Chiến Dịch Trái Tim

Chương 4

Thị trấn Bath: Một tuần lễ sau…

NGÀI JONES ĐÃ CHẾT. Venetia nhìn trân trối, hoảng kinh trước mẩu cáo phó trên tờ tin tức. Nàng cảm thấy như ruột gan mình như bị lộn ngược ra ngoài. “Không thể nào. Không đúng.”

Dì của nàng, Beatrice Sawyer; cô em gái mười sáu tuổi, Amelia; và cậu em trai chín tuổi, Edward, tất cả đều cất mắt khỏi món điểm tâm để nhìn nàng.

Đấy chỉ là một mẩu tin nhỏ xíu chen vào cạnh những tin tức về vận chuyển hàng hóa. Venetia sém chút đã bỏ qua hẳn mẩu tin.

Nàng run rẩy đọc lại lần nữa, lần này thì đọc lớn thành tiếng cho mọi người trong bàn cùng nghe.

HỎA HOẠN CHẾT NGƯỜI VÀ TAI NẠN TRÊN PHƯƠNG BẮC

Thi thể một người đàn ông vừa được phát hiện sau một vụ hỏa hoạn chết người tại một khu điền thổ được dân địa phương gọi là Tu Viện. Sự việc đau lòng xảy ra ngày 16 tháng này. Ông Jones được tìm thấy khi đã chết giữa một bộ sưu tập cổ vật, bằng chứng cho thấy ông đã thiệt mạng khi bị một trong những món cổ vật nặng đổ xuống va vào đầu.

Được biết vào thời điểm xảy ra thương vong nạn nhân đang cố cứu những món đồ cổ khỏi biển lửa quét qua khu gia trang. Rất nhiều món đồ đã bị hủy hoại trong đám lửa.

Thi thể được hai vợ chồng người quan gia nhận diện. Hai người đã khai với chính quyền địa phương rằng ông Jones chỉ mới đến ở tại khu Tu Viện này ít ngày trước khi đám cháy cướp đi mạng sống của ông. Hai gia nhân đều không biết gì nhiều về ông chủ của mình. Cả hai đều nói rằng ông ta rất bí ẩn và lập dị.

Venetia bàng hoàng, hạ tờ báo xuống nhìn khắp mọi người quanh bàn. “Đêm mười sáu là đêm chị rời khỏi trụ sở Hội Arcane. Thật không thể nào. Ngài ấy bảo bọn chị sẽ gặp lại nhau. Còn bảo bọn chị có chuyện phải bàn bạc.”

“Vậy sao?” Rõ là Amelia cảm thấy hứng thú lắm. Khuôn mặt xinh đẹp của con bé bừng sáng vì hiếu kỳ. “Thế anh ta muốn bàn chuyện gì với chị vậy?”

Venetia vận hết ý chí để quay về thực tại. “Chị không biết.”

Dì Beatrice cau mày qua mục kinh nhìn nàng. “Cháu có sao không thế?”

“Không sao đâu ạ,” Venetia đáp. “Cháu chỉ đang sốc quá thôi.”

“Trấn tĩnh lại đi cháu,” dì Beatrice khuyên. Khuôn mặt tròn vành vạch của bà chun lại vì lo lắng lẫn chút quở trách. “Phải, cũng hơi choáng thật khi mất một khách hàng độc quyền, giàu có. Nhưng cháu chỉ mới quen biết quý ông kia có mấy ngày. Và anh ta đã thanh toán trước hết rồi.”

Venetia thận trọng gấp tờ báo lại. Mấy ngón tay nàng run.

“Cám ơn dì Beatrice,” nàng lặng lẽ đáp. “Dì khi nào cũng biết cân nhắc mọi chuyện, như trước giờ vẫn vậy.”

Dì Beatrice sau khi nghỉ hưu đã chuyển đến làm quản gia cho gia đình Venetia và ngay sau đó đã dấn thân theo đuổi vô số các loại hình nghệ thuật. Bà đã có mặt trong nhà khi Venetia, Amelia và Edward nhận được tin về vụ lật tàu khủng khiếp đã cướp đi mạng sống của bố mẹ họ. Sự hiện diện của bà đã giúp chị em nàng đứng vững được trước tấn bi kịch lẫn cơn thảm họa tài chính theo ngay sau đấy.

“Chị đã bao giờ bảo là chị đã nảy sinh tình cảm sâu nặng với ông Jones này đâu,” Amelia thốt lên, mắt mở lớn. “Chị chỉ mới ở cạnh ông ta có vài ngày thôi, còn chưa tới một tuần nữa. Chị đã đảm bảo với mọi người rằng ông ấy là người đàng hoàng.”

Venetia cố tình phớt lờ câu nhận xét.

“Căn cứ vào những gì cháu kể,” Beatrice nói, “thì những gì hai gia nhân kia kể lại trong bài báo ấy là đúng thật rồi. Ông Jones kia dường như thích giữ bí mật đến mức gần như lập dị.”

“Cháu sẽ không sử dụng từ lập dị để nói về ông ấy đâu,” Venetia chỉnh lại.

Nghe thế Edward có vẻ rất thích thú. “Vậy chị sẽ dùng từ gì?”

“Phi phàm. Khiêu khích.” Venetia ngừng một chặp, lục lọi trong trí nhớ. “Cuốn hút. Bí ẩn. Thú vị.”

Chỉ đến khi nhìn thấy vẻ kinh ngạc trên khuôn mặt những người khác thì nàng mới nhận ra mình đã để lộ tình cảm của mình nhiều đến thế nào.

“Thật vậy sao cháu yêu.” Giọng dì Beatrice đanh lại vì khó chịu. “Nghe cháu nói thì ông Jones ấy cứ như là một trong những mảnh cổ vật kỳ dị mà cháu bảo là đã chụp trong bảo tàng của ông ta vậy.”

Edward với tay lấy hũ mứt. “Ông Jones ấy có được phủ khắp người bằng những dòng khắc chạm khó đọc và khoác lớp mật mã bí ẩn như những món đồ cổ mà chị đã tả không thế?”

“Nói theo một cách nào đó thì có đấy,” Venetia đáp. Nàng chộp lấy bình cà phê đang được đặt ngay cạnh ấm trà. Nàng thích trà hơn cà phê, nhưng mỗi khi thấy căn thẳng hay khó ở, nàng lại uống cà phê dựa theo lý thuyết rằng cà phê sẽ làm cho hệ thần kinh vững vàng hơn. “Chắc chắn ông ta là một người đầy bí hiểm.”

Amelia cau mày. “Em có thể thấy cái tin kia làm chị buồn nhưng dì Beatrice nói đúng đấy. Làm ơn nhớ cho rằng ông Jones chỉ là một khách hàng thôi, chị Venetia à.”

“Có thể là thế thật, nhưng chị sẽ cho em biết chuyện này,” Venetia vừa nói vừa rót cà phê vào tách. “Nếu ông ta đã chết thật, thì khả năng cao nhất là ông ấy đã bị sát hại, chứ không phải là nạn nhân của một tai nạn đâu. Chị đã kể về hai kẻ đột nhập cố lẻn vào nhà trong đêm chị rời đi đấy. Chị ngờ rằng chính chúng phải chịu trách nhiệm về vụ hỏa hoạn, và có khi cả cái chết của ông Jones nữa. Phải có một cuộc điều tra toàn diện thôi.”

Dì Beatrice ngần ngừ. “Bài báo không đề cập gì đến những kẻ đột nhập, chỉ nói đến vụ hỏa hoạn và tai nạn chết người liên quan đến một món đồ cổ. Cháu có chắc rằng hai người mà cháu nhìn thấy trong rừng tối hôm ấy là bọn trộm không thế?”

“Chắc chắn bọn chúng đến đấy với ý đồ đen tối, cháu có thể đảm bảo được chừng ấy,” Venetia nhỏ giọng đáp. “Vả lại, ông Jones cũng đã nghĩ như thế. Thật ra thì, ông ấy còn quan ngại bọn ấy còn hơn cả cháu. Bởi vậy ông ấy mới nhất mực muốn đưa cháu ra khỏi khu gia trang qua đường hầm bí mật.”

Edward gặm gặm mấu bánh mì nướng. “Em muốn được nhìn thấy đường hầm ấy ghê cơ.”

Mọi người chẳng ai màng đến lời cậu.

Dì Beatrice tỏ vẻ đăm chiêu. “Chắc hẳn chính quyền địa phương cũng đã tiến hành điều tra xác thực rồi nếu họ phát hiện ra dấu hiệu nào cho thấy có vũ lực hay trộm cắp.”

Venetia lơ đễnh trộn kem sữa vào tách cà phê. “Cháu không hiểu tại sao trong bản tin ấy lại không đề cập đến những kẻ đột nhập.”

“Thế còn những gia nhân đã nhận diện xác ông Jones thì sao?” Edward hỏi với vẻ sắc sảo.” Chắc hẳn họ đã phải kể điều gì đó về đám bất lương kia cho các nhà chức trách rồi chứ.” Cậu bé ngừng lại để tỏ ý nhấn mạnh. “Đấy là nếu như có đám bất lương ấy thật.”

Mọi người nhất loạt quay nhìn cậu.

“Hừng,” Venetia lên tiếng. “Ý này là chí lý đấy Edward. Chị thắc mắc vì sao đám gia nhân lại bỏ qua không nhắc đến bọn đột nhập.”

Dì Beatrice khẽ khàng khịt mũi với cung cách thanh tao. “Nhớ đây này, sự kiện ấy chỉ được thuật lại trong mẩu tin bé xíu. Căn cứ vào bản chất của tin tức báo chí thì rất có khả năng bản tin ấy chứa khá nhiều điều không chính xác đấy.”

Venetia thở dài. “Dù có là gì đi nữa, chắc chúng ta sẽ không bao giờ biết được đêm hôm ấy thực sự đã xảy ra chuyện gì.”

“A, dì nghĩ cũng chẳng ngoa nếu nói rằng chúng ta biết chắc ông Jones kia không còn trên cõi đời này nữa,” dì Beatrice tuyên bố. “Chắc chắn đấy là một tin mà báo chí đã phản ánh chính xác. Ta ngờ rằng sẽ chẳng còn công việc chụp ảnh được trả giá hời nào từ nguồn khách hàng ấy nữa đâu.”

Gabriel Jones không thể nào chết rồi được, Venetia thầm nghĩ. Nếu chàng đã chết thì nàng phải biết ngay chứ.

Phải không nhỉ?

Nàng bắt đầu nhấp chút cà phê đặc quánh. Một ý nghĩ chợt lóe lên khiến nàng khựng lại, tay giơ chiếc tách giữa lưng chừng.

“Chẳng biết chuyện gì đã xảy đến cho những tấm phim âm bản lẫn cái bức hình đã rửa ra mà cháu chụp cho ngài Jones tại trụ sở Hội Arcane ấy nhỉ?”

Amelia nhún vai. “Hẳn chúng đã bị đám cháy thiêu rụi rồi.”

Venetia suy nghĩ một hồi. “Còn một chuyện nữa. Trong bài báo không hề đề cập đến một nhiếp ảnh gia đã hiện diện trong khu gia trang vào đêm ông Jones bị giết.”

“Về việc này thì chúng ta phải lấy làm biết ơn lắm lắm,” dì Beatrice thốt lên cùng cái rùng mình lộ rõ dì đang thấy nhẹ cả người. “Chúng ta tuyệt đối không cần đến chuyện cháu bị kéo vào một vụ điều tra án mạng đâu, nhất là khi tình hình tài chính của chúng ta mới bắt đầu vững chắc và khả năng sẽ ổn định lâu dài.”

Venetia đặt tách xuống chiếc đĩa sứ. “Nhờ vào Gabriel Jones và số tiền công ông ấy đã trả trước.”

“Quả vậy,” dì Beatrice đồng tình. “Venetia này, dì biết tin về ông Jones là một đòn giáng khá mạnh vào cháu. Nhưng cháu phải bỏ chuyện ấy lại sau lưng thôi. Tương lai của cả nhà ta là ở Luân Đôn cơ. Các kế hoạch của chúng ta đâu đã vào đấy. Chúng ta phải tiếp tục triển khai nhé.”

“Tất nhiên rồi ạ,” Venetia lơ đãng đáp.

“Khách hàng đến rồi lại đi, Venetia à,” Amelia thêm vào với vẻ thông cảm. “Một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp không thể cho phép mình quá gắn bó với bất kỳ khách hàng nào.”

“Với lại,” dì Beatrice tiếp lời, nói thẳng vào trọng tâm vấn đề, “ông ta đã chết. Dù thực chất chuyện ở trụ sở Hội Arcane có là thế nào, thì cũng không liên quan đến chúng ta nữa rồi. Cháu đã quyết định sẽ lấy tên nào khi chúng ta mở hiệu ảnh ở Luân Đôn chưa?”

“Em vẫn rất ấn tượng với tên Phu nhân Ravenscofi,” Amelia bảo. “Tên ấy mới lãng mạn làm sao, chị nghĩ thế nào?”

“Ta thích tên Phu nhân Harley-Pryce hơn,” dì Beatrice tuyên bố. “Tên ấy nghe kêu hơn nhiều.”

Edward nhăn mặt. “Em thì vẫn cho tên Phu nhân Lancelot là hay hơn cả.”

Amelia chun mũi. “Em đọc quá nhiều truyện về các hiệp sĩ bàn tròn rồi đấy.”

“Hứ,” cậu bé đốp lại. “Chị nói hay thật nhỉ. Em biết thừa là chị lấy cái tên Phu nhân Ravencroft nhảm nhí ấy từ cuốn tiểu thuyết giật gân mà chị đang đọc chứ gì.”

“Vấn đề là,” Venetia quả quyết cắt ngang, “chị không tưởng tượng mình lại sống được dưới bất cứ cái tên nào trong số ấy cả. Chẳng hiểu sao những cái tên này dường như đều không phù hợp, nếu mọi người hiểu được ý chị.”

“Cháu phải quyết định đi thôi và chong chóng vào,” dì Beatrice bảo. “Cháu không thể tự nhận mình là phu nhân Milton được. Khi hai em cháu cũng mang họ Milton thì cháu không thể làm thế. Người ta sẽ nghĩ Amelia và Edward là con của cháu chứ chẳng phải em ruột cháu đâu. Như thế thì không ổn.”

“Cả nhà mình đã từng bàn bạc chuyện này rất lung rồi.” Amelia nhắc nhở. “Chị không còn lựa chọn nào khác đâu ngoài việc ra ngoài làm ăn dưới thân phận một quả phụ.”

“Chí lý,” dì Beatrice tán đồng. “Một quý cô chưa chồng chưa quá ba mươi tuổi sẽ gặp nhiều phiền phức lắm nếu muốn lôi kéo được đối tượng khách hàng phù hợp. Vả lại, cháu sẽ gặp khó khăn khi làm việc với đàn ông mà không dẫn đến những ấn tượng sai lầm. Thân phận quả phụ sẽ cho cháu chút tư cách khả kính mà nếu không là quả phụ thì cháu sẽ chẳng khi nào có được.”

“Cháu hiểu mà,” Venetia nói. Nàng ngồi thẳng người trên ghế. “Lâu nay cháu đã cân nhắc rất lung về tên mới của mình và cháu có quyết định rồi.”

“Chị chọn tên nào thế?” Edward hỏi.

“Chị sẽ gọi mình là Phu nhân Jones,” Venetia đáp.

Amelia, Beatrice và Edward chằm chặp nhìn nàng, miệng há hốc.

“Cháu định lấy tên người khách hàng đã khuất của mình ư?” dì Beatrice kinh ngạc hỏi lại.

“Sao lại không chứ?” Venetia đáp. Chút tiếc nuối buồn thương dấy lên trong lòng nàng. “Ai lại có thể đoán được một ông Gabriel Jones nào đó là nguồn cảm hứng cho cháu chứ? Với lại, Jones là một cái tên hết sức tầm thường.”

“Điều này thì đúng,” Amelia trầm ngâm bảo. “Này chứ, chắc phải có hàng trăm, nếu không muốn nói là hàng nghìn tên Jones ở Luân Đôn này.”

“Chuẩn.” Venetia thấy hào hứng với ý tưởng của mình. “Sẽ chẳng ai liên tưởng cháu với một quý ông trong trụ sở Hội Arcane, người đã từng là khách hàng của cháu, trong thời gian ngắn ngủi. Thực ra thì, để cho chắc ăn, chúng ta sẽ nhào nặn một câu chuyện vặt vãnh hấp dẫn để giải thích vì sao ngài Jones không còn sống trên cõi đời này nữa. Chúng ta phải làm sao để chắc chắn rằng ông ta đã qua đời tại một nơi xa xôi lạ lẫm nào đó.”

“Ta nghĩ như thế cũng khá phù hợp đấy,” dì Beatrice thích thú. “Dầu sao thì, nếu không nhờ Gabriel Jones cùng món tiền công dồi dào trả trước ấy, giờ đây chúng ta đâu có được bàn tính đến kế hoạch cho dự án kinh doanh dự án mới mẻ này đâu.”

Venetia cảm thấy thứ gì đó ươn ướt bắt đầu tụ lại trong đáy mắt. Nàng chớp chớp mắt thật mạnh, chớp nhiều lần, nhưng cảm giác cay xé ấy vẫn quay trở lại.

“Mọi người thứ lỗi cho,” nàng nói cộc lốc. Venetia đứng lên bước quanh bàn đi ra phía cửa. “Cháu chợt nhớ ra là cần phải viết đơn đặt hàng thêm loạt kính ảnh khô mới.”

Nàng có thể cảm nhận được bao cặp mắt lo lắng của gia đình đang đổ dồn vào mình nhưng không ai ra sức ngăn nàng lại.

Nàng vội vã lên lầu, trốn vào căn phòng ngủ bé xíu trong ngôi nhà miền quê được thuê lại. Nàng khép cửa sau lưng rồi nhìn qua tủ áo ở đầu kia của căn phòng.

Thật chậm rãi, nàng đi qua bên ấy, mở tủ lấy ra chiếc áo khoác nam mà mình đã cất vào trong.

Nàng vắt chiếc áo trên tay rồi vuốt ve lần vải đắt tiền theo cái cách nàng đã làm đi làm lại không biết bao lần kể từ khi tháo chạy khỏi trụ sở Hội Arcane.

Nàng mang chiếc áo đến bên giường, nằm xuống mặc cho dòng lệ tuôn lã chã.

MỘT LÚC SAU, khi mọi tâm tư tình cảm đã cạn kiệt đến độ không còn cảm nhận được điều gì nữa, nàng bèn đứng lên lau khô nước mắt.

Thế là quá đủ. Nàng không thể dung dưỡng những tình cảm vô dụng lẫn mơ mộng lãng mạn hão huyền. Nàng là nguồn lực kiếm tiền duy nhất trong gia đình. Tương lai của mọi người hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tiến thân trong sự nghiệp nhiếp ảnh gia ở Luân Đôn của nàng. Nàng không thể cho phép mình bị sao nhãng khỏi những dự tính to tát mà nàng và mọi người trong gia đình đã vạch ra. Thành công luôn đòi hỏi sự lao động cật lực, trí thông minh lẫn khả năng để tâm quan sát chi tiết.

Dì Beatrice nói đúng, nàng vừa tự nhủ vừa nhặt chiếc áo khoác loang nước mắt lên. Chẳng có lý do gì để xúc động thái quá về một khách hàng đã khuất cả. Dầu sao thì nàng cũng chỉ mới quen Gabriel có mấy ngày; chỉ mới làm tình cùng chàng mỗi một lần.

Chàng chỉ là giấc mộng giữa đêm khuya, không hơn không kém.

Venetia cất chiếc áo khoác vào tủ và đóng cửa tủ lại.