Zorba bắt đầu chạy băng qua các mái nhà về phía sân thượng của con người đã được lựa chọn. Khi thấy Angelina đang duyên dáng dựa mình giữa mấy chậu hoa, nó trân trân nhìn rồi thở dài trước khi cất tiếng. “Angelina, đừng hoảng nhé. Tôi ở trên này.”
“Anh muốn gì? Anh là ai?” Cô nàng xinh đẹp giật mình, lên tiếng hỏi.
“Xin đừng bỏ đi, làm ơn. Tôi tên là Zorba và tôi sống ở gần đây. Tôi cần sự giúp đỡ của cô. Tôi xuống đó được không?” Angelina gật đầu.
Zorba bò xuống dưới sân thượng và ngồi quỳ trên hai chân sau. Angelina tiến lại hít nó.
“Anh có mùi của sách, của hơi ẩm, của quần áo cũ, của một con chim, của bụi bặm, nhưng lớp lông của anh lại sạch sẽ,” Angelina kết luận.
“Đó là các loại mùi từ cửa tiệm tạp hóa Harry. Đừng có ngạc nhiên nếu tôi cũng bốc mùi của một con đười ươi,” nó cảnh cáo cô nàng.
Thứ âm nhạc dìu dặt văng vẳng vọng ra sân thượng.
“Âm nhạc tuyệt vời quá!”
“Của Vivaldi. Bản giao hưởng Bốn Mùa. Anh muốn gì ở tôi?” Angelina thắc mắc.
“Tôi muốn cô dẫn tôi vào trong và giới thiệu với chủ của cô,” Zorba trả lời.
“Không đời nào. Ông ấy đang làm việc và không một ai, ngay cả tôi, được phép làm phiền ông ấy,” cô nàng mèo nói.
“Làm ơn đi mà, đây là vấn đề cấp bách lắm. Tôi cầu xin cô nhân danh tất cả mèo sống ở bến cảng này,” Zorba van nài.
“Tại sao anh phải gặp với ông ấy?” Angelina hỏi, tỏ ra thoáng chút nghi ngờ.
“Tôi cần nói chuyện với ông ấy,” Zorba nói chắc gọn.
“Đó là điều cấm kị!” Angelina ngoao lên, lông trên lưng của cô nàng dựng ngược. “Đi ngay khỏi đây!”
“Không đời nào. Và nếu cô không mời tôi vào… ờ, thế thì dẫn ông ấy ra đây! Cô có khoái nghe rock không hả, người đẹp?”
Bên trong, người được chọn đang gõ máy chữ. Ông đang phấn khởi sắp hoàn thành một tác phẩm và những vần thơ tuôn ra như nước. Đột nhiên, từ phía sân thượng, ông ta nghe thấy tiếng ngoao ngóao của một con mèo, không phải là Angelina. Tiếng con mèo gào rõ ràng chẳng theo một giọng nào, nhưng xem chừng lại có nhịp điệu. Nửa bực mình, nửa hiếu kỳ, ông ta bước ra ngoài sân thượng rồi phải dụi mắt để tin vào những điều mình đang nhìn thấy.
Angelina đang lấy hai chân trước bịt tai lại, trước mặt cô nàng là một con mèo mun, to đùng, mập ú đang ngồi lên hai cẳng chân sau, dựa mình vào một chậu hoa. Nó lấy một chân trước nắm lấy đuôi như thể đó là cái cần đàn guitar bass, còn chân kia thì đang giả vờ gẩy đàn tưng tửng trong khi vẫn gào lên ngoeo ngoéo không ngừng.
Khi đã hết ngạc nhiên, con người không thể nào nhịn được cười, và khi ông ta phải cúi gập về phía trước, ôm lấy bụng vì cười dữ quá, Zorba chớp lấy cơ hội để trườn nhanh vào trong nhà.
Khi còn đang mềm oặt cả người ra vì cười, người đó trở vào trong, ông nhìn thấy con mèo đen, to đùng, mập ú ngồi thù lù trên ghế.
“Thật là một buổi diễn ra trò! Mày đúng là một gã Don Juan ngon lành, nhưng ta e là Angelina không ưa nhạc của mày cho lắm. Một màn trình diễn hết sẩy đấy!” Người đó nói.
“Tôi biết tôi là một ca sĩ dở ẹc. Không ai hoàn hảo cả,” Zorba đáp lại bằng ngôn ngữ của loài người.
Con người há hốc miệng, đập một tay lên đầu rồi ngã dựa vào tường.
“Mày.. mày… đang nói,” ông thốt lên.
“Ông cũng đang nói đấy thôi và tôi chẳng ngạc nhiên gì cả. Vui lòng bình tĩnh lại đi nào,” Zorba nói.
“Một… một con mèo… nó nói!” Giờ thì con người ngã vật xuống ghế bành.
“Tôi không nói, tôi chỉ kêu meo meo thôi, nhưng bằng ngôn ngữ của các ông. Tôi biết cách meo bằng nhiều ngôn ngữ,” Zorba đáp.
Con người đó lấy tay che mắt và nhắc đi nhắc lại, “Mình chỉ đang mệt quá thôi. Mình chỉ đang mệt quá thôi.” Khi ông ta bỏ tay ra, con mèo đen, to đùng, mập ú vẫn đang ngồi chình ình trên ghế.
“Tao đang bị ảo giác. Mày chỉ là một ảo giác thôi đúng không?” Con người đó hỏi.
“Không, tôi là một con mèo bằng xương bằng thịt đang ngồi đây trò chuyện với ông,” Zorba khẳng định với ông ta. “Cộng đồng mèo ở cảng đã chọn ông, từ rất nhiều con người để phó thác một vấn đề rất lớn. Chúng tôi hy vọng ông sẽ giúp đỡ. Ông không bị khùng đâu. Tôi có thật.”
“Anh bạn bảo anh có thể nói được nhiều ngôn ngữ?” Con người hỏi, vẫn còn nghi hoặc.
“Tôi cho rằng ông cần minh chứng. Tốt thôi, cứ việc thử tôi.”
“Buon giorno*,” con người nói.
“Bây giờ đã là cuối ngày rồi. Nói Buon Sera* thì tốt hơn,” Zorba chỉnh lại.
“Kalimera*,” con người đó nhấn giọng bằng tiếng Hy Lạp.
“Kalispera*, tôi đã bảo ông là bây giờ muộn rồi mà,” Zorba đính chính lần thứ hai.
“Dobroye utro*!” Con người đó gào lên bằng tiếng Nga.
“Dobry den*. Giờ thì ông tin tôi chưa?” Zorba hỏi.
“Rồi. Và kể cả nếu đây là một giấc mơ thì đã sao? Ta thích nó và muốn tiếp tục mơ,” con người trả lời.
“Tốt, giờ chúng ta vào việc thôi,” Zorba đề nghị.
Con người gật đầu, nhưng ông ta muốn Zorba phải tôn trọng những nghi thức giao tiếp của loài người. Ông ta thết Zorba một liễn sữa, rồi ông ngồi xuốn ghế bành với một ly cô-nhắc trong tay. “Nói đi, anh bạn mèo,” con người đó bảo, và Zorba liền kể lại cho ông ta nghe câu chuyện về cô hải âu hấp hối, quả trứng, Lucky bé bỏng, và những nỗ lực vô vọng của bọn mèo để dạy cho nó bay.
“Ông có thể giúp chúng tôi được không?” Zorba hỏi khi kết thúc câu chuyện của loài mèo.
“Ta nghĩ là ta có thể. Ngay chính đêm nay,” con người đó đáp lại.
“Ngay chính đêm nay. Ông chắc chứ?”
“Nhìn ra cửa sổ xem, anh mèo. Hãy ngước nhìn bầu trời. Anh thấy gì nào?” Con người đó hỏi.
“Mây. Mây đen. Một cơn bão đang tới, trời sắp mưa rồi,” Zorba quan sát.
“Phải, vì thế mà chính là đêm nay đấy,” con người nói.
“Tôi không hiểu. Xin lỗi ông, nhưng tôi chưa hiểu”
Con người đó tiến tới bàn, nhặt lên một cuốn sách rồi lần tìm qua các trang.
“Nghe này, anh mèo. Tôi sẽ đọc cho anh nghe một tác phẩm của nhà thơ có tên Bernardo Atxaga. Một vài dòng trong bài thơ có tựa đề là “Những con hải âu”
“Nhưng những trái tim nhỏ bé
- Những trái tim của thần bay lượn -
Không khao khát gì hơn
Những cơn mưa hoang dại
Những cơn mưa mang lại luồng gió thổi
Những cơn mưa mang lại ánh mặt trời”
“Tôi hiểu rồi. Tôi biết là ông sẽ giúp được chúng tôi mà,” Zorba nói, nhảy bật khỏi chiếc ghế.
Họ thống nhất rằng sẽ gặp lại lúc nửa đêm, bên ngoài hiệu tạp hóa, và con mèo mun, to đùng, mập ú lao đi để thông báo lại cho bạn bè mình.