Cội Rễ

Chương 33

Mùi thơm quen thuộc của hoa rừng đầy ắp hai lỗ mũi Kunta khi anh chạy qua lớp cỏ long lanh sương sớm thấm ướt chân, trong những tia nắng đầu tiên. Diều hâu lượn vòng trên đầu tìm mồi và những con mương bên cánh đồng rộn lên tiếng ếch nhái ồm ộp. Anh rẽ lối né xa một cái cây để tránh làm kinh động một bầy chim hét đậu đầy cành như những chiếc là đen óng. Nhưng kể ra anh chả cần mất công làm thế, bởi vì anh vừa mới qua đó thì một tiếng quàng quạc khàn khàn giận dữ làm anh ngảnh đầu lại để vừa vặn nhìn thấy hàng trăm con quạ xấn xổ đuổi lũ chim hét khỏi chỗ đậu.

 

Vừa chạy vừa thở thật sâu, song không hổn hển, anh bắt đầu ngửi thấy mùi thơm xạ hương của những cây xú khi tới gần lớp cây bụi thấp và dầy từ bờ sông tỏa rộng mãi vào phía trong. Vừa mới trông thấy anh, một tiếng khịt khịt đột ngột lan đi trong đám lợn rừng, dắt dây theo một loạt tiếng gừ gào trong đám khỉ đầu chó, những con đực to lớn mau chóng đẩy vợ con ra sau lưng. Hồi nhỏ tuổi hơn, anh thường dừng lại bắt chước chúng, gầm ghè và nhảy lên nhảy xuống, điều đó bao giờ cũng làm cho bọn khỉ đầu chó tức tối, chúng vung nắm đấm dứ dứ và đôi khi còn ném đá nữa. Nhưng anh không còn là một chú bé nữa và anh đã biết đối đãi với mọi sinh vật của Chúa Ala như bản thân anh muốn được đối đãi: với lòng tôn trọng.

 

Như những đợt sóng trắng rập rờn, từng đàn cò bạch, sếu, vạc và bồ nông chấp chới bay lên từ chỗ ngủ khi anh rẽ lối đi qua đám xú rằng rịt, xuống bờ sông. Con chó Uôlô của Kunta chạy lên trước đuổi những con rắn nước cùng những con rùa nâu to tướng đang trượt bùn trôi tuột xuống nước, không để lại lấy một gợn sóng lăn tăn.

 

Như anh vẫn thường làm thế mỗi khi cảm thấy cần tới đây sau một đêm gác, Kuntan đứng một lúc bên rìa sông ngắm một con diệc màu xám bay cách mặt nước xanh nhợt chừng một cây giáo dựng đứng, kéo rệt đôi chân dài mảnh, mỗi nhát đập cánh lại làm sóng gợn lăn tăn. Mặc dù giống diệc chỉ kiếm cá nhỏ, Kunta biết rằng trên dọc sông, đây là chố tốt nhất tập trung cá kujalô, một loại cá to, khỏe mà Kunta thích bắt về cho Binta nấu với hành; gạo và cà chua đắng. Vào lúc bụng đang sôi ùng ục đòi điểm tâm, chỉ nghĩ đến nó cũng đủ khiến cho Kunta thấy đói.

 

Đi xuôi theo dòng một quãng nữa, Kunta rẽ khỏi bờ nước, quặt vào một con đường mòn do chính anh vạch, tới một cây xú cổ rất quen thuộc sau biết bao lần tới thăm. Rún người lên cành thấp nhất, anh trèo suốt đến tận chỗ anh thích ngồi vắt vẻo ở gần ngọn. Từ đó, trong buổi ban mai ngời ngợi, với ánh mặt trời rọi ấm trên lưng, anh có thể nhìn suốt tới khúc ngoặt gần nhất của dòng sông còn la liệt từng bầy chim nước đang ngủ và quá nửa là những vạt ruộng lúa của phụ nữ rải rác điểm những chòi tre đặt trẻ sơ sinh. Dạo mình con bé, mẹ đặt mình vào cái chòi nào nhỉ, anh tự hỏi. Cái chỗ này trong buổi sớm mai bao giờ cũng khiến Kunta tràn ngập một cảm giác bình yên và kỳ diệu hơn bất cứ nơi nào khác mà anh biết. Thậm chí hơn cả trong ngôi nhà thờ Hồi giáo của làng, tại đây anh cảm thấy mọi người, mọi vật ở trong tay Chúa Ala một cách trọn vẹn biết bao, và mọi thứ anh có thể nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, từ ngọn cây này đã có ở đây từ những thuở xa xăm hơn trí nhớ của con người và sẽ còn ở đây lâu sau khi anh và con cái anh và con cái của con cái anh đã về chầu tổ tiên.

 

Tong tưởi đi khỏi bờ sông hướng về phía mặt trời được một lúc, cuối cùng, Kunta tới chỗ bãi cỏ cao ngang đầu người bao quanh khu rừng, nơi anh sắp sửa chọn và đẵn một khúc vừa vặn bằng thân cái trống anh định làm. Nếu gỗ tươi bắt đầu khô từ hôm nay, anh đồ chừng nó sẽ sẵn sàng đủ điều kiện cho ta khoét gọt đẽo đục trong vòng một tuần trăng rưỡi nữa, áng chừng vào lúc anh và Lamin từ cuộc viễn du Mali trở về. Khi bước vào lùm cây, một bên khóe mắt của Kunta bỗng thấy một sự di động đột ngột. Đó là chú thỏ rừng và loáng một cái, con chó Uôlô đã rượt theo khi nó chạy trốn vào đám cỏ cao. Rõ ràng chó ta đuổi theo là vì tinh thần thượng võ hơn là vì kiếm mồi để chén, vì nó đang sủa nhặng lên. Kunta biết là một con chó Uôlô săn mồi không bao giờ làm ầm ĩ, nếu nó đói thật sự. Chẳng mấy chốc, cả hai đã chạy quá tầm tai có thể nghe thấy, song Kunta biết con chó của mình sẽ quay về khi nào nó thấy chán cuộc đuổi bắt.

 

Kunta tiến về phía trung tâm khu rừng, nơi có nhiều cây hơn để có thể lựa chọn một casithaan đúng tầm cỡ, với độ nhẵn và tròn hợp ý mình. Mặt đất phủ rêu mềm mại dưới chân khiến anh cảm thấy dễ chịu khi dấn sâu hơn vào khu rừng, nhưng anh nhận thấy không khí ở đây ẩm ướt và lạnh vì mặt trời chưa đủ cao hoặc chưa đủ nóng để xuyên thấu vòm lá dày trên đầu. Để vũ khí và rìu dựa vào một cây cong vêu, anh lang thang đây đó, thỉnh thoảng cúi xuống sờ nắn, xem xét bằng mắt và bằng ngón tay, tìm cái thân cây thích hợp, to hơn cỡ trống anh muốn một tí để trừ hao lúc nó bị co lại.

 

Đang cúi xuống một thân cây có khả năng đạt yêu cầu, anh chợt nghe thấy tiếng cành cây gẫy đánh rắc, nhanh chóng tiếp theo là tiếng một con vẹt léo xéo ở trên đầu. Có lẽ là con chó trở về, anh nghĩ vậy trong nội tâm. Nhưng không có con chó khôn lớn nào lại dẫm gẫy một nhánh cây bao giờ, anh vụt nhớ ra, đồng thời xoay người lại. Anh trông thấy nhòe nhòe một cái mặt trắng lao tới anh, một cái gậy giơ lên, anh nghe thấy tiếng chân nện thình thịch đằng sau. Tubốp! Chân anh phóng ra, trúng vào bụng tên kia – nó mềm mềm và anh nghe thấy một tiếng hự – đúng vào lúc một cái gì cứng và nặng sượt qua đằng sau đầu Kunta và giáng xuống vai anh như một cái thân cây. Đau đến rụn người, Kunta quay lại – xây lưng về phía thằng cha nằm gập mình dưới đất – và tới tấp đâm vào mặt hai tên da đen đang xông tới anh với một cái bì lớn, và vào một tên tubốp khác đang vung một cái dùi cui ngắn trùng trục; nhát dùi cui lần này trượt vì anh nhảy sang bên né được.

 

Bụng cầu ước có bất cứ vũ khí gì đến độ muốn thét lên, Kunta nhảy xổ vào bọn chúng – cào cấu, huých khuỷu tay, đầu gối, húc đầu, móc mắt, - hầu như không cảm thấy cái dùi cui nện trên lưng. Trong khi ba tên đè dí anh xuống đất dưới trọng lượng kết hợp của chúng, một cái đầu gối thúc vào lưng dưới Kunta, làm anh đau đến chóng mặt, hộc lên. Miệng anh mở ra đụng vào da thịt, răng anh liền ngoạm lấy, cắn xé. Những ngón tay tê dại của Kunta quờ thấy một cái mặt, anh móc thật sâu vào một con mắt, nghe thấy chủ nhân con mắt ấy rú lên trong khi chiếc dùi cui nặng nề lại giáng xuống đầu anh.

 

Mắt hoa lên, anh nghe thấy một tiếng chó gầm gừ, một tên tubốp thét lên, rồi đột nhiên một tiếng ăng ẳng thiểu não. Lồm cồm đứng dậy, điên cuồng oằn oại mình, né tránh, bổ nhảo để khỏi hứng thêm những nhát dùi cui, máu chảy như suối từ chỗ đầu nứt toác, anh trông thấy một tên da đen lấy tay bưng mắt, một tên tubốp ôm cánh tay đẫm máu đứng bên xác con chó và hai tên còn lại giơ dùi cui quây lấy anh. Thét lớn nỗi cuồng nộ của mình, Kunta lào vào tên tubốp thứ hai, hai nắm tay va phải và phá vỡ sức mạnh của cái dùi cui đang giáng xuống. Gần như nghẹn thở vì mùi tubốp hôi gớm ghiếc, anh cố gắng một cách tuyệt vọng giằng lấy chiếc dùi cui. Tại sao trước đó anh lại không nghe thấy chúng, cảm thấy chúng ngửi thấy chúng nhỉ?

Đúng lúc ấy, chiếc dùi cui của tên da đen quật vào Kunta một lần nữa, khiến anh lảo đảo quỵ gối và tên tubốp vùng ra được. Đầu như sắp nổ tung, toàn thân quay cuồng, giận điên lên vì thế yếu của chính mình, Kunta lùi lại và gầm lên, choảng bừa vào không khí như một người mù, tất cả nhòe đi vì nước mắt và máu và mồ hôi. Giờ đây anh đang chiến đấu cho một cái gì còn hơn cả cuộc đời mình. Ômôrô! Binta! Lamin! Xuoađu! Mađi! Chiếc dùi cui nặng nề của tên tubốp nện vào thái dương anh. Và tất cả vụt đen ngòm.