sau, vung hai tay lên trời, "Sẽ không có ông chủ và nô lệ NỮA! Tất cả sẽ chỉ là CON CÁI CỦA CHÚA mà thôi!"
Rồi đột nhiên một người đàn bả nhảy lên, bắt đầu hát: "Ôi Jêxu! Ôi Jêxu! Ôi Jêxu! Ôi Jêxu!" Hành động đó phát động những người khác xung quanh chị ta và trong vòng mấy phút, khoảng hăm bốn, hăm nhăm phụ nữ đã xoay vòng, vừa lắc lư người vừa la hét, Kunta vụt nhớ là bác vĩ cầm đã có lần kể với anh rằng ở một số đồn điền mà ông chủ cấm nô không được lễ bái, họ thường giấu một cái thùng sắt trong khu rừng gần đấy, ai cảm thấy bị ma ám thì rúc đầu vào đó mà hô hét, cái thùng đủ sức bịt tiếng ồn để ông chủ hoặc xú-ba-dăng khỏi nghe thấy.
Chính giữa lúc đang nghĩ vậy, thì Kunta phẫn nộ và bối rối sâu sắc khi thấy Bel cũng ở trong đám phụ nữ loạng quạng la hét đó. Đúng lúc ấy, một người trong bọn hô: "Tôi là con của CHÚA!", lăn ra đất như bị một đòn quật ngã và nằm sõng sượt đó, run bần bật. Một số khác theo chị và bắt đầu quằn quại, rên rỉ trên mặt cỏ. Một phụ nữ khác, trước đó lồng lộn vòng quanh, lúc này đứng sững như một cây cột, thét lớn: "Lạy Chúa, Jêxu, chỉ có riêng người!".
Kunta có thể nói là không ai trong bọn họ định trước bất cứ điều gì họ đang làm. Nó cứ bộc phát theo cảm nghĩ của họ - theo cái cách chính dân tộc anh vẫn nhảy múa cúng bái vong hồn ở bên quê nhà, dùng hành động thể hiện ra những gì họ cảm thấy trong lòng. Trong khi cơn la hét và quằn quại bắt đầu dịu đi, Kunta chợt nghĩ rằng các cuộc nhảy múa ở Jufurê cũng chấm dứt cách ấy - dường như trong trạng thái kiệt lực. Và anh có thể cảm thấy là, cách nào đó, những người này xem vẻ cũng vừa mệt lử vừa yên ổn với chính mình.
Rồi người nọ tiếp người kia, họ bắt đầu đứng dậy khỏi mặt đất và kêu to với những người khác:
"Lưng tui đau quá là đau, mãi đến khi được nói mấy Chúa tui. Người bỉu tui: "con đứng thẳng người lên!" từ bấy tui hết đau".
"Mãi đến khi Chúa Jêxu cứu rỗi linh hồn, tui mới gặp Người, bi giờ tui kính yêu Người trên hết tất cả!"
Còn có những lời khác nữa. Rồi cuối cùng, một cụ già khởi xướng một bài cầu và khi đọc xong, tất cả mọi người kêu A-MEN! Rồi bắt đầu hát kinh to, đầy hào hứng: "Tôi có giày, bạn có giày, con cái của Chúa thảy đều có giày! Khi lên thiên đàng, tui đi giày vào, dạo khắp thiên đàng của Chúa! Thiên đàng! Không phải ai nói thiên đàng cũng sẽ được đến đó! Thiên đàng! Thiên đàng! Tôi sẽ dạo khắp Thiên đàng của Chúa."
Trong khi hát, họ đứng dậy khỏi mặt đất, từng người một và bắt đầu bước rất chậm, theo sau vị tóc bạc giảng đạo, xuống khỏi gò đất và đi ngang cánh đồng cỏ. Khi hết bài hát, họ tới bờ một con đầm mé bên kia, tại đó người giảng kinh quay lại đối diện với họ, giữa ba vị bô lão kia và giơ tay lên:
"Và bây giờ hỡi anh chị em, đã đến lúc những ai chưa sạch tội gột rửa tội lỗi trong dòng sông Jođan!"
"Ôi, xin vâng!", một người đàn bà trên bờ hô.
"Đã đến lúc dập tắt lửa địa ngục vào trong dòng nước thánh của miền ĐẤT HỨA!"
"Đúng thế!", một tiếng hô nữa vọng tới.
"Tất cả những kẻ sẵn sàng lặn xuống vì linh hồn mình và sống đời đời với CHÚA, hãy đứng nguyên. Còn lại ai đã rửa tội hoặc sẵn sàng vì Chúa Jêxu, thì ngồi xuống!"
Kunta ngỡ ngàng theo dõi; tất cả, trừ mười hai hoặc mười lăm người, đều ngồi xuống. Trong khi những người kia sắp hàng bên bờ nước, vị truyền giáo và người khỏe nhất trong số bốn bô lão bước thẳng xuống đầm, đến lúc nước ngập đến hông mới dừng và quay lại.
Nói với thiếu nữ đứng đầu hàng, vị giảng kinh hỏi: "Con đã sẵn sàng chưa?". Cô bé gật đầu. "Vậy, hãy tiến lên!"
Nắm lấy cả hai cánh tay cô, hai vị bô lão còn lại dắt thiếu nữ xuống đầm để gặp những người kia ở giữa. Đặt bàn tay phải lên trán cô gái, trong khi vị bô lão to lớn nhất, từ đằng sau, dùng cả hai tay nắm vai và hai người kia càng riết chặt hai cánh tay cô, vị truyền giáo nói: "Lạy Chúa, xin cho đứa bé này được rửa sạch", rồi đẩy cô lùi lại trong khi ông già đằng sau kéo vai xuống cho đến khi cô chìm hẳn xuống nước.
Trong khi tăm sủi lên mặt nước và cô bé bắt đầu giãy giụa chân tay, các vị ngước mắt lên trời và vẫn giữ thật chặt. Chẳng mấy chốc, cô bé đạp loạn xạ và quằn người lên dữ dội; các vị chỉ có thể giữ cô dưới nước đến thế thôi. Họ kéo cô lên khỏi mặt nước; cô bé thở hồng hộc, ọc nước và vùng vẫy điên cuồng, trong khi họ gần như khiêng vào bờ - và giao vào trong tay bà mẹ đang đứng chờ.
Rồi họ quay sang người tiếp theo trong hàng - một gã thanh niên mới ngoài hai mươi tuổi đang đứng nhìn trân trân, hãi quá không dám động đậy. Thực tế là phải kéo anh ta xuống. Miệng há hốc, Kunta theo dõi từng người - tiếp theo là người đàn ông trung niên, rồi một em gái trạc mười hai tuổi và một bà già gần như không bước nổi, lần lượt bị dẫn xuống đầm, chịu sự thử thách kỳ quái ấy. Tại sao họ lại làm thế? Cái thứ "Đức Chúa" độc ác nào lại đòi hỏi những người muốn tin ở ông ta lại chịu đau đớn như thế? Dìm một người đến gần chết đuối, thì làm sao mà rửa sạch được cái xấu ở anh ta? Đầu óc Kunta xộn rộn những câu hỏi - anh không thể trả lời được câu nào - cho đến khi người cuối cùng được kéo lên, sặc sụa khỏi mặt nước.
Chắc là xong rồi, anh thầm nghĩ. Nhưng nhà truyền giáo vẫn đứng trong đầm, lấy tay áo ròng ròng nước lau mặt và lại nói: "Và bây giờ, trong tất cả các con đây, có ai muốn hiến con mình cho đức chúa JEXU nhân ngày thánh này không?" Bốn phụ nữ đứng dậy, người đầu tiên trong số đó là Bel đang nắm tay Kitzi.
Kunta nhảy chồm dậy bên cạnh cỗ xe. Nhất định họ không thể làm thế! Nhưng rồi anh trông thấy Bel dẫn đầu đi tới bờ đầm và bắt đầu bước - thoạt tiên còn chậm chạp, ngập ngừng, rồi mỗi lúc một nhanh về phía đám đông ở rìa nước. Khi vị truyền giáo vẫy Bel, chị cúi xuống bế Kitzi lên tay và mạnh mẽ sải bước xuống nước. Lần đầu tiên trong hai mươi lăm năm, kể từ cái ngày bàn chân anh bị chặt, Kunta lao đầu chạy - nhưng khi anh tới bên đầm, chân giật thon thót, thì Bel đã ra giữa, đứng cạnh vị truyền giáo. Hổn hển lấy hơi. Kunta mở miệng định gọi thì vừa lúc đó, vị truyền giáo bắt đầu nói:
"Các con thân yêu, chúng ta họp mặt ở đây để đón mừng một con chiên nữa vào lòng! Tên đứa bé là gì?"
"Kitzi, trình cha".
"Lạy Chúa,…", ông cụ bắt đầu nguyện, bàn tay trái đặt dưới đầu Kitzi và nhắm mắt lại.
"Không!", Kunta hét lên, khản cả giọng.
Bel quay phắt đầu lại, mắt nhìn thẳng vào mắt anh, bốc lửa. Vị truyền giáo đứng sững, hết nhìn anh lại nhìn chị, Kitzi bắt đầu sụt sịt khóc, "Im, con", Bel thì thầm. Kunta cảm thấy những cái nhìn hằn học bao quanh anh. Mọi sự chững lại.
Bel phá vỡ im lặng. "Không sao, thưa cha. Đấy chỉ là cái anh chồng người Phi của con thôi. Nó không hiểu. Con sẽ giảng cho nó sau. Cha làm tới đi."
Kunta ngớ ra không nói lên lời, anh thấy vị truyền giáo nhún vai, quay trở lại phía Kitzi, nhắm mắt và bắt đầu.
"Lạy Chúa, xin hãy giỏ nước thánh ban phước lành cho đứa trẻ này… tên nó là gì nhỉ?"
"Kitzi"
"Xin ban phước cho đứa trẻ Kitzi này và mang nó an lành cùng Người đến miền đất HỨA!". Vừa nói, nhà truyền giáo vừa nhúng tay phải xuống nước, vẩy mấy giọt vào mặt Kitzi và hô: "AMEN!".
Bel quay lại, bế Kitzi vào bờ, bì bõm lội ra khỏi đầm và đứng trước mặt Kunta, ướt lướt thướt. Cảm thấy ngớ ngẩn và xấu hổ, anh nhìn xuống đôi chân lấm bùn của chị, rồi ngước mắt lên bắt gặp đôi mắt chị long lanh ướt - vì nước mắt chăng? Chị đặt Kitzi vào trong tay anh.
"Được rồi, nó chỉ ướt thôi", anh nói, bàn tay xần xùi vuốt ve mặt Kitzi.
"Chạy thế, chắc mình đói bụng rồi. Tui thì đã hẳn rồi. Ta đi ăn đi. Tui mang đi cả thịt gà rán, cả trứng nướng tiêu ớt và cả cái món trứng trộn sữa ngọt lừ mình ăn mãi không chán í".
"Nghe có vẻ ngon lành đấy", Kunta nói.
Bel khoác tay anh và họ chậm rãi quay trở lại, đi ngang cánh đồng cỏ đến chỗ giỏ thức ăn đặt trên cỏ trong bóng râm của một cây óc chó.
Chú thích
[1] Ông tổ của 12 bộ lạc Ixrael, một đêm nằm mơ thấy một cái thang nối liền đất với trời.