Cội Rễ

Chương 36

Muỗi đốt nhoi nhói, rồi rận cắn ngứa ran người, mỗi lúc một thêm tệ hại. Trong nhơ nhớp, rận cũng như bọ chét nhân bội lên hàng nghìn cho tới khi nhung nhúc khắp hầm tàu. Ác nhất là ở những kẻ nào trên thân thể có chút lông, tóc. Hai bên nách Kunta và quanh fôtô cứ như là lửa đốt, và bàn tay còn tự do của anh gãi lia lịa khắp những chỗ bàn tay bị cùm không với tới được.

Anh vẫn nghĩ tới chuyện vùng dậy chạy trốn, nhưng rồi, một lát sau, mắt đầy những giọt lệ ấm ức thất vọng và uất hận trào dâng, anh lại phải cố dằn lòng cho đến khi cảm thấy bình tĩnh lại phần nào. Điều tệ hại nhất là anh không thể xê dịch đi đâu được, anh cảm thấy muốn cắn vào những xiềng xích trói buộc mình. Anh quyết định là phải tập trung vào một cái gì, vào bất cứ cái gì để làm bận óc hoặc bận tay, kẻo đến phát điên lên mất - như một số người khác trong hầm tàu đã bị thế, cứ bằng vào những điều họ gào lên thì đủ rõ.

Do cứ nằm yên không động đậy, lắng nghe tiếng thở của những người ở hai bên, từ lâu Kunta đã có thể đoán biết đích xác người nào trong bọn họ đã ngủ hay còn thức. Bây giờ anh tập trung vào nghe xa hơn nữa. Cứ tập mỗi lúc một quen, qua việc chăm chú lắng nghe những tiếng lặp đi lặp lại, anh thấy ra rằng, sau một thời gian, tai mình có thể phân định gần như chính xác vị trí của từng tiếng, đó là một cảm giác khác thường, hồ như dùng tai thay mắt vậy. Thi thoảng, giữa những tiếng rên rẩm và nguyền rủa tràn ngập đêm tối, anh nghe thấy một người nào nện đầu đánh thình xuống ván gỗ nơi anh ta nằm. Và lại có tiếng động khác kỳ lạ và đơn điệu. Âm thanh đó ngắt quãng từng đợt, rồi lát sau lại tiếp tục, nghe như hai miếng kim khí cọ thật mạnh vào nhau và sau khi nghe kỹ thêm, Kunta hình dung là một người nào đó đang cố mài những mắt xích cho rời ra. Kunta cũng thường nghe thấy những tiếng kêu cộc lốc và xích sắt xủng xoẻng va nhau mỗi khi có hai người vung cùm choảng vào cổ chân, cổ tay nhau.

Kunta đã mất mọi ý niệm về thời gian. Cứt đái, nôn mửa nồng nặc khắp bốn xung quanh, loang ra thành một lớp nhão nhoét trơn bóng phủ trên những tấm ván dài cứng lát chỗ nằm. Đúng vào lúc anh nghĩ mình không đủ sức chịu đựng thêm nữa thì tám tên tubốp từ trên cửa hầm tàu đi xuống, miệng chửi rủa nhặng xị. Thay vì cái thùng đựng đồ ăn thường lệ, chúng mang những thứ tựa như một loại xẻng cán dài và bốn cái chậu lớn. Và Kunta kinh ngạc nhận thấy chúng không mặc quần áo chi cả.

Những tên tubốp trần truồng này, hầu như ngay lập tức bắt đầu nôn ọe dữ hơn mọi tên khác đã xuống hầm tàu trước đây. Trong ánh đèn bấm, từng tốp hai tên một gần như nhảy chồm chồm dọc các lối đi, thọc xẻng lên những ván nằm và cào bớt một phần cái đám bầy nhầy vào những chiếc chậu. Cứ đầy chậu bọn tubốp lại kéo lết dọc lối đi ì ạch khiêng lên, va cả vào các bậc thang, đưa qua cửa hầm tàu mở rộng để đổ ra ngoài, rồi lại quay trở xuống. Lúc này bọn tubốp càng nôn khan tợn, mặt mày rúm ró nom đến tức cười; và thân hình lông lá, trắng hếu của chúng lấm tầm đầy những cục bẩn mà chúng đang cạo đi từ ván nằm. Song khi chúng hoàn thành công việc và bỏ đi, mùi hôi thối phát ngột, ngạt thở, kinh khủng vẫn chẳng hề thay đổi mảy may.

Lần sau, bọn tubốp xuống đông hơn con số bốn tên thường mang thức ăn. Kunta đổ chừng hẳn phải có tới hai mươi tên túm tụm trên các bậc thang. Anh nằm thượt ra, người lạnh toát. Ngảnh đầu sang hai bên, anh đều thấy những tốp nhỏ tubốp đứng trấn quanh hầm tàu, một số mang roi và súng bảo vệ những tên khác cầm đèn bấm huơ lên ở hai đầy mỗi dãy người bị xiềng. Một nỗi sợ thắt nút lại lớn dần trong bụng Kunta khi anh nghe thấy những tiếng lách cách lạ tai rồi những âm loảng xoảng nặng nề. Rồi cổ chân phải bị cùm của anh bắt đầu giật giật; với một lóe chớp kinh hoàng, anh nhận ra rằng bọn tubốp đang tháo xích cho mình. Tại sao? Có điều gì ghê gớm sắp xảy ra đây? Anh nằm yên, cổ chân phải không còn cảm thấy trọng lượng quen thuộc của dây xiềng, tai nghe thấy khắp hầm tàu tiếp tục vang lên những tiếng lách cách khác và tiếng xích sắt bị kéo lên loảng xoảng. Thế rồi bọn tubốp bắt đầu gầm thét và quất roi vun vút. Kunta biết như vậy có nghĩa là bọn anh phải xuống khỏi ván nằm. Tiếng kêu hoảng loạn của anh hòa vào một hỗn tấu cuồng loạn, bất thần của những la thét bằng nhiều thứ tiếng khác nhau khi đám tù nhân nhổm người giật lùi lại, đầu vào những xà gỗ trên trần.

Roi quất xuống giữa những la thét đau đớn trong khi từng cặp tù nhân nối nhau nhảy sầm sầm xuống lối đi giữa các dãy ván nằm. Kunta và anh bạn bị cùm chung người Uôlôf nép vào nhau, quằn quại dưới những roi đòn vụt lui vụt tới. Rồi những bàn tay thô bạo tóm lấy cổ chân họ kéo qua lớp cặn bẩn lầy nhầy trên ván nằm, xô xuống cái mớ bùng nhùng những tù nhân khác mắc vào nhau giữa lối đi, tất cả đều rống lên dưới làn roi của bọn tubốp. Vặn mình và oằn oại một cách vô hiệu để tránh đòn, Kunta thoáng thấy những bóng người chuyển động trên nền sáng của cửa hầm để ngỏ. Bọn tubốp đang kéo những tù nhân đứng dậy - hết cặp này đến cặp khác - rồi vừa đánh vừa đẩy họ loạng choạng trong bóng tối về phía cầu thang cửa hầm. Lảo đảo bên người bạn cùm Uôlôf, Kunta cảm thấy như chân mình không còn dính vào cơ thể nữa; trần truồng, mình bê bết cặn bẩn, anh cầu trời khấn phật phù hộ cho mình khỏi bị ăn thịt.

Tia sáng đầu tiên giữa thanh thiên bạch nhật sau gần mười lăm ngày dưới hầm tối, như một nhát búa bổ mạnh vào khoảng giữa hai mắt Kunta. Anh chệnh choạng, đau nhói như nổ con ngươi và vung bàn tay không bị cùm lên che mắt. Đôi chân trần cho anh biết là mình đang bước trên một cái gì lắc lư nhè nhẹ từ bên này qua bên kia. Anh quờ quạng tiến lên như người mù, mắt tuy nhắm nghiền, lại lấy tay bịt chặt, vẫn lọt chút ánh sáng cay xè. Cố gắng một cách vô hiệu để thở qua hay lỗ mũi bị rỉ vít chặt, anh há hốc đôi môi nứt nẻ, hớp thật sâu một hụm không khí biển - hớp không khí biển đầu tiên trong đời anh. Hơi biển ngồn ngộn sinh khí, sạch trong làm phổi anh co giật và anh đổ rụi xuống boong tàu, nôn thốc tháo bên cạnh người bạn cùm. Khắp xung quanh,  nghe thấy tiếng nôn mửa tiếp tục, tiếng xích lanh canh, tiếng roi quất vào da thịt, tiếng la thét đau đớn giữa hàng tràng quát tháo, chửi rủa của bọn tubốp cùng những tiếng phần phật kỳ lạ trên đầu.

Khi một ngọn roi nữa xé ngang lưng anh, Kunta quất người né sang bên, tai nghe thấy người bạn Uôlôf hộc lên sau nhát quất trúng mình. Làn roi tiếp tục rứt da rứt thịt cả hai cho đến lúc họ cố chệnh choạng đứng được dậy. Anh ti hí mắt nhìn xem liệu chừng có thể tránh đòn được phần nào chăng, nhưng đầu anh lại nhói buốt lên những lo sợ khi kẻ tra tấn đẩy rúi rụi bọn anh xô về một phía, ở đó Kunta lờ mờ thấy bóng những tên tubốp khác đang xâu một chuỗi dây xích dài qua những còng ngoạm quanh cổ chân mỗi người. Thì ra trong bóng tối dưới hầm tàu, bọn chúng đông hơn anh tưởng - đông hơn mọi lần trước nhiều, chưa bao giờ bọn tubốp xuống đó lắm đến thế. Dưới ánh nắng rực rỡ, nom chúng càng trắng trợt hơn, gớm ghiếc hơn, mắt hõm sâu những hốc của tật bệnh tóc dài lạ kỳ màu vàng hoặc đen hoặc đỏ, một số tên còn có lông ở quanh mồm và dưới cằm nữa. Tên thì xương xẩu, tên thì béo mập, lại có những tên mang những vết sẹo xấu xí, do dao chém, hoặc mất một tay, một chân hoặc một mắt nhiều tên lưng chằng chịt những vết sẹo sâu. Kunta thấy một số tên trong bọn này chỉ có lưa thưa mấy cái răng khiến anh vụt nhớ lại lúc răng mình bị xét, đếm kỹ lưỡng như thế nào.

Nhiều tên đứng cách quãng dọc theo lan can tàu, tay cầm roi, dao dài hoặc một loại gậy nặng bằng kim khí có một lỗ nhỏ ở đầu, và đằng sau chúng là một cảnh tượng kỳ diệu không thể tưởng tượng được đối với Kunta: nước xanh lăn tăn trải ra bất tận. Anh gật đầu nhìn lên phía những tiếng phần phật trên đầu và nhận thấy chúng phát ra từ những tấm vải trắng khổng lồ phất phới giữa những cây cột to tướng cùng với nhiều dây dợ, những tấm vải dường như đầy ắp gió. Ngảnh đầu nhìn quanh Kunta thấy một hàng rào tre cao hơn đầu người dăng suốt chiều ngang của con tàu lớn. Chính giữa hàng rào, lộ ra cái miệng há đen ngòm của một vật đồ sộ bằng kim khí nom gớm chết với một ống rỗng, dài, thành dầy và những đầu gậy kim khí giống như những gậy bọn tubốp cầm ở dọc lan can. Cả cái vật kếch sù kia lẫn những cây gậy đều chĩa về phía Kunta cùng các tù nhân khác bị tập trung.

Nhân lúc những còng cổ chân đang được nối vào sợi dây xích mới, Kunta có dịp nhìn kỹ người bạn cùm Uôlôf lần đầu. Cũng giống như Kunta, người bác ta bê bết cặn bẩn từ đầu đến chân. Xem chừng bác ta trạc tuổi Ômôrô, cha Kunta, mặt có những nét cổ truyền của bộ lạc Uôlôf và da rất đen. Lưng bác rỉ máu từ những vệt roi cứa và mủ ứa ra từ một dấu dùi nung hình chữ LL giữa hai bả vai. Vì cả hai cùng dõi mắt vào nhau, Kunta nhận ra rằng người Uôlôf đang trừng trừng nhìn mình cũng với vẻ kinh ngạc như thế. Giữa sự náo động, họ có thì giờ nhìn kỹ cả những tù nhân trần truồng khác, hầu hết đầu khiếp hãi lắp bắp không ra tiếng. Bằng vào những đặc điểm diện mạo khác nhau, những hình xăm riêng của từng bộ tộc và những dấu rạch trên da, Kunta có thể nhận ra một số là người Fula, người Jôla, người Xêrer và người Uôlôf như người bạn cùm của anh, nhưng đa số là người Manđinka - còn một số người khác, anh  không biết chắc lắm. Kunta phấn khởi trông thấy người mà anh dám chắc là đã giết chết tên hắc gian. Đích thị anh ta là người Fula, khắp mình anh bê bết máu do trận đòn bữa trước.

Phút chốc, họ bị vụt túi bụi và dồn về chỗ có một dãy mười tù nhân khác đang bị tưới đẫm những xô nước biển múc từ mạn tàu lên. Rồi những tên tubốp khác cầm những chổi cán dài cọ người các tù nhân đang rống lên. Kunta cũng la khi luồng nước mặn xói vào người rát buốt như lửa đốt ở những vết roi cứa tướp máu và chỗ dùi nung trên lưng. Anh càng gào to hơn khi những rễ chổi cứng không những làm bong và cạo đi một phần cáu bẩn đóng bánh trên mình, mà còn làm toác những vết roi đã đóng vảy ra nữa. Anh trông thấy nước chảy ngầu bọt hồng hồng dưới chân bọn họ. Rồi họ bị lùa trở lại giữa boong tàu để rồi bị quẳng rúi rụi vào nhau. Kunta ngẩn tò te nhìn những tên tubốp đánh đu như khỉ trên những cây cột, kéo đám dây dợ chằng chịt giữa những tấm vải trắng lớn. Ngay cả giữa lúc bị chấn động như vậy, Kunta vẫn khoan khoái tận hưởng hơi nóng của mặt trời, lòng rộn lên một cảm giác nhẹ nhõm khôn xiết tả vì trút bỏ được một phần nhớp bẩn trên da thịt.

Một hợp xướng đột ngột những la hét khiến đám đàn ông bị xiềng ngẩng phắt lên. Khoảng hai mươi tù nữ, phần lớn ở tuổi vị thành niên, và bốn đứa bé, tất cả trần truồng không bị xiềng, từ sau hàng rào chạy ùa tới, theo sau là hai tên tubốp cầm roi nhăn nhở cười. Kunta lập tức nhận ra mấy cô gái bị đưa lên tàu cùng với mình - lòng tràn đầy phẫn nộ, anh theo dõi cả đám tubốp đang hấp háy liếc nhìn thân thể lõa lồ của họ, thậm chí một số còn xoa xoa fôtô nữa. Ráng hết ý lực, anh kiềm được cơn bồng bột thôi thúc anh đâm bổ vào những tên tubốp gần nhất bất chấp vũ khí của chúng. Nắm chặt tay lại, anh cố hít không khí để tiếp tục thở bình thường, quay mắt khỏi đám tù nữ hồn siêu phách lạc.

Rồi một tên tubốp đứng cạnh lan can bắt đầu kéo ra kéo vô giữa đôi tay một vật kỳ lạ có xếp nếp, phát ra một âm thanh vi vút. Một tên khác đánh một chiếc trống châu Phi hòa theo, trong khi tụi kia sắp thành một hàng xộc xệch, đám tù nhân đàn ông, đàn bà, trẻ con trần truồng giương mắt nhìn chúng. Bọn tubốp sắp hàng có một đoạn thừng, mỗi tên quấn một cổ chân vào đó, tựa hồ sợi thừng này là một chuỗi xích giống như chuỗi dùng để xiềng đám tù nhân. Giờ đây, miệng mỉm cười, bọn chúng bắt đầu đồng loạt chồm chồm nhảy những bước ngắn theo nhịp trống và cái vật kêu vi vu như gió kia. Rồi chúng và những tên tubốp mang đầy khí giới ra hiệu cho đám tù nhân đàn ông cùng nhảy theo kiểu đó. Nhưng khi đám người bị xiềng vẫn tiếp tục đứng ngây như phỗng thì bọn tubốp đang cười bỗng trở nên cau có và bắt đầu quật roi lia lịa.

"Nhảy đi!" đột nhiên người phụ nữ lớn tuổi nhất kêu lên bằng tiếng Manđinka. Bà ta trạc tuổi Binta, mẹ Kunta. Vọt ra khỏi hàng, đích thân bà ta bắt đầu nhảy. "Nhảy đi!" bà lại kêu the thé một lần nữa trừng trừng nhìn toán phụ nữ và trẻ con, rồi đám này cũng bắt chước bà. "Nhảy để giết bọn tubốp!" bà rít lên, cặp mắt nhanh nhẹn lóe chớp nhìn đám đàn ông trần truồng, cánh tay và bàn tay xỉa mạnh theo động tác của điệu nhảy chiến binh. Thế rồi khi hiểu thấu ý đồ của bà từng cặp tù nhân nam bị cùm chung bèn nối tiếp nhau bắt đầu loạng quạng, yếu ớt nhảy lên nhảy xuống, dây xiềng va lanh canh vào sàn tàu. Đầu cúi gằm, Kunta nhìn thấy cái mớ chân cẳng hỗn độn nhảy loi choi, cảm thấy chân của chính mình nhũn ra, trong khi hơi thở hổn hển ngắt từng đợt. Rồi người đàn bà cất tiếng hát và đám con gái hòa theo. Âm điệu nghe rộn rã song lời họ hát kể lại chuyện bọn tubốp gớm ghiếc kia đêm đêm lôi mọi chị em tù vào những góc tối của con tàu như thế nào và dùng họ như những con chó. "Tubốp fa!" (tiêu diệt bọn tubốp), họ thét lên, người cười mỉm, kẻ cười lớn thành tiếng. Cánh đàn ông trần truồng đang nhảy cũng hòa theo: "Tubốp fa" cả đến bọn tubốp cũng nhăn răng ra cười, một số tên còn khoái chí vỗ tay bồm bộp.

Nhưng đầu gối Kunta bắt đầu rụn xuống và cổ họng thắt lại khi trông thấy hai tên tubốp tiến lại gần, chính cái tên béo lùn tóc bạc và tên to lớn, quàu quạu, mắt bị dao chém thành sẹo, đã có mặt ở nơi Kunta bị khám xét, đánh đập, bóp cổ và đánh dấu bằng dùi nung đỏ trước khi đưa lên tàu. Thoắt cái, một im lặng đột ngột sập xuống khi những người tù trần truồng khác trông thấy hai tên đó, và chỉ nghe thấy độc có tiếng những tấm vải lớn phần phật trên đầu vì ngay cả đám tubốp còn lại cũng sững người trước mặt chúng.

Cất giọng khàn khàn sủa ra một câu gì đó, tên to lớn gạt đám tubốp kia ra khỏi dãy người bị xiềng. Lủng lẳng ở thắt lưng hắn là một cái vòng lớn gồm những vật thon dài, lấp lánh mà Kunta đã thấy nhiều tên khác dùng để mở những dây xích. Thế rồi tên tóc bạc tiến vào giữa đám người trần truồng, ghé mắt nhìn sát thân thể họ. Chỗ nào thấy vết roi tấy lên tợn, hoặc thấy mủ rỉ ra từ những nốt chuột cắn hay chỗ dùi nung, hắn liền bôi lên một chút mỡ gì đó lấy từ một cái hộp mà tên to lớn chìa ra cho hắn. Hoặc giả chính tên to lớn rảy một thứ bột vàng vàng đựng trong một bình chứa lên các cổ tay, cổ chân đã chuyển sang một màu xám xì tật bệnh và ươn ướt dưới những còng sắt. Khi hai tên tubốp tiến đến gần Kunta, anh lùi lại vì sợ và tức giận, nhưng rồi tên tubốp tóc bạc cứ bôi mỡ lên những chỗ tấy mủ và tên to lớn cứ rảy bột lên cổ chân, cổ tay anh, thậm chí chẳng tên nào tỏ vẻ nhận ra Kunta là ai nữa.

Rồi đột nhiên, giữa những tiếng kêu nổi lên trong đám tubốp, một trong số những cô gái bị đưa lên tàu cùng đợt với Kunta chồm lên man dại giữa những tên khác. Trong khi mấy tên cố túm và lao người rượt bắt, cô gái thét lên băng mình qua lan can tàu và đâm đầu xuống. Trong cuộc đại náo rầm rĩ tiếng quát tháo, tên tubốp tóc bạc và tên to lớn giật lấy những chiếc roi và, vừa chửi rủa tàn tệ, vừa quất vào lưng những tên  luýnh quýnh đằng sau để cô gái xổng mất khỏi tay.

Thế rồi những tên tubốp ở bên trên, giữa những tấm vải, bỗng la rầm lên, chỉ xuống biển. Ngảnh lại hướng ấy, đám người trần truồng nhìn thấy cô gái nhấp nhô trên sóng - và cách đó không xa một cặp vây đen xì đang lao vút về phía cô. Rồi vọng tới một tiếng thét nữa - một tiếng thét ớn lạnh cơ hồ làm đông cả máu - rồi một lớp bọt ngầu, một sự quẫy lộn và cô gái bị kéo tuột đi mất tăm, chỉ để lại trên làn nước một vật đỏ ở chỗ vừa nãy còn thấy cô. Lần đầu tiên, không có ngọn roi nào giáng xuống khi đám người bị xiềng, khiếp đảm đến lộn mửa được lùa trở xuống hầm tàu và xích lại nguyên chỗ cũ. Đầu Kunta quay cuồng. Sau khi hưởng không khí tươi mát của đại dương, mùi hôi thối lại càng không chịu nổi và sau ánh ngày, hầm tàu lại càng tối tăm mù mịt hơn. Chẳng mấy chốc, khi một cơn náo động mới dấy lên ở cách đó một quãng, đôi tai đã thành thạo của Kunta hiểu ngay là bọn tubốp đang xua những tù nhân thất kinh ở tầng dưới lên boong.

Một lát sau, anh nghe thấy một tiếng thì thầm nhỏ bên tai phải. "Jula!" Tim Kuta giật đánh thót. Anh biết rất ít tiếng Uôlôf, nhưng biết người Uôlôf và một số bộ tộc khác dùng chữ Jula để chỉ những lữ khách và thương khách thường thường là người Manđinka. Và xoay đầu lại gần người Uôlôf hơn một chút, Kunta thì thào: "Jula, Manđinka". Hồi lâu, trong khi anh nằm im, tâm trí căng thẳng, người bạn Uôlôf không hé răng đáp lại. Trong đầu Kunta lóe lên ý nghĩ rằng giá anh có thể nói được nhiều thứ tiếng như hai ông bác... song anh lấy làm xấu hổ vì đã đưa các bác đến nơi này, dù chỉ trong ý nghĩ.

"Uôlôf, Jêbu Manga", cuối cùng, người kia thì thào. Và Kunta hiểu đó là tên bác ta.

"Kunta Kintê", anh thầm thì đáp lại.

Thỉnh thoảng trao đổi rì rầm trong nỗi khát khao tuyệt vọng muốn được giao lưu, họ lẩy trí óc nhau, người nọ học tiếng người kia, đây một chữ, kia một chữ. Y như thể học những chữ đầu tiên hồi ấu thơ vậy. Trong một quãng ngắt hai bên cùng im lặng, Kunta nhớ lại một đêm gác ngoài ruộng lạc phòng khỉ đầu chó, đống lửa đằng xa của một mục đồng người Fula đã đem lại cho anh một cảm giác ấm cúng như thế nào và anh đã ước ao có cách gì để trao đổi vài lời với người đó mà anh chưa hề gặp mặt. Dường như lời cầu ước đó giờ đây đang được thực hiện, chỉ khác cái đây là người Uôlôf suốt bao tuần cùng nằm đó, cùm chặt vào nhau, mà không thấy mặt.

Giờ đây Kunta moi từ trí nhớ ra tất cả những từ ngữ Uôlôf mà anh đã từng nghe thấy. Anh biết người bạn Uôlôf cũng đang làm như thế với những từ Manđinka mà bác ta biết nhiều hơn là anh biết tiếng Uôlôf. Trong một đợt im lặng khác nhau giữa hai người, Kunta cảm thấy là người nằm mé bên kia, vốn trước nay không hề thốt ra lấy một tiếng ngoài việc rên rẩm kêu đau, giờ đây đang dỏng tai chăm chú nghe họ trò chuyện. Qua tiếng rì rầm lan dần ra khắp tàu, Kunta nhận ra rằng, một khi đám tù nhân đã thực sự có dịp nhìn thấy nhau trên kia giữa thanh thiên bạch nhật, anh và người bạn cùm không phải là cặp duy nhất hiện đang cố tìm cách giao lưu với nhau. Tiếng rì rầm vẫn tiếp tục lan rộng. Giờ đây, hầm tàu chỉ im lặng khi bọn tubốp mang chậu thức ăn xuống hoặc mang chổi cọ nhớp bẩn trên ván nằm. Và ngay cả cái im lặng những lúc đó cũng mang một tính chất mới: kể từ khi họ bị bắt và bi xiềng, lần đầu tiên giữa những người đàn ông này dường như vừa nảy ra một ý thức cộng đồng.