Cả đêm anh không ngủ song chẳng hề mệt chút nào: suốt ngày hôm sau làm việc ngoài đồng, Kunta chỉ tập trung hết ý chí để khỏi bốc lên phấn khởi, cốt sao đừng lộ chút gì là xúc động cả. Trở về lều riêng sau bữa ăn tối, tay anh run lên khi nhét con dao cũng những lát thịt thỏ sấy vào túi, rồi buộc chặt bùa xaphi vào cánh tay trên. Anh hầu như không đủ kiên nhẫn đứng nghe cuộc sinh hoạt thường lệ hồi đầu đêm của những người đen khác bởi vì mỗi thời khắc, dường như dài vô tận, đều có thể mang lại một sự việc bất ngờ có thể làm tiêu tan kế hoạch của anh. Nhưng cuộc hát xướng sầu tủi và cầu nguyện của đám tá điền mệt thấu xương mau chóng kết thúc. Muốn đợi cho họ ngủ say, Kunta ráng đợi thật lâu kỳ cho đến lúc không đủ kiên nhẫn nán lại nữa.
Thế rồi, nắm lấy con dao tự chế, anh lách mình ra ngoài trời đêm. Cảm thấy không có ai ở quanh đấy, anh cúi rạp người và chạy nhanh hết sức mình, lát sau đã lẩn vào một khóm rừng nhỏ rậm rạp cây bụi ở ngay phía dưới chỗ quành của đường cái lớn. Anh phục xuống, thở dốc. Giả dụ đêm nay không còn xe nào đi qua nữa thì sao? Ý nghĩ đó như mũi dao xuyên qua anh. Và một mối lo sợ tệ hại hơn, gần như tê dại: giả dụ người phụ lái ngồi canh đằng sau xe? Song dù sao anh cũng phải nhắm mắt đưa chân.
Anh nghe thấy tiếng một chiếc xe đi tới mấy phút trước khi ánh đèn lập lòe hiện ra. Hai hàm răng nghiến chặt, các bắp thịt run lên, Kunta cảm thấy như sắp khuỵu xuống. Chiếc xe dường như bò từng tí một. Nhưng rồi cuối cùng, nó cũng đến, ngay trước mặt anh và chậm chạp ăn bánh qua. Lờ mờ hai bóng người ngồi trên ghế đằng trước. Từ trong bụi rậm, anh lao ra, cảm thấy như mình đang thét lên. Lom khom chạy theo sau chiếc xe kẽo kẹt, lắc lư, Kunta đợi cho đến quãng đường gồ ghề tiếp theo, rồi vươn tay ra bám vào tấm ván hậu, anh lăng mình qua, chui vào đống thuốc lá ngồn ngộn như trái núi. Anh đã ở trên xe!
Anh điên cuồng rúc mãi vào. Đám lá được nén chặt hơn anh chờ đợi nhiều, nhưng cuối cùng cũng che lấp được người. Ngay cả sau khi bới ra một lỗ thông hơi để thở cho thoải mái hơn – mùi hôi của thứ cỏ dơ dáy này khiến anh gần lộn mửa – anh vẫn phải ngọ nguậy vai và lưng, quay bên này một tí, bên kia một tí, cố làm sao cho dễ chịu dưới khối nặng đè xuống. Rốt cuộc, anh cũng tìm được tư thế thuận và nhịp chuyển động đu đưa của chiếc xe, được làm dịu thêm bởi nệm lá rất ấm bao quanh, chẳng mấy chốc đã khiến anh đâm gà gà buồn ngủ.
Một tiếng sóc đánh rầm làm anh giật mình thức giấc và anh bắt đầu nghĩ đến khả năng bị phát giác. Chiếc xe đang đi đâu và phải mất bao lâu mới tới chỗ đó? Và khi tới nơi, liệu anh có thể bí mật lẻn đi thoát được không? Hay lại bị lộ dấu tích và bị vây bắt lần nữa? Tại sao anh lại không nghĩ trước đến điều đó nhỉ? Vụt lóe lên trong đầu anh hình ảnh lũ chó và Xamxơn và bọn tubốp với những cây súng của chúng. Kunta rùng mình ngẫm lại những hình phạt lần vừa rồi, anh biết rằng lần này sinh mạng mình phụ thuộc vào việc không để cho chúng bắt lại.
Nhưng càng nghĩ về điều đó, nỗi thôi thúc rời khỏi chiếc xe ngay tức khắc càng tăng lên mạnh mẽ. Anh lấy tay rẽ đám lá vừa đủ để thò đầu ra. Bên ngoài dưới ánh trăng, là cảnh thôn dã và những cánh đồng mênh mông vô tận. Anh không thể nhảy ra lúc này được. Trăng đủ sáng soi đường cho những kẻ săn đuổi anh cũng như cho anh. Và anh càng ở trên xe lâu, lũ chó càng khó dò tìm vết tích anh. Anh lấp lại lỗ và cố tự trấn an; nhưng mỗi lần xe tròng trành, anh lại sợ nó sắp dừng lại và tim anh hồ như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Hồi lâu sau đó, khi anh lại moi lỗ ra và thấy là sắp sửa rạng đông. Kunta bèn quyết định phải rời xe ngay lập tức, trước khi giáp mặt với kẻ thù ánh dương bạch nhật. Vừa nguyện cầu Chúa Ala, anh vừa nắm chặt chuôi dao và bắt đầu lách khỏi hốc ẩn. Khi đã chui cả người ra ngoài rồi, anh lại đợi đến lúc nào xe tròng trành. Thời gian tưởng như kéo dài vô tận, nhưng cuối cùng, phút đó cũng đến. Anh nhảy nhẹ một cái và thế là đã ở trên mặt đường. Lát sau, anh đã biến vào trong bụi rậm.
Kunta đi quành một vòng rộng để tránh hai trại ấp tubốp, nơi anh nhìn thấy tòa nhà lớn quen thuộc cùng những lều nhỏ, tối tăm kề bên. Tiếng tù và báo thức ở những trại đó bồng bềnh qua khoảng không tịch lặng vẳng đến tai anh và khi bình minh bừng lên, anh đang rẽ lối qua lớp cây bụi, mỗi lúc một đi sâu vào vùng mà anh biết là một khu rừng rộng. Rừng cây um tùm mát mẻ và sương sớm nhỏ giọt xuống người anh đem lại một cảm giác khoan khoái; anh vung tít con dao nhẹ bỗng như không, mỗi nhát lại khà một tiếng thích thú. Đầu buổi chiều, anh tới một dòng suối nhỏ nước trong veo chảy tràn qua những mỏm đá xanh rêu; ếch nhái hốt hoảng nhảy tứ tung khi anh dừng lại chụm hai tay vốc nước uống. Nhìn quanh và cảm thấy khá an toàn có thể nghỉ ngơi một lát, anh ngồi xuống bờ suối và thò tay vào túi. Anh lấy ra một miếng thịt thỏ sấy nhúng xuống suối và bỏ vào miệng nhai. Đất bên dưới anh êm và núng nính, những âm thanh duy nhất lọt vào tai anh là tiếng cóc nhái, tiếng côn trùng và tiếng chim. Anh vừa lắng nghe vừa ăn, và ngắm ánh mặt trời rắc những đốm vàng giữa màu xanh của vòm lá trên đầu và anh tự nhủ cũng may mà mình không phải chạy hết hơi hết sức và liền liền như lần trước, do đó dễ bị tóm gọn vì kiệt sức.
Anh chạy đến hết buổi chiều và sau khi tạm nghỉ để cầu kinh lúc mặt trời lặn, anh tiếp tục đi nữa cho đến khi bóng tối và mệt nhọc buộc anh phải dừng lại để nghỉ đêm. Nằm trên nệm lá và cỏ, anh quyết định lần sau sẽ dựng một cái lán bằng chạc cây, lợp mái cỏ như đã học được trong thời kì rèn luyện trưởng thành. Cái ngủ đến sớm, song trong đêm, mấy lần anh phải thức giấc vì muỗi và anh nghe thấy tiếng thú gầm gừ giết mồi ở đằng xa.
Dậy cùng lúc với những tia nắng đầu tiên, Kunta mài vội lưỡi dao, rồi lại lên đường. Lát sau, anh gặp một vệt đường mòn rõ ràng là đã có nhiều người đi qua; mặc dù nhận thấy con đường đã lâu không ai lai vãng, anh vẫn quay đầu ba chân bốn cẳng chạy thật nhanh về rừng.
Mỗi lúc một đi sâu vào rừng, anh vung dao phạt luôn tay. Mấy lần anh trông thấy rắn, nhưng hồi ở trại tubốp, anh đã được biết là rắn không cắn trước trừ phi chúng sợ hoặc bị dồn vào thế cùng, cho nên anh mặc kệ cho chúng trườn đi. Thỉnh thoảng, anh tưởng như nghe tiếng chó sủa đâu đây và rùng mình, vì anh sợ cái mũi đánh hơi của chó hơn cả người.
Mấy lần trong ngày Kunta đâm quàng phải những chỗ cây lá rậm rạp đến nỗi con dao của anh không đủ sức phát lấy một lối đi, và anh phải quay lui tìm đường khác. Hai lần anh phải dừng lại để mài dao vì nó hình như mỗi lúc một cùn đi mau hơn, nhưng sau đó, khi thấy không hơn gì, anh đâm ngờ rằng sức mình đã bắt đầu suy vì phải luôn tay phạt đủ mọi loại dây leo, tầm gửi và bụi rậm. Cho nên anh lại dừng chân ăn thêm ít thịt thỏ cùng mấy trái dâu dại và uống chút nước đọng ở những chiếc lá trũng giữa mọc sát gốc cây. Đêm ấy anh nghỉ bên một dòng suối khác, vừa đặt mình đã ngủ vùi, điếc đặc với mọi tiếng kêu của thú vật cùng chim đêm, kệ cho đám côn trùng vo ve bị hút đến thân thể đẫm mồ hôi của anh, tha hồ cắn vẫn trơ như gỗ chẳng cảm thấy gì.
Mãi đến sáng hôm sau, Kunta mới bắt đầu nghĩ đến chuyện mình đang đi đâu. Trước đó, anh không để cho mình nghĩ đến điều ấy. Do không thể biết được mình đang đi đâu bởi lẽ anh cũng không hề biết mình hiện ở đâu, nên anh quyết định rằng tiến trình duy nhất của mình là tránh đến gần bất cứ người nào, dù là da đen hay tubốp và tiếp tục chạy về phía mặt trời mọc. Các bản đồ Châu Phi anh đã được xem hồi bé chỉ rõ miền con nước lớn ở về phía Tây, nên anh biết nếu cứ tiến về hướng đông, cuối cùng sẽ tới đó. Nhưng khi nghĩ đến những gì có thể xảy ra lúc đó, cho dù anh không bị bắt; đến chuyện làm sao có thể vượt qua miền nước, cho dù anh có hẳn một con thuyền; đến chuyện làm sao tới được bờ bên kia an toàn, cho dù anh biết đường – anh bắt đầu khiếp hãi sâu sắc. Anh vừa chạy vừa đưa ngón tay sờ lần lá bùa xaphi trên cánh tay, chốc chốc lại cầu nguyện.
Đêm ấy, trong khi nằm ẩn dưới một bụi rậm, anh chợt thấy mình nghĩ về người anh hùng vĩ đại nhất của dân tộc Manđinka, người chiến sĩ Xunđiata xưa là một nô lệ tàn tật bị tên chủ người Phi ngược đãi quá đáng phải chạy trốn vào vùng đầm lầy, tại đó ông gặp những người bỏ trốn khác, tổ chức họ thành một đạo quân chinh phục cắt cứ một vùng ở vương quốc Manđinka rộng lớn. Có thể – Kunta nghĩ bụng khi lại cất bước lên đường vào ngày thứ tư ấy – cách nào đó mình sẽ gặp những người Phi khác cũng chạy trốn trên đất tubốp này và có thể họ cũng khao khát tột cùng như mình muốn được cảm thấy lớp bụi đất nơi chôn nhau cắt rốn dưới chân một lần nữa. Có thể họ đủ đông để đóng hoặc ăn trộm một cái xuồng lớn cũng nên. Thế rồi…
Cơn mơ mộng của Kunta bị ngắt quãng bởi một tiếng dễ sợ. Anh ngừng phắt. Không lẽ nào lại thế được! Song quả là không thể lầm được, đúng là tiếng chó săn sủa. Anh hùng hục phát bụi như điên, vẫn ngã rồi lại lồm cồm bò dậy. Chẳng mấy chốc, anh mệt đến nỗi khi ngã lần nữa, anh cứ ngồi thừ ra đấy, nắm chặt cán dao và lắng tai nghe. Nhưng lúc này anh chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng chim và tiếng côn trùng.
Có phải anh đã thực sự nghe thấy tiếng chó không nhỉ? Ý nghĩ đó dằn vặt anh. Anh không biết đâu mới là kẻ thù tệ hại nhất của mình: bọn tubốp hay trí tưởng tượng của bản thân. Anh không thể cho rằng mình đã không nghe thấy tiếng chó thực, cho nên anh lại bắt đầu chạy; an toàn duy nhất là cứ di chuyển. Nhưng chẳng mấy chốc – mệt phờ ra không những vì đã phải chạy xa, chạy nhanh thế, mà còn vì sợ nữa – anh lại phải dừng. Anh muốn nhắm mắt một lúc thôi rồi lại tiếp tục đi.
Anh thức giấc, mồ hôi toát ra, ngồi ngay đuỗn. Tối mịt rồi! Anh đã ngủ hết cả ngày! Anh lắc đầu, đang gắng hình dung ra xem cái gì đã đánh thức anh dậy thì bỗng nhiên lại nghe thấy nó: tiếng chó sủa lần này gần hơn trước nhiều. Anh vùng dậy lao đi, cuống cuồng đến nỗi mấy phút sau mới vụt nghĩ ra là mình đã bỏ quên con dao dài. Anh bổ về chỗ vừa nằm, nhưng đám dây leo lùng nhùng như mớ bòng bong và tuy biết mình chỉ cách con dao độ một với tay – biết thế để mà tức điên lên – tha hồ cho anh rờ rẫm, mò bới mà vẫn không tìm ra.
Tiếng sủa cứ to lên liên tục khiến ruột gan anh cộn cả lên. Anh biết nếu không tìm thấy dao, ắt lại bị bắt mất thôi – hoặc giả còn tệ hại hơn nữa. Quờ tay quanh quanh khắp chỗ dưới chân. Cuối cùng anh với được hòn đá bằng nắm tay. Với một tiếng kêu tuyệt vọng, anh giựt lấy hòn đá và lao vào rừng sâu.
Cả đêm ấy, như một người bị quỷ ốp, anh chạy mỗi lúc một sâu vào rừng – vấp, ngã, quấn chân vào dây leo, thỉnh thoảng chỉ dừng một chốc để lấy hơi. Nhưng lũ chó vẫn lấn tới mau hơn, mỗi lúc một gần thêm, và cuối cùng, sau lúc rạng đông một tí, anh ngoái cổ lại đã thấy chúng. Thật y như là một cơn ác mộng tái diễn. Anh không thể chạy xa hơn nữa. Quay lại và phục trong một khoảng rừng thưa, dựa lưng vào một thân cây, anh sẵn sàng nghênh tiếp chúng – tay phải lăm lăm một cành gộc anh đã bẻ ở một cây khác trong khi chạy hết tốc lực, tay trái nắm chặt hòn đá như trong móng vuốt thần chết.
Lũ chó bắt đầu xồ tới Kunta, với một tiếng thét ghê rợn, anh quật cành cây vào chúng hung dữ đến nỗi chúng phải lui lại, rúm vào nhau ngoài tầm gậy, vừa sủa vừa xổ rãi ròng ròng cho đến khi hai tubốp cưỡi ngựa xuất hiện.
Kunta chưa trông thấy bọn này bao giờ cả. Tên trẻ giương một khẩu súng, nhưng tên lớn tuổi vẫy tay ra hiệu cho gã lui lại trong khi hắn xuống ngựa và bước về phía Kunta. Hắn bình tĩnh giở ra một cây roi đen dài.
Kunta đứng ngay đó, mắt long sòng sọc, người run lên, óc vụt nhớ lại những bộ mặt tubốp trong cánh rừng xưa, trên con xuồng lớn, trong phòng giam, ở chỗ anh bị bán, trong khu trại vô đạo, trong những khu rừng anh bị tóm lại, bị đấm đá, bị đòn roi và bị bắn ba lần trước đây. Trong khi cánh tay cầm roi của tên tubốp ngoắt về đằng sau, cánh tay Kunta vung tới dữ dội đến nỗi anh mất đà chúi ngã sang một bên trong khi lẳng hòn đá đi.
Anh nghe thấy tên tubốp thét lên, rồi một viên đạn véo qua tai anh rồi lũ chó xông tới. Trong khi lăn lộn trên mặt đất quần nhau với lũ chó, Kunta thoáng thấy mặt một tên tubốp ròng ròng máu. Kunta gầm gừ như một con thú dữ khi chúng quát chó lui và chĩa súng tiến lại gần anh. Nhìn mặt chúng, anh biết mình chết đến nơi rồi, song anh bất cần. Một tên xô tới túm lấy anh trong khi tên kia lấy báng súng nện, song chúng vẫn phải lấy hết sức mới giữ được Kunta vì anh không ngừng giãy giụa chống cự, miệng rền rĩ, rít lên bằng hai thứ tiếng Ả-rập và Manđinka; chúng lại quại báng súng lên người anh. Vật vã kéo mạnh anh tới một gốc cây, chúng xé tan quần áo anh ra và trói giữa thân anh thật chặt vào cây. Anh thu hết nghị lực gồng mình chuẩn bị chịu đánh cho đến chết.
Nhưng rồi tên tubốp chảy máu bỗng dừng phắt lại, một vẻ kì lạ hiện trên khuôn mặt hắn, gần như một nét cười và hắn khàn khàn nói ngắn với tên trẻ. Tên trẻ nhe răng nhăn nhở cười và gật đầu, rồi quay lại chỗ con ngựa tháo một chiếc rìu săn ngắn cán buộc vào yên. Hắn chặt một cây mọt ruỗng đứt khỏi rễ và kéo lại bên cạnh Kunta.
Đứng trước mặt Kunta, tên chảy máu bắt đầu khoa tay làm hiệu. Hắn chỉ vào bộ phận sinh dục của Kunta, rồi vào con dao săn dắt ở thắt lưng hắn. Rồi lại chỉ vào chân Kunta và cái rìu trong tay hắn. Khi hiểu ra, Kunta gào lên và đá đạp lung tung – và lại bị ăn báng súng. Tận trong xương tủy anh, một giọng nói gào lên rằng một người đàn ông, muốn thực sự là đàn ông, thì phải có con. Và Kunta phóng hai tay xuống che fôtô. Hai tên tubốp cười gằn nham hiểm.
Một tên đẩy cái khúc cây xuống dưới chân phải Kunta cho tên kia trói ghì vào đó, tha hồ cho Kunta lồng lộn cũng không vùng nổi chân ra. Tên tubốp chảy máu nhấc rìu lên. Kunta rú lên, giãy giụa trong khi loáng một cái, lưỡi rìu vung lên rồi hạ xuống rất nhanh, tiện đứt cả da, gân, bắp thịt, xương; anh nghe thấy lưỡi rìu cắm phập vào khúc gỗ trong khi cái đau phóng đến tận óc. Cơn đau bùng nổ xuyên suốt người Kunta, cả thân trên anh giật thon thót rướn về phía trước, hai tay chới với vươn xuống như muốn cứu nửa trước bàn chân đang rơi, máu đỏ tươi phọt ra từ mỏm cụt trong khi anh rơi tõm vào đêm đen mịt mùng.