Cô Gái Bất Khuất

Cô Gái Bất Khuất

Docsach24.com
hằng Hans trở vào nhà bếp. Ông già bị hắn đánh vẫn còn nằm trên nền nhà, mặt đầy máu me và đang rên siết. Bà già lưng tựa vào tường, đôi mắt kinh hãi, nhìn tròng trọc vào thằng Willi, bạn hắn. Thấy hắn trở vào, bà giật mình run cầm cập và khóc lớn, tức tưởi. Willi đang ngồi cạnh chiếc bàn, khau súng lục trong tay và ly rượu chát đã vơi quá nửa để bên cạnh. Thằng Hans đi thẳng đến trước chiếc bàn, rót một ly rượu đầy và nốc ực một cái hết sạch.

 

— Sao trông mày thiểu não thế? - Willi mỉm cười hỏi hắn.

Mặt thằng Hans dính đầy máu và người ta có thể thấy rõ những vết quào cấu của năm móng tay nhọn. Hắn đưa tay sờ nhẹ lên má, nói:

— Nó muốn quào nát mặt tao ra mày ơi! Con chó cái! Tao phải xức tăng-ti-dót vào mới được. Nhưng bây giờ thì nó nằm yên rồi. Mày làm tiếp theo đi!

— Không biết có nên không? Chiều tối rồi chúng ta sẽ về trễ mất.

— Đừng có ngốc! Mày có phải là một thằng đàn ông không? Về trễ thì đã sao? Chúng ta đi lạc đường mà!

Trời hãy còn sáng. Ánh trời chiều xuyên qua cửa sổ nhà bếp của nông trại.

Willi do dự một lúc. Hắn, người nhỏ thó, mặt ốm và nước da ngâm đen, một họa sĩ vẽ kiểu áo trước khi vào quân đội Đức. Hắn không muốn thằng Hans cho hắn là đàn bà. Hắn đứng dậy đi ra phía cửa mà thằng Hans đã đi vào. Bà già, đoán biết ý định của hắn, thét lên và chồm dậy.

— Không được! Không được đâu! - Bà la lớn.

Hans bước một bước tới trước mặt bà già, nắm hai vai và xô mạnh ra phía sau. Bà già lảo đảo và té xuống. Hắn nắm khẩu súng lục của thằng Willi, gầm gừ bằng tiếng Pháp với giọng Đức:

— Đứng yên cả hai người!

Hắn hất hàm ra phía cửa:

— Đi đi! Tao canh chừng bọn chúng cho mày.

Thằng Willi đi ra, nhưng một lát lại trở vào, nói:

— Con nhỏ bất tỉnh!

— Thì đã sao?

— Tao chịu thôi. Không tốt!

— Thật ngốc! Mày chính là vậy đó. Ein Weibeden. Đồ đàn bà!

Thằng Willi đỏ bừng mặt, nói:

— Chúng ta nên đi về cho rồi.

Thằng Hans nhún vai, vẻ khinh bỉ.

— Để tao làm nốt chai rượu chát này rồi cũng về.

Hắn nghe thư thái trong người, và nếu được thong dong ngơi nghỉ như thế này thì khoái lắm. Hắn đi công tác từ sáng sớm, và sau nhiều giờ ngồi trên chiếc xe máy dầu, chân tay hắn ê ẩm. Cũng may là hắn không còn phải đi xa nữa, chỉ đến Soissons thôi trong khoảng mười hay mười lăm cây số ngàn. Hắn tự hỏi không biết đêm nay hắn có được may mắn kiếm ra một cái giường ngủ không. Dĩ nhiên những sự việc vừa rồi sẽ không xảy ra nếu cái con thiếu nữ ấy không ngu ngốc đến thế!

Hắn và Willi, hai đứa đi lạc đường. Chúng đón một người nông phu đang làm ruộng để hỏi và lão ta đã chỉ bậy. Chúng đi vào một con đường song song ở bên cạnh, đến một nông trại, dừng lại để hỏi đường. Chúng hỏi một cách lễ phép, vì đã có lệnh là phải đối xử tử tế với dân chúng Pháp, khi họ tỏ ra đứng đắn, biết điều. Một cô gái ra mở cửa và nói cô không biết đường đến Soissons. Vì vậy, chúng đẩy cửa đi vào. Một bà già - thằng Hans đoán là mẹ cô gái - chỉ cho chúng. Ba người trong nhà, ông già chủ nông trại, bà vợ và cô con gái, vừa ăn cơm tối xong, một chai rượu chát còn để trên bàn. Chai rượu nhắc cho thằng Hans là hắn đang khát cháy cổ. Trời thì nóng bức, mà từ trưa đến giờ, hắn không có đến một giọt nước nào vào miệng. Hắn hỏi mua một chai rượu chát, Willi nói thêm là chúng nó sẽ trả tiền khá. Willi là một thằng con trai hiền lành. Dù sao chúng cũng là những kẻ thắng trận. Bộ đội Pháp ở đâu? Đã chạy dài hết cả rồi! Còn quân Anh thì bỏ lại hết mọi thứ ở sau lưng, lén lút trốn về đảo như những con thỏ đế. Những kẻ chiến thắng muốn lấy gì thì lấy, chứ sao? Thằng Willi đã làm việc hai năm cho một tiệm may ở Paris. Hắn nói tiếng Pháp thông thạo, vì vậy hắn được giao phó cho cái công tác đi dò đường, nhưng hắn không thấy thích. Thực là một điều chẳng hay ho gì cho một người Đức khi phải sống chung đụng với người Pháp, một dân tộc đang xuống dốc.

Bà vợ ông chủ nông trại đặt hai chai rượu chát lên bàn. Willi lấy trong túi ra hai mươi phật-lăng đưa cho bà ta, bà không nói lấy một tiếng cám ơn nào. Thằng Hans nói tiếng Pháp không giỏi như thằng Willi, nhưng hắn cũng làm cho người ta hiểu được, vì hai đứa thường nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Willi sửa cho hắn khi hắn nói sai. Willi giúp ích cho hắn như vậy, nên hắn kết bạn với Willi, và hắn cũng biết rằng Willi phục hắn. Willi phục hắn vì hắn cao lớn, lưng dài vai rộng, vì hắn có đầu tóc dợn sóng rất đẹp và hai mắt xanh. Hắn không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để luyện tiếng Pháp, và hiện giờ hắn cũng đang tập nói đây, nhưng ba người Pháp trong nhà này không thích bắt chuyện với hắn. Hắn kể cho họ nghe hắn cũng là con nhà nông, và khi hết giặc, hắn sẽ trở về với đồng áng. Hắn được gia đình gửi đến học ở Munich, vì mẹ hắn muốn hắn đi vào ngành kinh doanh, nhưng hắn không thích, nên sau khi học xong bực trung học, hắn đi vào trường Cao đẳng Canh Nông.

— Các người đến đây để hỏi đường, và bây giờ đã biết rồi, thì hãy uống hết rượu mà đi đi chứ!

Hắn nhìn cô gái đã nói ra câu ấy, cô gái mà từ khi mới vào đến giờ, hắn chỉ nhìn sơ qua. Cô ta không đẹp nhưng có đôi mắt hạt huyền và sóng mũi thẳng, da mặt trắng xanh. Cô ta ăn mặc thô sơ, giản dị, nhưng có một vẻ gì hình như không phản ảnh đúng con người thật của cô. Một vẻ cao quý phảng phất ở nơi cô. Từ khi chiến tranh bùng nổ, hắn thường nghe bạn bè nói về thiếu nữ Pháp. Họ có một vẻ riêng biệt mà thiếu nữ Đức không có. Thằng Willi nói đó là cái “chíc”, nhưng khi hắn hỏi nó muốn nói gì khi dùng chữ ấy, thằng Willi chỉ biết trả lời: “Mày phải thấy mới hiểu được!” Dĩ nhiên hắn cũng có nghe nhiều người khác nói rằng gái Pháp ham tiền vụ lợi, và cứng như đá. Được rồi, bọn hắn sẽ được ở lại Paris trong một tuần lễ, và hắn sẽ tự khám phá ra điều ấy. Nghe nói Bộ chỉ huy đã sắp đặt nhà cửa cho bọn chúng đến ở rồi.

— Mày nốc hết ly rượu đi mà về. - Willi nói.

Nhưng thằng Hans cảm thấy khoan khoái trong người và không muốn bị hối thúc. Hắn nói với cô gái:

— Cô không có vẻ gì là con gái nhà nông cả!

— Thế thì đã sao? - Cô gái trả lời. Bà mẹ nói xen vào, như khoe:

— Nó là nữ giáo viên!

— Thế thì chắc cô có một trình độ giáo dục khá vững.

Cô gái nhún vai. Nhưng trong lúc cao hứng, hắn tiếp tục xổ tiếng Pháp, một thứ tiếng Pháp rất tồi:

— Cô phải hiểu, những gì đã xảy ra thực là may mắn cho dân tộc Pháp. Chúng tôi không tuyên chiến. Chính các người tuyên chiến với chúng tôi. Và bây giờ chúng tôi sẽ làm cho nước Pháp thành một nước chỉnh đốn, đàng hoàng. Chúng tôi sẽ lập lại trật tự. Chúng tôi sẽ tập cho các người biết làm việc. Chúng tôi sẽ dạy cho các người sự vâng lời và kỷ luật.

Cô gái siết chặt nắm tay, nhìn hắn, mắt đen nháy hận thù. Nhưng cô vẫn im lặng.

— Mày say rồi, Hans ơi! - Willi nói bằng tiếng Đức.

— Tao tỉnh táo như quan tòa. Tao giảng cho chúng nó biết sự thật và tốt hơn là chúng nó nên hiểu như thế.

Cô gái nói lớn, vì không thể tự chế lâu hơn nữa:

— Bạn mày nó nói đúng đó! Mày say rồi. Đi ra đi! Đi ra!

— Ủa, cô hiểu tiếng Đức sao? Được rồi, tôi sẽ đi. Nhưng cô phải cho tôi một cái hôn trước đã.

Nàng thối lui một bước để tránh nó, nhưng nó đã nắm được cổ tay nàng.

— Ba, ba! - Nàng kêu cứu.

Người cha chồm tới trước thằng Hans. Hans buông nàng ra, đấm một quả đấm như búa bổ vào mặt ông già. Ông ta ngã quỵ xuống nền nhà. Rồi, không để cho nàng kịp chạy trốn, hắn ôm lấy nàng. Nàng tát một tát vào mặt hắn. Hắn cười gằn, hung dữ:

— À, ra mày đối xử như vậy đó mỗi khi một quân nhân Đức muốn hôn mày! Mày sẽ phải trả đắt giá!

Hắn dùng sức mạnh khóa chặt hai cánh tay nàng và đẩy ra phía cửa. Bà mẹ nhào vào, nắm áo hắn cố kéo hắn ra. Một tay hắn siết chặt lấy nàng, và tay kia, hắn đẩy mạnh bà mẹ một cái. Bà lảo đảo ngã ngửa vào tường.

— Hans! Hans! - Thằng Willi la lớn.

— Mày câm cái mõn mày lại! Quỷ đánh thánh vật mày!

Hắn lấy tay bịt miệng không cho nàng kêu cứu và mang ra khỏi phòng.

Đó là những sự việc vừa xảy ra, và bạn có thể bảo rằng nàng đã gây lấy vạ vào mình. Nếu nàng không tát tai hắn, nếu nàng cho hắn một cái hôn như hắn đòi hỏi, thì hắn đã đi rồi...

Hắn ném một cái nhìn xuống ông già, vẫn còn nằm nguyên ở chỗ mà hắn đã đánh ngã ông hồi nãy. Hắn cố làm nghiêm để khỏi bật cười khi nhìn thấy cái vẻ mặt khôi hài của ông ta. Rồi hắn nhìn bà già đang ngồi co rúm người lại ở bên tường, một thoáng cười hiện ra trong đôi mắt hắn: bà ta lo sợ sẽ đến lượt bà ta chắc? Làm gì có chuyện đó!

Hắn nhớ đến một câu ngạn ngữ Pháp: “C’est le premier pas qui coûte”[1]! Có gì đâu mà phải khóc lóc, bà già? Trước sau gì rồi cũng phải có một lần như vậy trong đời người đàn bà. Hắn rút chiếc ví tiền ở túi quần sau.

— Đây, một trăm phật-lăng để cho cô bé ấy mua một bộ áo quần mới khác. Bộ áo quần kia rách tươm hết rồi!

Hắn để tờ giấy bạc trên bàn và đội chiếc mũ sắt lên đầu:

— Đi mày!

Bọn chúng đóng sầm cửa sau lưng chúng, nhảy lên xe máy dầu. Bà mẹ đi sang phòng khách. Cô con gái bà vẫn còn nằm ở trên đi-văng. Nàng vẫn nằm như vậy, từ khi hắn rời nàng, và khóc thật bi thảm.

Ba tháng sau, thằng Hans lại có dịp trở lại Soissons.

Hắn đã vào Paris với đạo quân chiến thắng và đã cởi xe máy dầu đi qua Khải hoàn môn. Với bộ đội, hắn đã tiến tới đầu tiên ở Tours và sau đến Bordeaux. Hắn thấy không có đánh đấm gì bao nhiêu cả. Những người lính Pháp mà hắn gặp đều là những tù binh. Chiến trận chỉ là một đám hội lớn, một cuộc vui chơi, mà hắn chưa bao giờ tưởng tượng đến. Sau ngày đình chiến ở mặt trận Pháp, hắn được ở Paris một tháng. Hắn gởi về cho gia đình hắn ở Bavias những tấm ảnh phong cảnh và nhiều vật kỷ niệm. Willi, nhờ biết rõ thủ đô Pháp như lòng bàn tay, được ở lại đó. Còn hắn và phần còn lại của đơn vị hắn phải trở lại Soissons để nhập vào lưc lượng đang chiếm đóng tại đó. Soissons là một thị trấn nhỏ đẹp, và hắn được đồn trú rất thoải mái ở đó: Đầy đủ thức ăn, và sâm banh thì một chai tính theo tiền Đức, chưa tới một đồng “mark”. Khi hắn được lịnh trở lại đó, hắn nghĩ sẽ là một sự thích thú nếu hắn đến thăm lại cô gái kia. Hắn sắm sẵn một đôi vớ lụa làm quà tặng để tỏ ra hắn không có ác cảm gì với cô ta. Hắn đã từng đi qua địa phương này rồi, nên hắn nghĩ hắn sẽ tìm lại được cái nông trại ấy không khó khăn lắm.

Thế rồi một buổi chiều, rảnh việc, hắn bỏ đôi vớ vào túi và leo lên xe máy dầu. Trời về thu rất đẹp, vài gợn mây thoáng hiện trên cao. Và thực là duyên dáng, cái vùng thoai thoải đồi núi như sóng dợn mà hắn đang lướt qua trên chiếc xe máy dầu của hắn. Mặc dù đã vào tháng chín, cảnh vật vẫn còn khô ráo, và cho đến những cây bạch dương rì rào không biết mệt cũng không báo hiệu là mùa hè đã qua. Hắn quẹo lộn một ngỏ quẹo. Tuy thế chỉ trong khoảng nửa giờ là hắn đã đến nơi. Một con chó lai chồm lên sủa khi hắn tiến đến cửa. Hắn không gõ cửa, nhưng nắm chốt vặn và bước vào. Cô gái đang ngồi gọt khoai tây ở trên bàn. Cô đứng phắt dậy khi thấy có người mặc quân phục đi vào.

— Ông muốn gì?

Nhưng khi nhận ra hắn, cô lùi về phía tường, tay nắm chặt con dao con:

— Thì ra là mày! Cochon!

— Đừng sợ hãi. Tôi không xúc phạm đến cô đâu. Cô thấy không, tôi đến biếu cô một đôi vớ lụa đây!

— Đem nó đi, và mày cũng đi luôn!

— Đừng có dại! Bỏ con dao xuống. Nếu cô tỏ ra hung hăng thì cô chỉ làm thiệt hại cho cô thôi. Cô đừng sợ gì tôi hết!

— Tao không sợ mày đâu!

Nàng để rơi con dao xuống nên nhà. Hắn bỏ nón sắt ra và ngồi xuống. Hắn duỗi chân khoèo con dao về phía hắn.

— Tôi có thể gọt khoai dùm cô không?

Nàng không trả lời. Hắn cúi xuống lượm con dao và lấy một củ khoai trong bát ra gọt. Nàng đứng sát vào tường, nhìn hắn, nét mặt đanh lại, đôi mắt thù hằn. Hắn mỉm cười với nàng, tỏ vẻ thân thiện:

— Tại sao cô có vẻ giận dữ như vây? Tôi có làm thiệt hại gì cho cô nhiều đâu? Hôm ấy tôi bị khích động, chúng tôi đều bị khích động như vậy cả. Người ta nói nào là quân đội Pháp vô địch, nào là phòng tuyến Maginot kiên cố...

Hắn chấm câu bằng một cái cười mỉm.

— Và rượu làm choáng váng đầu óc tôi. Đáng lẽ cô còn mang tai họa nhiều hơn nữa kìa... Nhiều đàn bà bảo rằng tôi không phải là một thằng xấu trai.

Nàng khinh bỉ nhìn hắn từ đầu đến chân.

— Đi ra khỏi chỗ náy!

— Không, tôi chỉ ra khi nào tôi muốn!

— Nếu không đi ra, ba tao sẽ đến Soissons thưa với ông Tướng chỉ huy mày!

— Ông cứ đi thưa thử xem! Có lịnh cho chúng tôi làm bạn với dân chúng. Tên cô là gì?

— Không ăn chung gì đến mày!

Mặt nàng đỏ bừng, và cơn giận làm mắt nàng nảy lửa. Hắn thấy nàng đẹp duyên dáng hơn lần đầu hắn gặp. Hắn cho hắn đã không quá vô duyên. Nàng có một vẻ trang nhã làm người ta liên tưởng đến một thị dân hơn là một người nhà quê. Hắn nhớ rằng mẹ nàng bảo nàng là một giáo viên. Nhận thấy nàng đoan trang, có học thức, hắn lại càng thích trêu chọc. Hắn cảm thấy khỏe mạnh, sung sức. Hắn đưa tay lên vuốt mái tóc quăn màu vàng nhạt của hắn và khúc khích cười khi nghĩ rằng nhiều cô gái có lẽ sẽ sung sướng chụp lấy cơ hội may mắn mà cô ta đã gặp. Da mặt sạm nắng của hắn làm đôi mắt hắn càng thêm xanh biẽc.

— Ba má cô đi đâu?

— Làm ruộng ở ngoài đồng!

— Tôi đang đói. Đem cho tôi một miếng bánh mì, một lát phô-mát và một ly rượu chát. Tôi trả tiền đàng hoàng.

Nàng bật lên một tiếng cười khan:

— Chúng tao không thấy một miếng phô-mát đã ba tháng nay. Còn bánh mì thì vừa đủ để khỏi chết đói. Người Pháp cách đây một năm, bắt hết lừa ngựa của chúng tao, và bây giờ bọn Đức chúng mày vơ vét tất cả bò heo, gà vịt...

— Nhưng họ lấy thì họ trả tiền!

— Chúng tao có thể ăn đưrợc những tờ giấy vô giá trị mà bọn mày trả cho chúng tao không?

Bỗng nàng ứa nước mắt.

— Gia đình cô ăn không đủ no sao?

— Ồ không đâu! Chúng tao ăn sang như vua, nào khoai tây, nào bánh mì, nào củ cải, nào xà lách. Ngày mai, ba tao sẽ đi lên Soissons để xem có thể mua được một ít thịt ngựa không đấy!

— Này cô, tôi không phải là người xấu bụng. Tôi sẽ đem biếu cô phô-mát, có thể một ít thịt dăm-bông nữa!

— Tao không thèm lấy những thứ mày cho đâu. Thà tao chết đói, chứ không bao giờ đụng đến những thức ăn mà chính bọn mày, bọn chó má, đã ăn cướp của chúng tao!

Hắn vẫn trả lời vui vẻ:

— Rồi hãy xem!

Hắn đội nón sắt lên, đứng dậy bước ra ngoài, sau khi chào bằng tiếng Pháp:

— Au revoir, mademoiselle! (Chào tạm biệt cô)

***

Hẳn không thể tự do cởi xe chạy rông khắp nơi mà phải đợi dịp được sai phái đi công tác mới trở lại nông trại lần nữa. Nghĩa là mười ngày sau.

Hẳn bước vào một cách không kèn không trống như lần trước, và lần này hắn gặp hai vợ chồng ông chủ trại ở nhà bếp. Lúc ấy vào khoảng đứng bóng. Bà vợ đang khuấy một nồi gì ở trên bếp. Người chồng ngồi ở bên bàn. Họ đưa mắt nhìn hắn, không có vẻ gì là ngạc nhiên hết. Cô gái chắc đã nói cho họ biết sự viếng thăm của hắn. Họ giữ im lặng. Bà vợ vẫn tiếp tục nấu nướng, ông chồng, vẻ bực bội hiện lên mắt, ngồi nhìn xuống tấm khăn bàn bằng vải dầu. Nhưng phải cần nhiều hơn thế nữa mới có thể xua tan được cái vui tánh của thằng Hans.

— Bonjour la compagnie[2]. Tôi đem đến biếu ông bà một ít quà đây.

Hắn mở cái gói hắn mang theo, lấy ra một miếng phô-mát “bruyère” khá lớn, một khoanh thịt heo và hai hộp cá mòi. Bà vợ xây lại, và hắn mỉm cười khi nhìn thấy một tia sáng thèm khát trong đôi mắt bà. Ông chồng nhìn các thức ăn một cách khó chịu, bực tức. Hắn nở một nụ cười tươi, nói với ông:

— Tôi rất tiếc, chúng ta đã có sự hiểu lầm, lần đầu tiên tôi đến đây. Nhưng hôm ấy đáng lẽ ông không nên can thiệp vào...

Ngay lúc ấy, cô gái đi vào.

— Mày làm gì ở đây?

Nàng hỏi một cách nghiêm khắc. Chợt nhìn thấy những vật thực mà hắn đem đến, nàng lùa lại một đống và ném trả lại cho hắn:

— Đem đi đi!

Nhưng bà mẹ chạy xông tới, rầy nàng:

— Annette, mày điên à?

— Tôi không thể nhận đồ của hắn cho.

— Đây là những vật thực của chúng ta mà bọn chúng đã cướp giựt. Mày nhìn kỹ những hộp cá mòi xem. Đó là cả mòi Bordeaux!

Bà nhặt nhũng thức ăn lên. Thằng Hans nhìn cô gái với vẻ chế diễu trong đôi mắt xanh nhạt.

— Annette là tên cô phải không? Một cái tên đẹp. Tại sao cô không cho ba má cô lấy một chút ít vật thực? Cô bảo rằng cô không có phô-mát đã ba tháng kia mà! Tôi không thể kiếm được thịt dăm-bông. Tôi chỉ cố gắng đến thế thôi!

Bà mẹ nắm miếng thịt heo trong hai tay và giữ chặt vào lòng. Bạn có cảm tưởng như bà muốn ôm nó mà hôn. Hai hàng nước mắt chảy dài trên má Annette. Nàng rên rỉ:

— Thực quá xấu hổ!

— Ồ, có gì là xấu hổ trong miếng phô-mát và miếng thịt heo!

Thắng Hans ngồi xuống ghế và đốt một điếu thuốc hút. Hắn đưa bao thuốc cho ông già. Ông ta ngập ngừng một chốc, nhưng sự cám dỗ quá mạnh, ông rút một điếu, rồi đưa trả bao thuốc cho hắn.

— Bác giữ lấy mà dùng. Tôi có thể mua bao khác dễ dàng!

Hắn hít một hơi dài rồi phì khói ra hai lỗ mũi. Hắn nói:

— Tại sao chúng ta lại không thể thân thiện vói nhau? Sự việc đã lỡ ra rồi thì cũng không thể làm sao được nữa. Chiến tranh là chiến tranh, và bác cũng hiểu tôi muốn nói gì. Tôi biết cô Annette là người có học thức, và tôi mong cô đừng nghĩ xấu cho tôi. Có lẽ chúng tôi còn đóng tại Soissons trong một thời gian nữa, thỉnh thoảng tôi có thể đem biếu hai bác và cô Annette một ít vật dụng để gọi là giúp đỡ gia đình trong cơn ngặt nghèo. Bác biết không, chúng tôi cố gắng gây thiện cảm với dân chúng trong thị trấn, nhưng họ không muốn như vậy. Cho đến nỗi họ không thèm nhìn đến chúng tôi, mỗi khi chúng tôi gặp họ ngoài đường phố. Dù sao sự việc đã xảy ra lần trước khi tôi đến đây với thằng Willi cũng là một sự rủi ro. Hai bác và cô Annette đừng sợ tôi. Tôi trọng nể Annette như em gái tôi vậy!

— Tại sao mày muốn đến đây? Tại sao mày không thể để cho chúng tao yên? - Annette hỏi.

Hắn cũng không biết tại sao. Hắn không thích thổ lộ rằng hắn mong muốn một chút tình người. Sự thù hằn ngấm ngầm vây quanh bọn hắn ở Soissons làm cho tinh thần căng thẳng, đến nỗi có khi hắn muốn đi thẳng đến trước mặt người dân Pháp đã nhìn hắn một cách như không đếm xỉa đến hắn, và quật ngã anh ta. Và có khi hắn lại hị khích động đến gần muốn khóc. Nếu có một nơi nào hắn được tiếp đón niềm nở thì quý hóa biết bao! Hắn đã nói thật khi bảo rằng hắn không thèm muốn Annette. Nàng không phải là hạng đàn bà mà hắn mơ tưởng. Hắn thích những phụ nữ có thân hình cao lớn, ngực đầy, mắt xanh và tóc vàng như hắn; hắn thích những người mập mạp, mạnh khỏe. Cái vẻ thanh nhã mà hắn không thể giải thích được ấy, cái mũi thon nhỏ ấy, đôi mắt đen và khuôn mặt dài ấy - tất cả người nàng có một cái gì làm cho hắn e dè. Vì thế, nếu hắn không bị khích động bởi những chiến thắng của quân đội Đức và đồng thời không mỏi mệt đến thế, nếu hắn không uống đầy một bụng rượu trong khi đang đói, thì hắn đã không đi quá trớn đến nỗi làm cái việc hắn đã làm đối với nàng.

Hôm đó, hắn đã để lại những thức ăn ở nông trại, và hắn đoán chắc hai ông bà già ấy đã ngốn ngấu hết cả rồi. Hắn tự hỏi không biết Annette có cùng ăn không. Hắn cũng sẽ không lấy gì làm ngạc nhiên nếu hắn có thể khám phá ra rằng sau khi hắn xây lưng ra về, cô ta cũng ngồi vào chia phần với mấy người kia. Bọn Pháp ấy mà! Làm sao chúng cưỡng nổi những mối lợi thâu vào mà không hao công tốn của gì hết? Bọn chúng yếu ớt và xuống dốc quá rồi. Cô ta ghét hắn, vâng ghét lắm, nhưng thịt heo vẫn là thịt heo và phô-mát vẫn là phô-mát. Hắn thường nghĩ đến cô ta, và sự thù ghét của cô ta trở thành một sự thách thức, một sự trêu chọc đối với hắn. Hắn quen được đàn bà ưa thích. Hắn nghĩ thực hài hước biết bao, nếu một ngày nào đó, cô ta đâm ra mê hắn. Hắn là người đàn ông thứ nhất đến trong đời cô ta; và hắn thường nghe bọn sinh viên ở Munich bàn tán với nhau bên cạnh những cốc bia rằng người đàn bà chỉ yêu người đàn ông mà họ đã ăn nằm lần đầu tiên. Và sau đó, tình yêu tự nhiên đến. Khi hắn đã nhất quyết theo đuổi một cô gái nào, hắn chưa bao giờ thất bại. Hắn mỉm cười với hắn, và một lóe ranh mảnh hiện lên trong mắt hắn.

Thế rồi hơn hai tuần lễ sau hắn mới được dịp đến nông trại lại. Hắn đã kiếm được phô-mát và bơ, đường, và một hộp xúc xích, một ít cà phê, và hắn chở tất cả lên xe máy dầu. Nhưng lần này hắn không gặp Annette. Nàng và ông thân đang bận làm việc ngoài đồng. Chỉ có bà già đang đứng giữa sân. Mắt bà sáng lên khi nhìn thấy gói đồ hắn đem theo. Bà dẫn hắn vào nhà bếp. Tay bà rung rung khi mở giây buộc gỏi đồ, và bà rớm nước mắt khi nhìn thấy các thức ăn.

— Anh thực tốt quá!

— Tôi có thể ngồi xuống đây không bà?

Hắn hỏi một cách lễ phép.

— Dĩ nhiên! Mời anh ngồi.

Bà nhìn qua cửa sổ; thằng Hans đoán là bà muốn biết chắc Annette chưa về đến.

— Tôi mời anh một ly rượu chát nhé?

— Được vậy thì quý hóa quá!

Hắn có đủ tinh khôn để nhận thấy rằng sự thèm khát nhũng thức ăn đã làm cho bà ta, nếu không trở thành thân thiện với hắn, ít ra cũng mong muốn đối xử với hắn một cách tử tế. Cái nhìn ra ngoài cửa sổ của bà chứng tỏ rằng bà đã đồng lõa với hắn. Hắn hỏi:

— Bác có thích thịt heo không?

— Thịt heo thì quả tuyệt!

— Lần sau tôi cố gắng đem đến cho bác. Annette có thích không?

— Nó không hề đụng đến những gì anh đã để lại. Nó nói thà chết đói còn hơn!

— Dại thực!

— Tôi cũng nói với nó như vậy đó. Tôi nói có đồ ăn mà mày không ăn thì cũng uổng.

Hai người nói chuyện có vẻ tương đắc lắm. Hắn được biết, bà tên là bà Périer. Hắn hỏi bà còn có con cái gì nữa không! Bà thở dài. Không! Hai ông bà có một trai, nhưng bị động viên từ khi chiến tranh mới bùng nổ. Và hắn đã chết. Không phải bị giết, mà là bị sưng màng phổi, và chết ở bịnh viện Nancy.

— Tôi xin chia buồn với bác!

— Có lẽ như vậy mà hay cho nó hơn là nếu nó còn sống đến bây giờ. Tánh khí nó giống con Annette như đúc. Nó không thể chịu đựng được cái nhục nhã của bại trận...

Bà thở ra và tiếp:

— Anh ạ, người Pháp chúng tôi đã bị phản bội!

— Bác nói đúng đấy! Tại sao người Pháp lại đi chiến đấu cho người Ba Lan làm gì? Họ là gì đối với người Pháp mới được chứ?

— Phải rồi, nếu chúng tôi để cho ông Hitler của các anh lấy Ba Lan, có lẽ ông ta để cho chúng tôi yên rồi!

Thằng Hans đứng đậy ra về. Hắn hẹn sẽ trở lại trong một ngày rất gần.

— Tôi sẽ không quên đem thịt heo đến!

***

Thế rồi hắn được may mắn thay đổi công tác. Mỗi tuần hắn được sai phái đi đến một thị xã ở vùng lân cận đó hai lần. Vì vậy, hắn có nhiều cơ hội để đi đến nông trại hơn. Và mỗi lần đến, hắn không quên mang theo quà tặng. Nhưng hắn không tiến thêm được bước nào đối với Annette. Để gây cảm tình với nàng, hắn dùng những mánh khóe mà người ta thường dùng đối với đàn bà, nhưng chúng chỉ làm trò cười cho nàng. Nàng mím môi và nghiêm khắc nhìn hắn với vẻ khinh bỉ như nhìn một vật dơ bẩn. Hơn một lần nàng làm cho hắn tức giận đến nỗi muốn nắm hai vai nàng mà day cho đến chết. Một hôm hắn thấy nàng ngồi một mình. Hắn đến gần, nàng đứng dậy định đi. Hắn chận lại.

— Cô đứng lại! Tôi muốn nói với cô một câu chuyện.

— Nói đi! Tao là một con đàn bà yếu đuối và thiếu tự vệ.

— Điều tôi muốn nói là thế này. Theo những điều tôi được biết thì có lẽ tôi còn đóng ở đây lâu. Tình thế mỗi ngày sẽ mỗi khó khăn đối với dân Pháp. Tôi có thể giúp đỡ được gia đình cô. Tại sao cô lại không tỏ ra biết điều như ba má cô đối với tôi?

Đúng là ông già Périer đã chịu hắn. Bạn chưa thể bảo rằng ông ta đã thân thiện với hắn, vâng ông vẫn đối xử với hắn lạnh nhạt, nhưng lịch sự. Đã có lần ông nhờ hắn mua thuốc lá, và khi hắn từ chối nhận tiền ông trả, ông đã cám ơn hắn. Ông thích nghe hắn cho biết tin tức ở Soissons, và ông mừng rỡ vồ lấy những tờ báo hắn đem đến cho ông. Là con nhà nông, hắn nói chuyện về đồng áng một cách sành sỏi. Nông trại của gia đình hắn thuộc vào loại khá tốt, không lớn cũng không nhỏ, có đầy đủ nước nhờ một con suối chảy ngang, có nhiều cây cối, có đất trồng trọt tốt và có cả đồng cỏ để nuôi gia súc. Hắn cảm thông và chạnh lòng trắc ẩn khi nghe ông lão than thở vì không có nhân công, không có phân bón, kho dự trữ của ông mỗi ngày mỗi vơi dần, và sự nghiệp của ông sẽ đi dần đến sụp đổ.

— Mày hỏi vì sao tao không có thể tỏ ra biết điều như ba má tao hả?

Nàng hỏi lại hắn, rồi kéo áo lên, đưa bụng cho hắn xem. Hắn không tin được đôi mắt hắn! Điều hắn vừa thấy làm cho hắn rúng động cả tâm hồn. Máu dồn lên hai má hắn.

— Cô có thai?

Nàng ngồi sụp xuống ghế. Úp mặt trong hai tay, nức nở khóc, khóc như tan nát cả con tim.

— Xấu hổ như thế đó! Nhục nhã như thế đó!

Hắn chồm tới, định ôm cô gái trong hai tay hắn.

— Em! Em yêu quý của anh!

Nhưng nàng đứng phắt dậy, đẩy hắn ra:

— Đừng đụng vào người tao. Đi đi! Đi đi! Mày làm cho tao chưa đủ khổ rồi sao?

Nàng chạy thoát ra khỏi phòng.

Hắn đợi mấy phút cho đầu óc bớt choáng váng. Hắn chạy xe chầm chầm trở lại Soissons, đầu óc quay cuồng, và khi hắn lên giường nằm, trong suốt mấy tiếng đồng hồ hắn không sao nhắm mắt được. Hắn không thể nghĩ điều gì khác ngoài Annette và cái bụng của nàng. Thực là cảm động không chịu nổi, cái hình ảnh nàng ngồi gục đầu khóc thảm thiết bên cạnh chiếc bàn. Đúng là nàng có thai với hắn. Hắn đang mơ màng thiu thỉu ngủ, bỗng giựt mình thức dậy, mắt mở thao láo một lần nữa vì một sự việc đột ngột vừa xảy đến trong hắn, đột ngột như một phát súng. Hắn yêu nàng! Đó là một sư bất ngờ, một sự chấn động mà hắn không thể đương cự nổi. Tất nhiên trước kia hắn đã nghĩ đến nàng nhiều, nhưng chưa bao giờ như cách ấy. Hắn thường nghĩ sẽ buồn cười biết bao nếu hắn làm cho nàng mê hắn, sẽ là một chiến thắng vẻ vang biết bao nếu với thời gian, nàng sẽ tự hiến dâng cho hắn những gì mà hắn đã phải chiếm đoạt bằng vũ lực. Nhưng từ trước đến nay bao giờ trong đầu óc hắn cũng cho rằng nàng đối với hắn cũng chỉ là một người đàn bà như bao nhiêu người đàn bà khác. Nàng không phải là cái “típ” đàn bà mà hắn thích. Nàng cũng không đẹp lắm. Có gì đặc biệt ở nơi nàng đâu? Thế mà sao hôm nay bỗng chốc hắn lại có một cảm giác kỳ quặc như vậy? Cảm giác ấy không phải là một khoái cảm, mà là một xót đau. Nhưng hắn hiểu rõ cái thứ tình cảm ấy lắm. Đó là tình yêu. Và tình yêu ấy làm cho hắn cảm thấy sung sướng, sung sướng hơn bao giờ cả trong đời hắn. Hắn mong muốn được ôm ấp nàng trong hai tay, nâng niu nàng, hôn hít đôi mắt sầu thương của nàng. Hắn nghĩ hắn không thèm muốn nàng như một người đàn ông thèm muốn một người đàn bà, hắn chỉ mong đươc an ủi, vỗ về nàng được nàng mỉm cười với hắn - Thực lạ lùng, hắn chưa bao giờ thấy nàng cười. Hắn mong được thấy đôi mắt xinh đẹp của nàng chứa đầy trìu mến đối với hắn.

Đã ba ngày, hắn không thể rời Soissons. Ba ngày và ba đêm dài dằng dặc, hắn chỉ nghỉ đến nàng và đứa con nàng mang trong bụng. Rồi hắn được dịp đến nông trại. Hắn mong được gặp riêng bà Périer và thực may cho hắn, hắn đã gặp bà trên đường về nhà. Bà đi nhặt củi trong rừng và đang đi trở về với một bó củi lớn trên lưng. Hắn dừng xe gắn máy. Hắn thừa biết cái vẻ thân mật của bà đối với hắn chỉ là do gói vật thực mà hắn mang theo, nhưng hắn cũng chẳng cần bận tâm đến. Miễn sao bà đối xử với hắn nhã nhặn là được rồi, và điều ấy bà sẵn sàng làm cho đến bao giờ bà có thể rúc rỉa đều đều ở nơi hắn những thứ cần thiết. Hắn nói hắn có câu chuvện cần nói với bà và bảo bà để bó củi xuống. Bà làm theo lời yêu cầu của hắn. Trời hôm ấy có nhiều mây xám nhưng không lạnh. Hắn nói:

— Tôi đã biết về chuyện của Annette!

Bà nhìn sững hắn.

— Làm sao anh biết được? Hắn nhất quyết không cho anh biết mà.

— Annette nói với tôi rồi!

— Cái việc anh làm tối hôm đó thực là một kỳ công. - Bà mỉa mai.

— Tôi đâu có ngờ. Tại sao bác không cho tôi biết sớm hơn?

Bà bắt đầu kể câu chuvện đã xảy ra, với một vẻ không có gì là cay đắng chua chát, cũng không có ý trách móc hắn, mà như đó là một tai bay vạ gió, như con bò cái chết trong lúc sanh đẻ, cái băng giá sắt buốt của mùa xuân làm héo khô cây trái và phá hoại mùa màng, như một tai ách mà loài người phải đón nhận một cách kiên nhẫn và khiêm cung. Sau cái đêm khủng khiếp ấy, Annette nằm liệt giường liệt chiếu mấy ngày liền với một cơn sốt cao độ. Hai ông bà tưởng nàng phát điên. Nàng đã thét la hàng giờ không dứt. Quanh vùng không có một y sĩ nào hết. Viên y sĩ trong làng đã bị động viên. Ngay ở thị trấn Soissons cũng chỉ còn lại hai bác sĩ già và dù cho có phương tiện để đi mời, họ cũng không làm sao đến nông trại được, vì đã có lịnh cấm không cho họ đi ra khỏi thị trấn. Khi cơn sốt hạ, Annete vẫn còn ốm không sao dậy được, và khi khỏi bịnh người nàng ốm xanh xao trông thực tội nghiệp. Sự khích động thực khủng khiếp! Một tháng qua, rồi thêm một tháng qua nữa, nàng không cảm thấy có gì khác, nên không để ý. Nàng thường vẫn có kinh nguyệt không đều. Chính bà Périer là người trước tiên lo ngại có điều không ổn, nên đã gặn hỏi Annette, cả hai mẹ con đều sợ hãi, nhưng chưa thấy có gì chắc chắn, và họ cũng không cho ông Périer biết. Qua tháng thứ ba, họ không thể nghi ngờ gì nữa. Annette đã có thai!

Gia đình họ có một chiếc xe xi-trô-en cũ mà trước chiến tranh, bà Périer mỗi tuần hai lần, chở nông sản lên chợ Soissons bán, nhưng từ khi Đức chiếm đóng, họ không có gì để bán cho xứng đáng một vòng xe. Mà xăng thì gần như không thể kiếm ra. Nhưng lần này họ phải dùng đến nó để đi lên thị trấn. Những xe hơi họ gặp toàn là xe nhà binh. Lính Đức đi cà rởn lòng dòng đến chỗ này chỗ nọ. Trên các đường phố, đầy những phù hiệu Đức. Trước các công thự, những bản Tuyên ngôn, bố cáo viết bằng tiếng Pháp, và ở phía dưới là chữ ký của vị sĩ quan chỉ huy Đức. Nhiều tiệm đóng cửa. Họ đến phòng mạch của một bác sĩ già họ quen biết. Bác sĩ xác nhận những điều mà họ nghi ngờ. Nhưng ông ta là một tín đồ Công giáo thuần thành nên không thể giúp họ phá thai. Thấy họ khóc lóc van nài, ông nhún vai:

— Cảnh ngộ của các bà đâu phải là một trường hợp riêng lẻ. Il faut souffrir![3]

Họ cũng quen biết với vị bác sĩ thứ hai và họ đến tìm ông ta. Họ bấm chuông, nhưng hồi lâu không có ai trả lời. Cuối cùng cánh cửa mở, một người đàn bà vận đồ đen, vẻ mặt buồn bã hiện ra. Nhưng khi họ bảo muốn gặp bác sĩ thì bà ta bật lên tiếng khóc. Bác sĩ đã bị người Đức bắt, vì là một hội viên hội Tam điểm, và hiện đang bị giữ làm con tin. Một trái bom nổ trong quán cà phê mà các sĩ quan Đức thường lui tới, làm hai người chết và nhiều người bị thương. Nếu thủ phạm không bị giao nạp cho nhà cầm quyền trước thời gian ấn định, bác sĩ sẽ bị bắn. Người đàn bà trông rất hiền hâu, và bà Périer nói cho bà biết nỗi lo buồn của họ.

“Bọn chó má!”

Bà buột miệng thốt ra như vậy. Rồi nhìn Annette với vẻ thương xót, bà tiếp:

“Thực khổ cho con gái tôi!”

Bà cho họ địa chỉ của một cô mụ ở trong thị trấn và dặn họ nói là do bà giới thiệu đến. Cô mụ cho họ một ít thuốc. Nhưng thuốc công phạt đến nỗi làm cho Annette tưởng gần chết, chứ không có hiệu quả gì hết. Annette bụng mỗi ngày một lớn.

Đó là câu chuyện bà Périer kể cho thằng Hans nghe. Hắn đứng im lìm một hồi rồi nói:

— Ngày mai là chúa nhựt, tôi được nghỉ. Tôi sẽ trở lại và chúng ta bàn đến chuyện ấy. Tôi sẽ đem đến vài món quà thực tuyệt.

— Chúng tôi thiếu kim may. Anh có thể kiếm cho vài cây không?

— Tôi sẽ cố gắng!

Bà đặt bỏ củi lên lưng, ì ạch lần từng bước trên đường về nhà. Thằng Hans quay trở lại Soissons.

Hôm sau hắn không dám đi xe mô tô mà thuê xe đạp để đi. Hắn buộc gói đồ ăn phía sau xe. Gói đồ lần này lớn hơn những lần trước, vì có cả chai sâm banh ở trong nữa. Hắn đến nông trại vào khoảng gần tối, vì biết chắc giờ đó mọi người đã nghỉ việc trở về nhà rồi. Hắn bước vào. Không khí trong nhà bếp thật ấm cúng. Bà Périer đang làm bếp, chồng bà đang đọc báo Paris soir. Annette đang ngồi đan tấc.

— Bác ạ, tôi có đem biếu bác mấy cây kim may nữa đây.

Hắn nói trong khi mở gói đồ và xây lại phía Anneite.

— Tao không cần gì hết.

— Không cần? - Hắn mỉm cười với nàng và tiếp - Cần chuẩn bị cho đứa bé chứ!

— Annette, anh ấy nói đúng đó. Chúng ta thiếu đủ mọi thứ.

Trong khi bà nói, Annette vẫn không nhìn lên khỏi chiếc tấc đang đan. Đôi mắt thèm khát của bà Périer lục soát gói đồ. Bà thốt lên:

— Một chai sâm banh!

Thằng Hans tỏ ra hân hoan. Hắn nói:

— Bây giờ tôi xin giải thích vì sao tôi đem chai sâm banh. Tôi đã có dụng ý.

Hắn do dự một chốc rồi kéo ghế ngồi xuống trước mặt Annette:

— Tôi không biết bắt đầu sao đây. Annette à, tôi rất ân hận về sự việc tôi đã làm tối hôm ấy. Thực ra không phải lỗi tại tôi mà là vì hoàn cảnh thúc đẩy. Annette có thể tha thứ cho tôi không?

Nàng ném vào hắn một cái nhìn thù hận:

— Không bao giờ! Tại sao mày không để cho tao yên? Mày phá hại cả đời tao chưa đủ sao?

— Điều ấy đúng, tôi công nhận. Đáng lẽ tôi không nên đeo đuổi theo Annette nữa. Nhưng khi được biết Annette sắp có con, tôi lấy làm sung sướng lắm. Sự thể bây giờ đã thay đổi khác. Tôi thật lấy làm kiêu hãnh...

— Mày kiêu hãnh? - Nàng chồm tới trước mặt hắn, hỏi.

— Tôi muốn Annette giữ lấy đứa bé, Annette ạ! Tôi sẽ sung sướng lắm nếu Annette không ruồng bỏ nó.

— Làm sao mày dám nói như vậy?

— Annette hãy nghe tôi nói đã. Từ khi biết được tin ấy, tôi không còn nghĩ gì khác. Chiẽn tranh sẽ chấm dứt trong sáu tháng nữa. Chúng tôi sẽ bắt bọn Anh quỳ gối đầu hàng trong mùa xuân. Bọn chúng hết còn bám víu vào một may mắn nào nữa. Và tôi sẽ giải ngũ, cưới Annette.

— Mày cưới tao? Vì sao?

Mặt hắn đỏ bừng dưới làn da sạm nắng. Hắn không đủ can đảm để nói lên điều ấy bằng tiếng Pháp. Vì vậy hắn nói bằng tiếng Đức, vì biết nàng có thể hiểu được:

— Ich liebe dich.

— Hắn nói gì vậy? - Bà Périer hỏi con.

— Hắn nói hắn yêu tôi!

Annette ngả đầu ra phía sau, và phát lên một tràng cười chát chúa. Tiếng cười càng lúc càng lớn, nàng không thể dừng được và nước mắt chảy ràn rụa từ hai mắt nàng. Bà Périer vả bép bép vào hai má nàng, nói với thằng Hans:

— Anh đừng để ý gì cả. Cơn động kinh! Anh đã biết tình trạng của nó mà!

Annette giật nẩy mình, rồi dần dần trở lại bình tĩnh. Thằng Hans nói:

— Tôi đem chai sâm-banh để chúng ta làm lễ đính hôn.

— Cái điều chua chát nhất của chúng ta, - Nàng nói trổng - là đã bị đánh bại bởi cái bọn ngu xuẩn, cái bọn ngu xuẩn như thằng này!

Thằng Hans lại tiếp tục nói tiếng Đức.

— Tôi không ngờ tôi đã yêu Annette cho đến ngày tôi khám phá ra rằng Annette đã có thai. Điều ấy nó đến với tôi đột ngột như một tiếng sét, nhưng tôi nghĩ tôi đã yêu Annette từ lâu.

— Nó nói gì vậy? - Bà Périer hỏi.

— Chẳng có gì quan trọng. Nhảm nhí cả!

Hắn trở lại nói tiếng pháp, vì muốn cho ba má Annette cùng nghe những điều hắn nói:

— Đáng lẽ tôi làm lễ cưới ngay. Nhưng ba má tôi có lẽ sẽ không chịu để cho tôi làm như vậy. Đừng tưởng tôi là con số không nhé. Ba tôi làm ăn phát đạt. Gia đình tôi được làng nước trọng nể. Tôi là con trai lớn và được nuông chiều đủ mọi thứ.

— Anh có phải là Công giáo không? - Bà Périer hỏi.

— Vâng, tôi là Công giáo!

— Như vậy cũng là một điều đáng kể!

— Miền chúng tôi ở là một miền xinh đẹp, đất tốt. Từ Munich đến Innsbruck không đâu đất đai phì nhiêu bằng ruộng vườn của gia đình tôi. Ông nội tôi tạo mãi cái gia tài ấy sau trận chiến tranh 1870. Nhà chúng tôi có xe hơi, có máy thu thanh và có cả điện thoại nữa.

Annette xây lại nói với cha, vẻ đầy mai mỉa:

— Ba ạ! Cậu công tử này có lẽ là người lịch sự, tao nhã nhất thế giới đó!

Nàng nhìn chòng chọc vào hắn nói:

— Có lẽ đó là một địa vị rất tốt đẹp cho tao, một cô gái ngoại quốc đem từ cái xứ bị xâm chiếm về với một đứa con hoang không hôn thú! Nó cho tao một cơ hội quý báu để chụp lấy hạnh phúc phải không? Thực là dip may hiếm có, ngàn năm một thở!

Ông già Périer, một người ít nói, nói với hắn:

— Không! Tôi không chối cãi là anh đã có một cử chỉ đẹp. Tôi có tham gia trận thế chiến trước, và tất cả chúng tôi đều có những hành động mà có lẽ trong thời bình không bao giờ chúng tôi làm. Nhân tính là nhân tính, không làm sao được! Nhưng bây giờ con trai tôi đã chết, chúng tôi chỉ còn có một mình con Annette. Chúng tôi không thể để cho nó đi xa được!

— Tôi có nghĩ đến điều đó, - Hắn trả lời - và tôi đã có cách giải quyết. Tôi sẽ ở lại đây.

Annette nhìn hắn một cái nhìn chớp nhoáng.

— Anh muốn nói sao? - Bà Périer hỏi.

— Tôi còn có một đứa em trai. Hắn có thể ở nhà và giúp đỡ ba tôi. Tôi yêu cái xứ sở này. Với nghị lực và sáng kiến, người ta có thể biến đổi cái nông trại này thành một nông trại tốt. Sau chiến tranh, một số đông người Đức sẽ ở lại lập nghiệp ở đây. Điều có thể biết chắc chắn là dân Pháp sẽ không có đủ người để khai thác đất đai. Hôm vừa rồi ở Soissons có một người đã diễn thuyết nói cho chúng tôi biết như vậy. Ông ta bảo rằng một phần ba ruộng nương sẽ bị bỏ hoang vì thiếu nhân công!

Hai ông bà Périer trao đổi cho nhau những cái nhìn. Annette biết họ đã bị lung lay. Điều họ mong ước từ khi thằng con trai chết là có một thằng rể to lớn khỏe mạnh để có thể nối nghiệp họ khi họ trở về già, không còn làm được gì ngoài những việc lặt vặt trong nhà. Bà Périer lên tiếng trước:

— Nếu như vậy thì lại khác. Đây là một đề nghị cần xét lại.

— Má câm cái miệng má lại đi!

Nàng nói một cách cộc lốc. Rồi chồm tới trước, nàng nhìn người lính Đức với đôi mắt đỏ lửa, nói một hơi:

— Tao đã được hứa hôn với một nhà giáo dạy trường Nam ở một thị xã mà tao cùng dạy. Chúng tôi định làm lễ thành hôn sau chiến tranh. Anh ta không mạnh khỏe to lớn như mày cũng không đẹp trai. Anh nhỏ con và mảnh khảnh, vẻ đẹp độc nhất ở anh là trí thông minh, trí thông minh bừng sáng nơi mặt ảnh. Sức mạnh độc nhất ở ảnh là sự cao thượng của tâm hồn. Anh ta không phải là một thằng dã man mọi rợ. Ảnh là một người văn minh. Ảnh có một ngàn năm văn hiến ở sau ảnh. Tao yêu anh ta. Yêu với tất cả con tim, yêu với tất cả tâm hồn!

Vẻ mặt thằng Hans sa sầm thiểu não. Chưa bao giờ hắn nghĩ rằng Annette đã có người yêu.

— Bây giờ anh ta ở đâu?

— Mày thử đoán ảnh ở đâu! Ở nước Đức của mày! Bị cầm tù và đang chết đói. Đang chết đói trong khi bọn mày ăn hết mầu mỡ của đất nước tao. Bao nhiêu lần rồi, tao đã bảo là tao thù ghét mày. Mày yêu cầu tao tha thứ cho mày? Không bao giờ! Mày phải đền tội. Thằng ngốc!

Nàng ngả đầu ra phía sau, vẻ đau xót không nguôi hiện lên khuôn mặt nàng. Nàng tiếp:

— Tan nát hết cả rồi! Đã đành ảnh sẽ tha thứ cho tao. Ảnh hiền lành lắm. Nhưng tao bị dày vò vì cái ý nghĩ rằng một ngày nào đó, sự nghi ngờ sẽ len lỏi vào lòng ảnh mà cho rằng: có lẽ tao không bị cưỡng hiếp, có lẽ tao đã tự hiến cho mày vì bơ sữa, vì phô-mát, bít tấc lụa... Ừ, không lẽ chỉ có riêng tao lại khác? Và cuộc đời của chúng ta sẽ ra sao với một đứa con ở giữa, một đứa con của mày, một đứa con Đức! To lớn như mày. Trời! Vì sao tôi lại phải đau khổ đến thế này?

Nàng đứng dậy và biến khỏi nhà bếp. Ba người còn lại ngồi im lặng một phút. Thằng Hans buồn rầu nhìn chai sâm banh.

Hắn thở dài và đứng dậy. Khi hắn đi ra ngoài bà Périer đi theo hắn. Bà hỏi nhỏ hắn:

— Có phải anh muốn nói anh muốn cưới nó không?

— Vâng, đúng như vậy. Tôi yêu Anette.

— Và anh không đem nó đi xa? Anh sẽ ở lại đây và làm việc cho nông trại?

— Tôi hứa với bác như vây.

— Dĩ nhiên ông già của Annette không sống mãi được. Ở gia đình anh, thì anh còn chia gia tài cho em anh, còn ở đây, anh không chia cho ai cả!

— Cũng có như vậy.

— Chúng tôi không bao giờ bằng lòng cho con Annette lấy ông giáo ấy, nhưng khi thằng con trai tôi còn sống, hắn nói nếu con Annette muốn lấy ông giáo, thì tại sao không cho nó làm theo ý nó. Mà con Annette thì say mê ông giáo như chết. Nhưng bây giờ con trai tôi đã qua đời, tình thế lại đổi khác. Dù cho con Annette có muốn, nó cũng không làm sao đảm đương nổi một mình cái nông trại này.

— Thực đáng tiếc, nếu phải bán cho người khác. Tôi hiểu rõ tình cảm của nhà nông đối với ruộng đất của họ làm.

Hai người đi ra đến ngoài đường. Bà già bắt tay hắn, siết mạnh một cái, nói:

— Anh trở lại sớm nhé!

Thằng Hans biết bà đã dứng về phía hắn. Ý nghĩ ấy an ủi hắn trên đường trở về Soissons. Hắn buồn phiền khi nghĩ đến Annette đã có người yêu. Nhưng cũng may, thằng cha ấy hiện đang bị tù, và cũng còn lâu lắm, hắn mới có thể được thả về. Trong khi ấy thì có thể đứa con đã ra đời, cô ả có thể sẽ thay đổi. Đối với đàn bà, bạn khó có thể nói gì trước lắm. Như ở trong làng hắn, có một bà say mê chồng đến đỗi trở thành một trò cười cho thiên hạ, nhưng từ khi có đứa con đầu, bà không làm sao chịu đựng nổi cái bóng dáng của đức lang quân. Ừ! Đã vậy, thì tại sao cái trường họp trái ngược lại không thể xảy ra? Và bây giờ hắn đã đề nghị cưới nàng thì nàng phải thấy rõ hắn là hạng người đứng đắn chứ? Trời! Thực là cảm động chết được khi nàng nhìn với cái đầu ngả lui đàng sau! Và sao nàng nói hay thế? Lời lẽ thực tuyệt! Một nữ kịch sĩ trên sân khấu cũng không thể diễn xuất hay hơn thế, mà lại tự nhiên nữa chứ! Bạn phải công nhận điều này, là bọn Pháp nó biết nói chuyện. Chà! Cô ả thực khôn ngoan lanh lợi. Cho đến khi cô chửi hắn với cái lưỡi chua chát của cô, hắn nghe cũng vẫn thấy khoái. Trình độ giáo dục của hắn đâu phải tồi, thế mà hắn không làm sao theo cô kịp. Văn hóa! Đó chính là văn hóa mà cô ả đã hấp thụ được.

Còn mình là một con lừa! Hắn nói lớn trong khi đạp xe trên đường về. Nàng có bảo rằng hắn to lớn, mạnh khỏe và đẹp trai. Nàng có nói ra như vậy chăng, nếu những điều ấy đối vói nàng không có nghĩa lý gì cả. Và nàng cũng có nói đến đứa con sẽ có đầu tóc đẹp như hắn, đôi mắt xanh như mắt hắn. Nếu màu da hắn không gây cho nàng một ấn tượng nào đó, thì nàng nói ra làm gì chứ? Hắn mỉm cười: “Miễn là mình có đủ thời giờ. Hãy kiên nhẫn, và để cho thời gian làm việc”.

Mấy tuần trôi qua. Viên sĩ quan chỉ huy ở Soissons là một người có tuổi, dễ dãi, và với mục đích để dùng vào mùa xuân tới, ông ta không bắt bộ đội dưới quyền ông phải làm việc nhọc nhằn. Báo chí Đức cho họ biết rằng Anh quốc đang bị tê liệt, chìm đắm dưới những trận mưa bom của không quân Đức, và dân chúng đang sống trong kinh hoàng. Tàu lặn Đức đánh đắm vô số tầu Anh, và cả nước đang đói. Cách mạng thế nào cũng bùng nổ. Trước mùa hè sang năm, chiến tranh sẽ chấm dứt và người Đức sẽ làm bá chủ hoàn cầu. Thằng Hans viết thư về nhà cho cha mẹ biết hắn sắp làm lễ cưởi với một thiếu nữ Pháp, và với cô ta, cả một cái nông trại xinh xắn nữa. Hắn đề nghị với em trai hắn đi vay tiền để mua lại cái phần gia tài của hắn, như vậy hắn sẽ nới rộng nông trại của hắn ở đây bằng cách mua thêm đất ruộng, sẽ rẻ như bèo nhờ chiến tranh và hối xuất cao của đồng mark so với đồng phật-lăng. Hắn đi quan sát nông trại với ông Périer. Ông già im lặng nghe hắn trình bày ý kiến của hắn: cái nông trại cần phải được tu bổ lại, và vì hắn là người Đức, hắn sẽ hưởng được nhiều ưu tiên, cái máy kéo đã quá cũ, hắn sẽ mua một cái máy mới đem từ Đức sang, và mua thêm một cái máy cày nữa. Muốn cho đất ruộng có nhiều hoa mầu, bạn phải biết lợi dụng những phát minh tân kỳ. Sau đó, bà Périer kể lại cho hắn nghe rằng chồng bà khen hắn không phải là một thanh niên tồi và cũng biết được nhiều chuyện. Bây giờ bà đã rất thân thiện với hắn và bắt hắn ở lại ăn cơm trưa với gia đình bà trong những ngày chủ nhật. Bà đổi tên hắn ra tiếng Pháp là Jean. Hắn luôn luôn sẵn sàng giúp một tay trong mọi việc. Trong lúc Annette mỗi ngày mỗi bớt làm việc nặng nhọc, có được một người đàn ông đảm đang như hắn ở trong nhà, cũng là một điều quá may mắn.

Annette vẫn còn giữ nguyên ác cảm với hắn. Không bao giờ nàng nói chuyện với hắn trừ khi phải trả lời những câu hỏi thẳng của hắn, nhưng khi có dịp, nàng rút lui ngay vào phòng riêng. Những lúc trời quá lạnh, không thể ở trong phòng được, nàng xuống nhà bếp ngồi cạnh lò lửa, đan may hay đọc sách, hoàn toàn không để ý đến hắn, làm như không thấy có hắn ở đấy. Sức khỏe của nàng bây giờ thực dồi dào. Màu hồng ửng lên đôi má nàng, và trong mắt thằng Hans, nàng trông thực đẹp. Càng gần ngày sinh nở, dáng điệu nàng lại có một vẻ đài các kỳ lạ, và mỗi khi đắm đuối nhìn nàng, lòng hắn lại rộn ràng vui sướng.

Rồi một hôm, trên đường đến nông trại hắn nhìn thấy bà Périer đứng bên đường ra hiệu cho hắn dừng lại. Hắn hãm xe thiếu điều đứt thắng.

— Tôi đợi anh suõt một giờ đồng hồ rồi đó. Tôi tưởng anh không đến. Anh nên trở về đi. Pierre chết rồi!

— Pierre là ai?

— Pierre Gavin. Ông giáo mà con Annette định lấy làm chồng ấy mà!

Tim thằng Hans nhảy vọt lên. Thực là may mắn! Từ nay hắn có hy vọng nhiều rồi.

— Annette có đau khổ lắm không?

— Nó không khóc lấy một tiếng. Nhưng khi tôi cố an ủi nó, nó lại mắng nhiết tôi. Nếu nó thấy bóng anh hôm nay, có thể nó sẽ đâm anh một dao lút cán!

— Đâu phải lỗi tại tôi nếu anh ta chết? Bác nghe nói thế nào?

— Một người bạn hắn, cũng ở tù bên ấy, thoát qua được bên Thụy Sĩ, gởi thư về cho con Annette. Chúng tôi nhận được thư hồi sáng này. Nguyên là có một cuộc nổi loạn trong nhà giam, vì tù nhân không được cho ăn đầy đủ. Những người cầm đầu đều bị bắn. Pierre là một trong những người ấy.

Thằng Hans không nói gì, nhưng hắn nghĩ sự trừng phạt ấy dạy cho người ta biết khôn ra. Bọn chúng tưởng trại giam là khách sạn Ritz chắc?

— Anh hãy đợi ít hôm cho nó trở lại bình tĩnh đã. Khi nó nguôi nguôi, tôi sẽ nói hơn thiệt với nó. Tôi sẽ viết thư tin cho anh biết ngày nào anh có thể trở lại được.

— Như thế cũng được. Bác ráng nói giúp vào cho tôi, bác nhé!

— Anh cứ tin tôi đi. Ông nhà tôi và tôi thì đã bằng lòng rồi đó. Chúng tôi thường bàn luận với nhau về chuyện ấy. Chúng tôi đi đến kết luận là: không thể làm gì khác hơn là phải chấp nhận hoàn cảnh, ông nhà tôi không phải khờ khạo đâu, ông thường nói: điều hay nhất cho nước Pháp hiện nay là sự hợp tác. Và xét cho cùng, thì tôi cũng không ghét bỏ gì anh. Tôi cũng không cần tự hỏi nếu anh làm chồng con Annette thì có tốt hơn ông giáo kia không. Với đứa bé ra đời, thế là mọi việc đều yên.

— Tôi muốn nó là con trai.

— Thì chắc chắn là con trai rồi đó. Tôi thấy rõ điều ấy trong bã cà phê và trong khi bói bài. Mỗi lần, câu trả lời đều là con trai.

— À, tôi quên mất! Đây, có mấy tờ báo gởi cho bác trai đây.

Hắn nói trong khi quay xe và sắp leo lên. Hắn rút ba tờ báo Paris-soir đưa cho bà. Tối nào ông già Périer cũng đọc báo. Báo nói rằng nước Pháp cần phải thực tế và chấp nhận trật tự mới mà Hitler đang sắp đặt cho Âu Châu. Báo nói rằng tiềm thủy đỉnh Đức đang quét sạch biển cả. Báo nói rằng Bộ tham mưu tối cao đang thảo hoạch các chi tiết cuối cùng cho cuộc đổ bộ để bắt Anh quốc phải quỳ gối đầu hàng. Báo nói rằng người Mỹ thiếu chuẩn bị, quá nhu nhược và quá chia rẽ để có thể đến cứu nước Anh. Báo nói rằng nước Pháp nên chụp lấy cơ hội trời cho mà cộng tác với Đức Quốc xã để chiếm lấy cái địa vị danh dự trong một Âu châu mới. Và đâu phải người Đức đã viết ra tất cả những điều ấy, mà chính là người Pháp. Ông Périer gục gặt đầu tán thành khi đọc thấy nói giai cấp tài phiệt và bọn Do Thái cần phải bị tiêu diệt và người dân nghèo ở Pháp, cuối cùng phải đứng lên tự nắm lấy vận mệnh của mình. Họ nói thực đúng! Những tác giả thông thái cho rằng nước Pháp là một nước căn bản nông nghiệp, và cái xương sống của nó là những người nông dân cần cù. Thực tuyệt! Đó mới thực là biết suy nghĩ.

Mười ngày sau khi được tin Pierre Gavin chết, một hôm sau bữa cơm tối, bà Périer sắp đặt trước với chồng, nói với Aenette:

— Tao có viết thư cho thằng Jean mấy hôm rồi, bảo hắn ngày mai đến đây!

— Cám ơn má đã báo cho biết trước. Ngày mai tôi sẽ ở lại trong phòng!

— Sao lạ vậy? Mày phải ra chứ! Đừng có điên khùng nữa. Mày phải thực tế một chút. Bây giờ thằng Pierre đâu còn nữa. Thắng Jean yêu mày, muốn cưới mày. Nó là một thằng đảm đang, lanh lợi, xinh trai, đứa con gái nào lấy nó chắc cũng sẽ kiêu hãnh lắm đó. Làm sao chúng ta có thể tạo lập nông trại lại được, nếu không có sự giúp sức của hắn? Hắn sắp xuất tiền ra mua một cái máy kéo và một cái máy cày đấy. Cái gì qua rồi mày nên để cho nó qua!

— Mả đừng nói hao hơi vô ích. Trước kia tôi đã tự làm việc để nuôi sống, thì bây giờ tôi cũng tự nuôi sống được. Tôi thù ghét hắn. Tôi ghét cái tánh khoe khoang và phách lối của hắn. Tôi có thể giết hắn được, nhưng cái chết của hắn cũng chưa làm cho tôi thỏa dạ. Tôi muốn hành hạ hắn như hắn đã hành hạ tôi. Tôi nghĩ rằng, tôi sẽ chết sung sướng nếu tôi có thể tìm ra cách gì để làm tổn thương hắn như hắn đã làm tổn thương tôi.

— Mày điên quá rồi con ơi!

— Má mày nói đúng đó, Annette ạ, - Ông Périer nói - chúng ta đã thất trận, chúng ta phải chấp nhận hậu quả của nó. Chúng ta phải cố gắng thu xếp một cách có lợi với những kẻ chiến thắng. Dân ta khôn ngoan tài trí hơn họ, và nếu chúng ta biết xử dụng những lá bài của chúng ta một cách khôn khéo thì chúng ta lại sẽ vượt lên hàng đầu. Nước Pháp đã suy đồi quá rồi, vì sự phá hoại của bọn tài phiệt và bọn Do Thái. Mày đọc báo đi, rồi sẽ thấy rõ như vậy!

— Ba tưởng tôi tin một câu, một chữ nào trong các tờ báo ấy chắc? Ba có tự hỏi tại sao hắn lại đem tờ bảo ấy cho ba đọc, nếu tờ báo không bị bọn Đức mua? Bọn phản quốc! Cả một bọn phản quốc đã viết trong đó. Lạy Chúa cho tôi sống để nhìn thấy bọn chúng bị quốc dân xé xác ra từng mảnh. Tất cả cái bọn ấy điều bị mua, bị mua hết - bị mua bằng tiền Đức. Bọn chó má!

Bà Périer cũng nổi nóng. Bà nói:

— Tại sao mày chống đối, thù hiềm thằng ấy dữ vậy? Hắn hiếp mày - đúng! Nhưng là vì hắn say. Cái chuyện đàn bà bị hiếp đâu phải là lần đầu tiên, mà cũng không phải là lần cuối cùng. Hắn đánh ba mày hộc máu mồm máu mũi, mà ba mày có thù hiềm gì hắn đâu?

— Sự việc ấy thực không vui vẻ gì, nhưng ba cũng đã cho qua!

Annette phá lên cười chua chát:

— Đáng lẽ ba nên làm ông cố đạo. Ba tha thứ cho nhũng kẻ làm hại ba với một tinh thần đúng là của Chúa Ki-tô.

— Như vậy thì có gì là bậy? - Bà Périer hỏi một cách giận dữ! - Thằng Jean đã không làm đủ mọi cách để chuộc lại lỗi lầm của hắn đó sao? Ở đâu, ba mày có thể kiếm ra được thuốc hút trong mấy tháng nay, nếu thằng ấy không đem đến? Nếu chúng ta chưa chết đói cũng là nhờ hắn!

— Nếu má mà còn một chút tự hào, nếu má còn có một ý niệm về liêm sỉ, thì má đã ném trả vào mặt hắn những đồ hắn đem đến.

— Thế mày không ăn những thứ hắn đem đến?

— Không, không bao giờ.

— Mày dối trá, và mày biết mày dối trá. Mày từ chối không ăn phô-mát và bơ và cá mòi hộp. Nhưng trong xúp mày ăn, mày biết rằng tao có hầm thịt heo của hắn đem đến. Và ngay món xà lách mày ăn tối hôm nay, cũng có trộn dầu của hắn đem tới cho tao.

Annette thở ra một tiếng thực dài. Nàng sờ tay lên đôi mắt, nói một cách đau xót:

— Tôi biết! Tôi cố tránh, không ăn nhưng không thể được: tôi đói quá. Vâng, tôi biết có thịt hắn đem đến trong món xúp mà tôi vẫn ăn. Tôi biết xà lách có dầu của hắn, tôi muốn từ chối không ăn, nhưng tôi thèm quá. Thực ra không phải tôi ăn, mà chính cái con quỷ đói ghê gớm đang nằm ở trong bụng tôi nó đòi ăn!

— Đừng ngụy biện vô ích, mô tê gì cũng là mày ăn!

— Ăn với nhục nhã, với tuyệt vọng, với đau lòng! Chúng bẻ gãy lực lượng chúng ta trước tiên bằng phi cơ và thiết giáp, và bây giờ, khi chúng ta thiếu tự vệ, chúng lại đang bẻ gãy tinh thần chúng ta bằng cách bỏ đói chúng ta!

— Con này nó đóng kịch được đấy, nhưng không gạt được ai đâu, con ạ! Mày có học thức, mà thực tình, mày ngu lắm. Mày hãy quên quá khứ đi, và cho con mày một thằng cha. Đó là chưa nói hắn là một nhân công đắc lực cho nông trại, có thể làm việc bằng hai công thuê. Đó là khôn ngoan. Đó là biết suy nghĩ!

Annette nhún vai, chán nản. Ba người chấm dứt cuộc cãi vả trong im lặng.

Hôm sau thằng Hans đến. Annette ném về phía hắn một cái nhìn oán ghét và vẫn ngồi không nhúc nhích. Hắn mỉm cười thân thiện với nàng:

— Cám ơn Annette đã không lánh mặt tôi.

— Ba má tao gọi mày đến, nhưng bây giờ họ đi vào trong làng có việc. Thế cũng là một dịp tốt. Vì tao cũng muốn nói với mày một câu chuyện. Ngồi xuống đó đi!

Hắn cởi áo ngoài, bỏ mũ sắt xuống và kéo ghế ngồi.

— Ba má tao muốn tao lấy mày. Mày thực khôn khéo, mày đem quà tặng, mày hứa hẹn đủ điều, mày tán tỉnh họ. Họ tin những điều họ đọc trong tờ báo mà mày đem đến. Tao muốn nói cho mày hay là không bao giờ tao lấy mày. Tao thấy tao không thể thù ghét ai bằng thù ghét mày!

— Annette cho phẻp tôi nói bắng tiếng đức. Tôi biết Annette có thể hiểu được những lời tôi nói!

— Được, tao có dạy tiếng đức, tao đã làm cô giáo trông nom dạy dỗ hai đứa bé ở Stuttgart trong hai năm.

Hắn đổi sang nói tiếng đức, nhưng Annette vẫn tiếp tục nói tiếng Pháp. Hắn nói:

— Không phải tôi yêu thương Annette, tôi còn ngưỡng mộ Annette nữa. Tôi ngưỡng mộ cái cao quý và thanh nhã của Annette, ở Annette có một cái gì mà tôi không làm sao thấu hiểu được. Tôi quý trọng Annette. Ồ, tôi thấy rõ Annette không muốn lấy tôi ngay bây giờ, dù cho có thể được. Nhưng Pierre nay đã mất.

— Đừng động đến anh ấy. Đó là niềm an ủi cuối cùng của tao. - Nàng nói giọng giận dữ.

— Không, tôi chỉ muốn nói với Annette rằng tôi rất tiếc anh ta đã chết!

— Chết vì bị bọn cai ngục bắn, bắn một cách lạnh lùng thản nhiên!

— Có lẽ rồi Annette cũng sẽ khuây khỏa theo với thời gian. Khi một người thân mình mất, mình nghĩ rằng sẽ không bao giờ mình quên được. Nhưng thời gian sẽ hàn gắn tất cả. Tôi thấy không gì hơn là Annette nên cho con của Annette một người cha!

— Cho dù không có gì khác xảy ra đi nữa, mày cũng đừng tưởng tao có thể quên rằng mày là một thằng Đức, và tao một người đàn bà Pháp. Nếu mày không ngu ngốc như một thằng Đức có thể ngu ngốc, thì mày phải thấy rằng đứa con ấy sẽ là một sỉ nhục cho tao suốt đời. Mày tưởng tao không có bạn bè thân thích sao? Làm sao tao có thể nhìn thẳng vào mặt họ khi tao có một đứa con với một thằng lính Đức? Bây giờ tao chỉ yêu cầu mầy có một điều, là hãy để tao yên với nỗi ô nhục của tao. Mày hãy đi đi! Đi, và đừng bao giờ trở lại nữa!

— Nhưng nó cũng là con của tôi nữa chứ! Tôi muốn đòi con của tôi!

— Con của mày? - Nàng thét lên, vẻ ngạc nhiên - Một đứa con hoang, mày đã tạo ra trong một cơn say mọi rợ, có nghĩa gì đối với mày?

— Annette không thể hiểu được lòng tôi. Tôi rất lấy làm kiêu hãnh và sung sướng khi tôi biết được Annette sắp có con, và chính đó cũng là lúc tôi khám phá ra rằng tôi yêu Annette. Ban đầu, tôi không thể tin được điều đó, nó đối với tôi là cả một sự bất ngờ. Annette hiểu tôi muốn nói gì không? Đứa con sắp ra đời là tất cả đối với tôi trên đời này. Ồ, tôi không biết phải nói thế nào. Nó đem lại trong lòng tôi những cảm giác, những xúc động mà chính tôi cũng không hiểu ra làm sao.

Nàng đăm đăm nhìn hắn, và một tia sáng kỳ dị hiện trong mắt nàng. Bạn có thể nói đó là cái nhìn của sự chiến thắng. Nàng cười gằn:

— Tao không hiểu tao thù ghét cái vũ phu của bọn Đức chúng mày nhiều hơn, hay kinh tởm cái tình cảm của chúng mày nhiều hơn!

Hắn hình như không nghe những điều nàng vừa nói.

— Tôi luôn luôn tưởng nghĩ đến thằng bé!

— Thằng bé! Mày tin chắc nó là con trai?

— Tôi biết nó sẽ là con trai. Tôi muốn được ẵm nó trong hai tay, được tập cho nó đi. Và khi nó lớn, tôi sẽ dạy cho nó những điều tôi biết. Tôi sẽ dạy nó cỡi ngựa, lái xe, bắn súng. Con suối ở đây có cá không? Tôi sẽ dạy nó đi câu, tôi sắp trở thành một người cha hãnh diện nhất trên đời!

Nàng nhìn hắn với đôi mắt nghiêm khắc. Nét mặt nàng trở thành nghiêm nghị cương quyết. Một ý nghĩ, một ý nghĩ kinh khủng đang hình thành trong đầu óc nàng. Hắn mỉm cười thân thiện với nàng:

— Có lẽ khi Annette thấy tôi yêu thằng con chúng ta nhiều như thế nào, Annette cũng sẽ dần dần yêu tôi cho mà xem. Tôi sẽ làm một người chồng tốt của Annette, Annette ạ!

Nàng không nói gì, chỉ nhìn hắn một cách khinh ghét.

— Annette không nói cho tôi được một lời yêu thương nào chăng?

Nàng đỏ bừng mặt. Mười ngón tay nàng đan chặt lấy nhau:

— Người ngoài có thể khinh bỉ tao. Nhưng tao sẽ không bao giờ làm một điều gì để tao tự khinh bỉ tao. Mày là kẻ thù của tao, và sẽ luôn luôn là kẻ thù của tao. Tao chỉ sống để thấy nước Pháp được giải phóng. Điều ấy sẽ đến, có thể không phải sang năm hay sang năm nữa, cũng có thể không phải ba mươi năm sau. Nhưng nó sẽ đến. Người khác muốn làm gì mặc họ, còn tao, tao không bao giờ thỏa hiệp với cái bọn xâm chiếm nước tao. Tao thù ghét mày và thù ghét đứa con mày trong bụng tao. Ừ, chúng tao đang bị đánh bại. Nhưng trước khi chung cuộc mày sẽ thấy rằng chúng tao không bị chinh phục. Bây giờ thì mày đi đi. Tao đã nhất quyết, và không có gì trên trái đất này có thể thay đổi được quyết định của tao!

Thằng Hans im lặng một vài phút. Hắn lại cất tiếng hỏi:

— Annette đã chuẩn bị việc mời bác sĩ chưa? Tôi sẽ đài thọ mọi chi phí.

— Mày tưởng rằng tao muốn loan truyền cái ô nhục này cho cả làng cả nước biết sao? Má tao có thể đảm đương mọi việc khi cần!

— Nhưng giả sử có sự trục trặc thì sao?

— Và giả sử tao yêu cầu mày đừng xía vô công chuyện của người khác, thì mày nghĩ sao?

Hắn thở ra và đứng lên. Hắn đi ra và đóng cửa sau lưng hắn. Annette nhỉn hắn bước trên ngõ dẫn ra phía đường cái. Nàng tức giận nhận thấy rằng những điều hắn vừa nói làm nổi dậy trong lòng nàng một cảm xúc mà từ trước đến giờ nàng chưa bao giờ có đối với hắn.

“Lạy Chủa cho tôi có đủ nghị lực”, nàng nói thầm trong miệng.

Trong lúc hắn đang đi ra, con chó - con chó già mà gia đình nàng đã nuôi mấy năm nay - chạy theo hắn sủa một cách giận dữ. Từ mấy tháng nay hắn cố làm thân với con chó, nhưng con chó vẫn không đáp lại cảm tình của hắn. Mỗi lần hắn đưa tay ra định vuốt ve nó thì nó lùi lại, gầm gừ và nhe răng với hắn. Và bây giờ, con chó đang chạy theo hắn, giận dữ sủa như muốn trút tất cả cái ác cảm của nó. Thằng Hans đá cho nó một đá như trời giáng. Con chó té nhào vào bụi cây, chạy cà nhắc cà nhắc ra xa và kêu oăng oẳng dữ dội.

“Đồ thú vật! - Nàng kêu lên - Đồ dối trá dối trá, dối trá! Thế mà đã có lúc yếu đuối, tao gần muốn thương hại mày!”

Bên cạnh cửa ra vào có treo một tấm gương soi, nàng chợt nhìn thấy bóng mình ở trong ấy. Nàng đứng thẳng người lên và cố mỉm cười với cái hình ảnh mình trong gương. Nhưng đáng lẽ là một cái mỉm cười, thì đó chỉ là một cái nhích mép dữ tợn.

***

Bây giờ là tháng ba. Trong đồn ở Soissons, sự hoạt động trở nên rộn rịp, náo nhiệt. Những cuộc duyệt binh và tập dượt liên miên diễn ra. Tin đồn đủ loại. Chắc sẽ có một cuộc chuyển quân. Những sĩ quan cũng như binh lính chỉ biết đoán mò. Người thì cho rằng sắp có cuộc đổ bộ lên Anh quốc người thì bảo rằng họ sẽ di chuyển sang Balkans, người thì bảo sẽ sang Ukraine. Thằng Hans bận rộn suốt ngày. Cho đến chiều chủ nhật tuần thứ hai, hắn mới có cơ hội ra ngoài để đến nông trại. Đó là một ngày trời xám lạnh, có tuyết rơi bay theo những cơn gió lớn thình lình, cảnh vật thực thê lương ảm đạm.

— Anh đó hả? - Bà Périer reo lên khi thấy hắn bước vào - Chúng tôi tưởng anh đã chết đâu rồi!

— Tôi không thể đến sớm được. Chúng tôi sẽ di chuyển nhưng không biết lúc nào.

— Nó vừa sanh sáng sớm hôm nay. Con trai!

Tim đập mạnh trong lồng ngực thằng Hans. Hắn choàng tay ôm bà Périer hôn trên hai má.

— Sinh nhằm ngày chủ nhật, thằng bé chắc được nhiều may mắn. Chúng ta mở chai sâm banh ra đi. Annette có bình an không?

— Rất khỏe mạnh. Nó sanh rất mau mắn. Nó bắt đầu đau bụng đêm hôm qua và đến gần 5 giờ sáng nay thì sanh.

Ông già Périer ngồi hút thuốc lá bên cạnh lò lửa. Ông lặng lẽ mỉm cười, trước sự vui vẻ nhiệt thành của hắn. Ông nói:

— Đứa con đầu lòng bao giờ cũng gây nhiều xúc động.

— Tóc hắn thực nhiều và vàng như tóc anh vậy, mắt hắn xanh đúng như anh thường ao ước vậy. - Bà Périer nói - Tôi chưa bao giờ thấy một đứa bé ngộ nghĩnh như thế. Nó giống cha nó như đúc!

— Lạy Chúa! Tôi sung sướng quá. Cõi đời thực tuyệt. Tôi muốn vào thăm Annette.

— Không biết nó có muốn gặp anh không? Tôi sợ nó bị kích động mà mất sữa!

— Không, không, tôi sẽ không làm gì để Annnette phải kích động đâu. Nếu Annette không muốn gặp tôi thì thôi. Nhưng cho tôi xem mặt thằng bé, chỉ một phút thôi.

— Xem thử nên tính cách nào đây. Để tôi lên ẵm nó xuống đây nhé!

Bà Périer đi ra, và hai người đàn ông nghe những bước nặng nề trên cầu thang. Nhưng một lát sau, họ nghe bà bước sầm sập trở xuống. Bà đâm sầm vào trong nhà bếp:

— Chúng nó không có ở trên ấy! Con nhỏ không có ở trong phòng, mà thằng bé cũng không!

Ông Périer và thằng Hans đều hoảng hốt kêu lên, và trong lúc bối rối chẳng biết làm gì, cả ba người đều chạy vội lên gác. Ánh sáng nhợt nhạt của buổi chiều lạnh lẽo chiếu trên các đồ đạc cũ kỹ ở trong phòng: cái giường sắt, cái tủ áo rẻ tiền, cái rương có nhiều ngăn kéo, tất cả đều nhớp nhúa, rầu buồn. Không có ai ở trong phòng hết.

— Nó ở đâu?

Bà Périer chạy dài trên hành lang, mở cửa gọi:

— Annette! Annette! Sao mà điên khùng quá thế không biết!

— Có lẽ nó xuống dưới phòng khách.

Ba người lại chạy xuống thang gác để vào phòng khách, ít khi dùng đến. Họ mở cửa phòng và một luồng khí lạnh tạt vào mặt họ. Họ lại mở kho để vật liệu.

— Nó đi đâu mất rồi! Tôi sợ có điều chẳng lành đã xảy ra.

— Làm sao Annette có thể đi ra được? Bằng ngã nào? - Thằng Hans hỏi vẻ lo âu.

— Thì đi qua cửa trước chứ còn ngã nào nữa, anh này thực ngớ ngẩn!

Ông Périer tiến đến mở cửa. Ông nói:

— Đúng rồi, cánh cửa đã rút chốt.

— Lạy Chúa! Lạy Chúa! Sao mà điên dại đến thế con ơi! - Bà Périer kêu lên - Nó sẽ chết mất!

— Chúng ta phải đi kiếm nó.

Nói xong, như có linh tính báo cho biết, thằng Hans chạy trở xuống nhà bếp bằng cái lối nó thường ra vào. Hai người kia chạy theo hắn.

— Ngã nào?

— Ngoài suối!

Bà Périer run bắn cả người lên. Thằng Hans như hóa đá vì hãi hùng. Hắn nhìn bà già, kinh dị. Bà rên siết:

— Tôi sợ quá! Tôi sợ quá!

Thằng Hans sấn tới mở cửa, và ngay khi cửa vừa mở, Annette bước vào. Nàng chỉ mặc trên mình một bộ đồ ngủ và choàng ở ngoài một cái áo dài mỏng mảnh màu hồng điểm hoa xanh nhạt. Người nàng đẫm ướt và tóc nàng rối bù dán sát vào đầu và rơi thành từng về xuống hai vai. Da nàng trắng bạch như thây ma. Bà Périer chồm tới ôm nàng trong hai tay.

— Mày ở đâu về đó? Thực khổ cho con tôi, ướt mèm hết cả thế này. Sao mà điên khùng quá thế!

Nhưng Annette đẩy bà ra. Nàng nhìn thằng Hans:

— Mày đến thực đúng lúc, mày ạ!

— Thằng bé ở đầu? - Bà Périer hỏi.

— Tôi sợ nếu chậm trễ sẽ không đủ can đảm, nên đã làm ngay lập tức!

— Annette, mày làm gì nó rồi?

— Đem cho người ta rồi! [4]

Thằng Hans thét lên một tiếng. Tiếng thét của một con thú bị tử thương. Hắn bưng mặt trong hai tay, lảo đảo như người say rượu chạy ra ngoài cửa. Annette ngồi sụp xuống ghế, gục đầu và tựa trán trên hai nắm tay, nức nở khóc.

 

Chú Thích:

[1] Vạn sự khởi đầu nan.

[2] Chào cả nhà.

[3] Phải đau khổ mà thôi.

[4] Vì nhiều lý do không tiện nói, dịch giả đã mạn phép sửa đổi mấy chữ trong nguyên bản.