Chết Trước Hoàng Hôn

Chương 1

TRƯỚC NGÀY ANH BƯỚC CHÂN VÀO QUÁN, TÔI đã chờ đợi suốt một thời gian dài để được gặp ma cà rồng.

Kể từ khi loài ma cà rồng bước ra khỏi quan tài (như cách họ hay nói đùa) hai năm trước, tôi đã hy vọng sẽ có một người đến Bon Temps. Thị trấn nhỏ bé của chúng tôi đã có đủ mọi kiểu người thiểu số khác rồi - vậy tại sao lại không thể có thêm những con người bất tử mới được luật pháp công nhận chứ? Nhưng hình như miền quê phía Bắc Louisiana không cuốn hút loài ma cà rồng cho lắm; mặt khác, New Orleans mới là trung tâm đích thực của họ - truyện của Anne Rice[1] chẳng thế là gì, phải không?

[1] Anne Rice (sinh năm 1949) nhà văn Mỹ nổi tiếng với bộ tiểu thuyết Ma cà rồng kí sự ba tập gồm Phỏng vấn ma cà rồng (1976), Ma cà rồng Lestat (1985) và Nữ hoàng của những kẻ bị nguyền rủa (1988). Tiểu thuyết của bà đều lấy bối cảnh là thành phố New Orleans, bang Louisiana.

Quãng đường đi xe từ Bon Temps đến New Orleans cũng không xa, và mọi người đến quán bar đều nói rằng chỉ cần ném đá vào góc phố là thể nào bạn cũng đụng trúng ma cà rồng. Tuy nhiên tốt nhất là đừng nên làm thế.

Nhưng tôi vẫn chờ đợi chàng ma cà rồng của riêng mình.

Bạn có thể thấy ngay tôi không đi chơi nhiều lắm. Và không phải do tôi không xinh đẹp. Tôi khá ưa nhìn đấy chứ. Tôi có mái tóc vàng óng, mắt xanh lơ và mới hai mươi lăm tuổi, cộng thêm đôi chân thuôn dài, bộ ngực nở nang và vòng eo thon gọn. Tôi trông khá ổn trong bộ đồng phục bồi bàn mùa hè mà Sam chọn cho chúng tôi: quần short đen, áo phông trắng, tất trắng, giày Nike đen. Nhưng tôi có một khiếm khuyết. Tôi đang cố suy nghĩ về chuyện này theo chiều hướng đó.

Khách quen của quán thì chỉ cho rằng tôi bị điên.

Dù hiểu theo cách nào đi nữa, kết quả vẫn là tôi chưa từng có một buổi hẹn hò nào cho ra hồn cả. Vậy nên chỉ một sự biệt đãi nhỏ nhặt cũng có rất nhiều ý nghĩa đối với tôi.

Và anh - chàng ma cà rồng - ngồi ở bàn tôi phụ trách.

Tôi nhận ra ngay lập tức anh là ai.

Tôi ngạc nhiên khi chẳng có ai quay lại nhìn anh chằm chằm. Họ không phân biệt được! Nhưng theo tôi thấy, làn da anh hơi sáng lên lấp lánh, và thế là tôi biết thôi.

Tôi có thể nhảy múa vì sung sướng, và thật ra đúng là tôi có nhảy chân sáo vài bước ở gần quầy bar. Sam Merlotte, ông chủ của tôi, dời mắt khỏi món đồ uống đang pha chế mà khẽ ngước lên mỉm cười với tôi. Tôi vớ lấy cái khay cùng cuốn sổ và đi về phía bàn nơi chàng ma cà rồng đang ngồi. Hy vọng là màu son của tôi vẫn chưa phai và mái tóc đuôi ngựa vẫn gọn gàng. Tôi vốn dễ căng thẳng, và tôi có thể cảm nhận được nụ cười đang kéo căng khóe môi mình.

Anh có vẻ đang chìm trong dòng suy nghĩ, và tôi có cơ hội ngắm nhìn anh kỹ hơn trước khi anh ngước lên. Tôi ước chừng anh cao xấp xỉ mét tám. Tóc anh màu nâu và dày, chải hất về phía sau gần chạm vào cổ áo, còn tóc mai thì dài và đậm chất cổ điển một cách lạ thường. Anh trông nhợt nhạt, tất nhiên rồi; này nhé, nếu bạn tin vào những câu chuyện cổ thì anh đã chết rồi mà. Theo cách nói giảm nói tránh, mà chính giới ma cà rồng cũng công khai ủng hộ lối nói này, thì anh đã bị nhiễm một loại vi rút và chết lâm sàng vài ngày rồi từ đó bị dị ứng với ánh sáng mặt trời, bạc và tỏi. Chi tiết thế nào còn tùy vào tờ báo bạn đọc. Dạo gần đây báo nào cũng nhan nhản tin tức về ma cà rồng.

Dù sao thì, đôi môi của anh được tạc một cách quyến rũ với những đường nét rõ ràng, còn đôi chân mày sẫm màu thì cong cong hình vòng cung. Mũi anh bổ nhào thẳng tắp ra khỏi đường cung đó, giống như mũi một vị hoàng tử trong bức tranh khảm theo lối Byzantine. Cuối cùng khi anh ngước lên, tôi thấy mắt anh còn sậm màu hơn cả tóc, tròng trắng thì trắng đến không ngờ.

“Xin hỏi, anh muốn dùng gì?” tôi hỏi, sự vui mừng lồ lộ trong từng câu chữ.

Anh nhướng mày. “Ở đây có máu nhân tạo đóng chai không?” anh hỏi.

“Không, tôi rất tiếc! Sam đã đặt hàng rồi. Có lẽ tuần sau mới nhận được.”

“Vậy cho tôi rượu vang đỏ,” anh đáp lại bằng giọng nói trong trẻo quyến rũ, giống như dòng nước lướt trên những phiến đá trơn mượt. Tôi cười thành tiếng. Tất cả đều quá hoàn hảo.

“Anh đừng bận tâm đến Sookie làm gì, con bé bị điên đấy mà,” một giọng nói quen thuộc vang lên từ quầy nước sát tường. Mọi niềm hạnh phúc của tôi trôi sạch, mặc dù tôi có thể cảm thấy nụ cười vẫn đang kéo căng đôi môi mình. Chàng ma cà rồng nhìn tôi chằm chằm, quan sát sinh khí bị rút cạn khỏi khuôn mặt tôi.

“Tôi sẽ lấy rượu cho anh ngay,” tôi nói, rồi sải bước đi mà không thèm nhìn bộ mặt tự mãn của Mack Rattray. Hầu như tối nào hắn cũng ở đó, hắn cùng với mụ vợ Denise. Tôi gọi chúng là vợ chồng nhà Chuột. Kể từ khi chuyển đến căn nhà di động thuê ở góc đường Four Tracks, chúng đã làm đủ mọi chuyện để khiến tôi khổ sở. Tôi chỉ mong sao chúng sẽ biến mất khỏi Bon Temps cũng nhanh như khi đến vậy.

Lần đầu tiên vợ chồng nhà Rattray bước vào quán Merlotte, tôi đã chẳng ngại ngần gì khi đọc suy nghĩ của chúng - tôi biết mình làm thế thì có phần hạ cấp. Nhưng tôi cũng có lúc buồn chán như tất cả mọi người, và dù đã dành hầu hết thời gian để ngăn chặn suy nghĩ của người khác xâm nhập vào tâm trí mình, đôi khi tôi vẫn đành chịu thua. Vậy nên tôi biết vài chuyện về nhà Rattray mà có lẽ chẳng ai biết cả. Ví dụ như chúng đã từng vào tù, với tội danh gì thì tôi cũng không biết. Hay có lần tôi đã đọc được những suy nghĩ bẩn thỉu của Mack Rattray dùng để tự tiêu khiển. Và tôi còn nghe được suy nghĩ trong đầu Denise về chuyện mụ đã bỏ rơi một đứa bé mụ sinh ra hai năm trước, một đứa bé không phải con của Mack.

Và chúng cũng chẳng bao giờ boa tiền cả.

Sam rót rượu vang đỏ vào ly, nhìn về phía bàn của chàng ma cà rồng trong lúc đặt ly rượu lên khay của tôi.

Khi Sam quay lại nhìn tôi, tôi có thể đoán được rằng anh cũng nhận ra vị khách mới của chúng tôi thuộc giống loài bất tử. Sam có đôi mắt màu xanh của diễn viên huyền thoại Paul Newman, như để đối lập với màu mắt xanh xám của tôi. Tóc Sam cũng vàng, nhưng thô xoăn, hơn nữa đó gần như là màu vàng nâu sậm. Da anh hơi luôn có phần rám nắng; và mặc dù bộ quần áo khiến anh nhìn có vẻ mảnh khảnh, nhưng tôi đã từng nhìn thấy anh cởi trần dỡ hàng xuống khỏi xe tải, phần thân trên của anh cuồn cuộn bắp. Tôi chưa từng đọc suy nghĩ của Sam. Anh là ông chủ của tôi. Trước đây tôi phải nhiều lần bỏ việc vì đã khám phá ra những điều tôi không muốn biết về chủ của mình.

Nhưng Sam không bình luận gì mà chỉ đưa rượu cho tôi. Tôi kiểm tra chiếc ly cho chắc là nó sạch bong, rồi sau đó quay lại bàn của chàng ma cà rồng.

“Rượu của anh đây,” tôi nói kiểu cách và cẩn thận đặt ly rượu ngay trước mặt anh. Anh nhìn tôi lần nữa, và tôi chớp lấy cơ hội chăm chú ngắm nhìn đôi mắt tuyệt đẹp của anh. “Mời anh,” tôi nói đầy tự hào. Mack Rattray hét vọng lên sau lưng tôi, “Này, Sookie! Mang cho bọn này một bình bia nữa nhé!” Tôi thở dài quay lại lấy chiếc bình rỗng ở bàn nhà Chuột. Tôi để ý thấy tối nay Denise ăn bận rất bắt mắt với áo yếm và quần soóc, mái tóc xoăn nâu bung quanh khuôn mặt mụ theo đúng phong cách thời thượng. Denise không thật xinh đẹp, nhưng trông mụ thời trang và tự tin đến nỗi phải mất một lúc mới nhận ra điều đó.

Một lát sau, tôi chết trân khi thấy nhà Rattray đã chuyển đến ngồi ở bàn của chàng ma cà rồng. Bọn chúng đang nói chuyện với anh. Tôi để ý thấy anh không đáp lại nhiều, nhưng anh cũng không bỏ đi.

“Nhìn kìa!” tôi ghê tởm nói với Arlene, chị bạn bồi bàn của tôi. Arlene có mái tóc đỏ, mặt nhiều tàn nhang, lớn hơn tôi mười tuổi, và đã kết hôn bốn lần. Chị có hai đứa con, đôi lúc tôi có cảm giác chị coi tôi như đứa con thứ ba của mình.

“Chàng mới đấy hả?” chị nói mà chẳng chú tâm gì lắm. Arlene đang hẹn hò với Rene Lenier, và mặc dù tôi chẳng thấy hay hớm gì, chị lại có vẻ khá hài lòng. Tôi nghĩ Rene là người chồng thứ hai của chị.

“Anh ấy là ma cà rồng đấy,” tôi nói, thấy cần phải chia sẻ niềm vui của mình với người khác.

“Thật à? Ở đây sao? Thôi được, cứ coi là vậy đi,” chị nói, hơi mỉm cười để chứng tỏ chị ý thức được niềm vui của tôi. “Nhưng mà cậu chàng cũng chẳng thông minh lắm đâu, cưng à, nếu cậu ta ngồi với vợ chồng Chuột. Thêm vào đó, Denise đang diễn cho cậu chàng xem kìa.”

Tôi hình dung mọi chuyện rõ ràng hơn sau khi nghe Arlene giải thích; chị hiểu những động tác mơn trớn gợi tình rõ hơn tôi vì chị có kinh nghiệm còn tôi thì không.

Chàng ma cà rồng đang khát. Tôi thường nghe nói loại máu tổng hợp mà người Nhật sản xuất ra chỉ cung cấp đủ dinh dưỡng cho ma cà rồng chứ không làm họ hoàn toàn đã khát được, chính vì thế nên thỉnh thoảng mới xảy ra những “tai nạn không may”. (Đấy là cách nói tránh của ma cà rồng về việc giết người hút máu một cách dã man). Thế mà con mụ Denise Rattray lại ngồi đây vuốt ve yết hầu và xoay cổ qua qua lại lại... Đồ quỷ cái.

Anh trai tôi, Jason, bước vào quán rồi thong dong bước đến ôm tôi. Anh ấy biết rõ phụ nữ thích mẫu đàn ông đối xử tử tế với gia đình và người tàn tật, vậy nên hành động ôm tôi khiến cho sức hấp dẫn của anh tăng lên gấp đôi. Nói thế không có nghĩa là Jason cần phải ghi thêm điểm làm gì. Anh vốn đẹp trai. Tuy đôi lúc cũng tỏ ra xấu tính thật đấy, nhưng hầu hết cánh phụ nữ sẵn sàng bỏ qua điều đó.

“Thế nào, em gái, bà sao rồi?”

“Bà ổn, vẫn như thế. Anh ghé thăm bà đi chứ.”

“Anh sẽ qua mà. Thế tối nay có nàng nào rảnh không?”

“Anh tự tìm đi.” Tôi để ý thấy khi Jason bắt đầu liếc quanh quán, có không ít phụ nữ bối rối đưa tay vuốt tóc, vuốt áo, vuốt môi.

“Này. Anh thấy có DeeAnne. Cô ấy rỗi chứ?”

“Cô ấy đi cùng một tay tài xế từ Hammond. Hắn đang trong nhà vệ sinh. Cẩn thận đấy.”

Jason toét miệng cười với tôi, và tôi không tin nổi những phụ nữ khác lại không nhận thấy sự ích kỷ trong nụ cười đó. Kể cả Arlene cũng nhét áo vào trong quần khi Jason bước vào, đáng ra sau bốn đời chồng chị ấy phải biết cách đánh giá đàn ông hơn rồi mới phải. Một đồng nghiệp khác của tôi, Dawn, hất mái tóc ra sau và đứng thẳng lưng để bộ ngực căng phồng hơn. Jason nhã nhặn vẫy tay chào cô ta. Cô ta giả vờ cười khẩy. Cô nàng không còn quan hệ thân mật với Jason nữa, nhưng vẫn muốn anh chú ý đến mình.

Tôi bận tối tăm mặt mũi - mọi người đều đến quán Merlotte vào tối thứ Bảy để làm vài ly - nên tôi đã mất dấu chàng ma cà rồng trong thoáng chốc. Khi đã có thời gian để quay lại với anh, tôi thấy anh đang nói chuyện với Denise. Mack đang nhìn anh với vẻ thèm khát lồ lộ đến nỗi tôi đâm lo. Tôi bước gần lại, nhìn chằm chằm vào Mack. Cuối cùng, tôi rũ bỏ bức tường chắn của mình và lắng nghe. Mack và Denise từng vào tù vì tội rút máu ma cà rồng.

Rối bời đến cực độ, tôi cứ thế tự động mang bình bia và vài chiếc cốc đến một chiếc bàn bốn người huyên náo. Kể từ khi máu của ma cà rồng được cho là có thể tạm thời loại bỏ được vài chứng bệnh và làm tăng khả năng chăn gối, kiểu như thuốc kháng sinh và Viagra hợp lại làm một, thì có cả một thị trường đen khổng lồ chuyên buôn bán máu ma cà rồng nguyên chất chính hiệu. Có cầu thì ắt có cung; trong trường hợp này, như tôi vừa được biết, là vợ chồng nhà Chuột cặn bã. Trước đây chúng đã đánh bẫy rồi rút cạn máu ma cà rồng, bán mỗi lọ máu nho nhỏ với giá hai trăm đô. Món thuốc này thịnh hành ít nhất hai năm trở lại đây, Vài khách hàng đã phát điên sau khi uống máu ma cà rồng tinh khiết, nhưng điều này chẳng hề làm giảm nhu cầu của thị trường.

Thông thường, ma cà rồng bị rút máu sẽ chẳng sống lâu được. Những Kẻ Rút Máu thường trói ma cà rồng vào cột hoặc đơn giản hơn là cứ để mặc họ lại ngoài trời. Khi mặt trời mọc, mọi thứ sẽ tự chấm dứt. Nhưng thỉnh thoảng, bạn cũng đọc được về những lần lật ngược thế cờ, ma cà rồng tìm được cách thoát ra. Khi đó thì Kẻ Rút Máu cũng chẳng sống thêm được nữa.

Bây giờ thì chàng ma cà rồng của tôi đã đứng dậy để rời đi cùng vợ chồng Chuột. Mack bắt gặp ánh mắt của tôi, và tôi nhận thấy hắn sững người lại trước vẻ mặt tôi. Hắn quay người, nhún vai lờ tôi đi như tất cả những kẻ khác.

Điều này làm tôi phát điên. Thực sự phát điên.

Tôi nên làm gì đây? Khi tôi còn đang đấu tranh với bản thân thì họ đã ra đến cửa. Liệu chàng ma cà rồng có tin tôi không nếu tôi chạy theo kể cho anh tất cả? Ai mà tin được cơ chứ. Mà nếu có tin đi chăng nữa, họ cũng sẽ thấy căm ghét và sợ hãi tôi vì tôi có khả năng đọc được suy nghĩ của người khác. Arlene đã năn nỉ tôi đọc suy nghĩ người chồng thứ tư của chị khi anh ta đến đón chị vào một đêm nọ, vì chị tin chắc anh ta đang tính chuyện rời bỏ ba mẹ con, nhưng tôi đã không làm thế bởi tôi muốn giữ lại người bạn duy nhất mình có. Và ngay cả Arlene cũng chưa bao giờ hỏi thẳng tôi, bởi vì như thế là thừa nhận tôi có khả năng này, có lời nguyền này. Mọi người không thể chấp nhận nó. Họ buộc phải nghĩ là tôi bị điên. Mà thỉnh thoảng đúng là tôi điên điên thật đấy chứ!

Tôi rùng mình, hoang mang, sợ hãi rồi giận dữ, và tôi biết đã đến lúc phải hành động. Tôi phát điên trước cái nhìn Mack dành cho tôi - cứ như thể tôi là kẻ chẳng đáng để tâm vậy. Tôi đi dọc quán bar đến chỗ Jason, lúc này anh đang cố tán tỉnh DeeAnne. Cô nàng không cần đến quá nhiều lời tán tỉnh, nhìn là thấy rõ ngay. Tay tài xế từ Hammond ngồi bên cạnh cô nàng đang quắc mắt nhìn.

“Jason,” tôi nói gấp gáp. Anh quay người ném cho tôi ánh mắt cảnh cáo “Nghe này, sợi xích vẫn còn sau xe tải chứ?”

“Tao chẳng bao giờ đi đâu mà thiếu nó cả,” anh uể oải nói, quét ánh mắt khắp gương mặt tôi để dò tìm dấu hiệu không ổn. “Chuẩn bị đánh nhau với ai à, Sookie?”

Tôi cười đáp lại anh, một nụ cười toét miệng vốn được sử dụng thường trực đến nỗi chẳng cần cố cũng vẫn trưng ra được. “Em chắc chắn là không mong vậy rồi,” tôi vui vẻ đáp.

“Cần tao giúp không?” Rốt cuộc, anh vẫn là anh trai tôi.

“Không cần đâu, cảm ơn anh,” tôi nói, cố sao cho giọng bình thường hết mức. Rồi tôi bước đến chỗ Arlene. “Em có việc phải về sớm một chút. Mấy bàn của em cũng vắng thôi, chị lo giúp em nhé?” Tôi chưa từng nghĩ sẽ có ngày mình nhờ Arlene những việc như thế này, mặc dù tôi đã giúp chị khá nhiều lần rồi. Chị cũng từng đề nghị được giúp tôi. “Được rồi,” tôi nói. “Em sẽ quay lại nếu có thể. Nếu chị lau dọn khu vực bàn của em luôn thì em sẽ dọn hộ chị chiếc xe moóc nhé.”

Arlene phấn khởi gật mái đầu có bờm tóc đỏ.

Tôi tiến về phía cửa dành cho nhân viên, một mình, và giơ ngón tay ra dấu cho Sam hiểu mình đang định đi đâu.

Anh gật đầu. Trông anh chẳng vui vẻ gì- Vậy là tôi đi ra theo lối cửa sau, cố bước thật êm trên con đường rải sỏi. Bãi đỗ xe của nhân viên nằm ở đằng sau, nối với quán bar bằng một cánh cửa dẫn vào nhà kho. Xe của tay đầu bếp đỗ ở đó, cả của Arlene, của Dawn và của tôi nữa. Bên phải tôi, về phía Đông, chiếc xe tải của Sam đỗ trước toa xe moóc của anh.

Tôi băng qua khu vực đỗ xe rải sỏi của nhân viên đến bãi đỗ xe dành cho khách rộng hơn và được rải nhựa nằm ở phía Tây của quán. Cây cối bao quanh khoảng đất trống của Merlotte, và phần rìa của bãi đỗ xe hầu hết cũng đều được rải sỏi. Sam đã bố trí hệ thống chiếu sáng rất tốt, thứ ánh sáng siêu thực của những cột đèn cao áp nơi bãi đỗ xe làm mọi thứ trông thật lạ lùng.

Nhìn thấy chiếc xe thể thao màu đỏ bị móp lõm của vợ chồng Chuột, tôi biết chúng chắc hẳn ở gần đây thôi. Cuối cùng tôi cũng tìm được xe tải của Jason. Đó là một chiếc xe sơn đen viền xanh dương và có những xoáy màu hồng ở hai bên thành xe. Anh hẳn rất thích được chú ý. Tôi nhoài người qua cửa sau, mò mẫm trên băng ghế để tìm sợi xích vừa dày vừa dài mà Sam luôn mang theo phòng trường hợp đánh nhau với ai. Tôi cuộn sợi xích lại và ép chặt vào người để nó khỏi kêu xủng xoẻng.

Tôi suy nghĩ trong giây lát. Nơi kín đáo duy nhất mà nhà Rattray có thể dụ chàng ma cà rồng đến chỉ có thể là ở cuối bãi đỗ, nơi bóng cây phủ kín những chiếc xe. Vậy là tôi rón rén đi về phía ấy, cố cúi thấp người xuống và di chuyển thật nhanh.

Cứ đi được một lúc tôi lại dừng chân nghe ngóng. Chẳng mấy chốc tôi đã nghe thấy tiếng rên rỉ và tiếng người lao xao. Tôi luồn vào giữa đám xe, thì thấy chúng đang ở đúng nơi tôi đoán. Chàng ma cà rồng đang nằm ngửa trên nền đất, gương mặt nhăn nhó vì đau đớn, những sợi xích bắt chéo siết chặt từ cổ tay xuống mắt cá chân anh lờ mờ sáng. Là bạc. Có hai lọ máu nhỏ nằm cạnh chân Denise, và tôi quan sát thấy ả đang lắp một ống đựng máu khác vào đầu kim. Miếng ga rô trên khuỳu tay thắt chặt cẳng tay anh một cách thô bạo. Chúng quay lưng về phía tôi, và chàng ma cà rồng cũng chưa nhìn thấy tôi. Tôi nới lỏng cuộn dây xích để có khoảng một mét xích tự do.

Tấn công tên nào trước bây giờ? Cả hai đều nhỏ người và rất nguy hiểm. Tôi nhớ lại thái độ xua đuổi khinh khỉnh của Mack và chuyện hắn chưa bao giờ để lại tiền boa. Trước tiên là Mack.

Trước đây tôi chưa bao giờ đánh nhau với ai. Chẳng hiểu sao, tôi mong ngóng được thử.

Từ phía sau một chiếc xe tải, tôi nhảy ra rồi vung sợi xích. Nó văng mạnh vào lưng Mack ngay khi hắn cúi người xuống sát nạn nhân. Hắn rống to và nhảy dựng lên. Trong chớp mắt, Denise đã gắn xong ống đựng máu thứ ba. Bàn tay Mack thọc sâu vào chiếc ủng rút ra một vật sáng lấp lánh. Tôi nuốt nước bọt. Hắn cầm một con dao.

“Ái chà,” tôi nhe răng cười.

“Con khốn!” hắn hét lên. Nghe cứ như thể hắn sắp giết tôi đến nơi vậy. Tôi không còn quá để tâm đến việc rào chắn tâm trí mình nữa, và tôi nắm bắt ngay được Mack định làm gì. Điều này làm tôi thật sự phát khùng. Tôi tiến về phía hắn, rắp tâm vận hết khả năng để khiến hắn đau đớn tột độ. Nhưng khi tôi vung sợi xích thì hắn cũng đã sẵn sàng lăm lăm con dao lao về phía trước. Hắn nhằm vào cánh tay tôi nhưng trượt. Sợi xích theo đà quấn quanh chiếc cổ gầy nhẳng của Mack như một người tình yêu dấu. Tiếng kêu đắc thắng tắc nghẹn trong cổ Mack. Hắn buông dao, dùng cả hai cánh tay để cố cào thoát khỏi sợi xích. Nghẹn thở, hắn khuỵu xuống vỉa hè gồ ghề, giật sợi xích tuột khỏi tay tôi.

Vậy đấy, sợi xích của Jason đã tuột khỏi tay tôi. Tôi liền cúi xuống lượm con dao của Mack, nắm thật chặt cứ như thể đã quá thành thục với những thứ như thế này. Denise lao về phía trước, không khác gì mụ phù thủy lỗ mãng dưới ánh đèn cao áp.

Mụ khựng lại khi thấy tôi đang cầm con dao của Mack. Mụ nguyền rủa và chửi bới bằng những ngôn từ thô bỉ nhất. Tôi đợi đến lúc mụ nói xong rồi mới hét lên, “Cút. Ngay.”

Denise ném cho tôi cái nhìn uất hận. Mụ cố với tay lấy mấy ống đựng máu, nhưng tôi huýt sáo ra hiệu cho ả để chúng ở yên đấy. Vậy là mụ đành lôi Mack đi. Hắn vẫn chưa thôi khò khè, tay vẫn nắm chặt sợi xích. Denise phải kéo lê hắn đến xe và tống hắn vào ghế phụ. Lôi phắt chìa khóa ra khỏi túi, Denise quăng mình vào ghế tài xế.

Khi nghe thấy tiếng động cơ xe gầm lên, tôi đột ngột nhận ra giờ đây vợ chồng nhà Chuột đã có một thứ vũ khí khác. Chưa bao giờ nhanh như thế, tôi hổn hển chạy đến chỗ chàng ma cà rồng, “Dùng chân đẩy đi!”

Tôi kẹp chặt anh dưới cánh tay mình và vận hết sức kéo anh lùi về phía sau, còn anh thì cố dùng chân đẩy mạnh. Khi cả hai vừa vào được giữa hàng cây thì cũng là lúc chiếc xe màu đỏ điên cuồng lao tới. Denise đâm trượt vài thước vì phải cua tay lái tránh một gốc sồi. Rồi tôi nghe tiếng động cơ xe của vợ chồng nhà Chuột xa dần.

“Ôi,” tôi thở dốc và khuyu xuống cạnh chàng ma cà rồng vì đầu gối chẳng thể chống được sức nặng của cơ thể mình nữa. Tôi thở nặng nhọc đến cả phút, cố giữ mình khỏi quỵ hẳn. Chàng ma cà rồng khẽ cử động, và tôi nhìn anh. Tôi kinh hoàng nhận ra một làn khói mỏng lờ lững trôi từ cổ tay anh, nơi vong đai bạc đang thít chặt.

“Ôi, tội nghiệp anh,” tôi thốt lên, tự trách mình vì đã không lo cho anh ngay. Vừa cố lấy lại nhịp thở, tôi vừa bắt đầu tháo vòng đai mỏng bằng bạc có lẽ đã được cắt ra từ một sợi xích rất dài. “Tội nghiệp cưng,” Tôi thì thầm, mãi về sau này mới nhận ra câu nói ấy nghe kỳ cục đến mức nào. Tôi vốn có đôi bàn tay khéo léo, nên chẳng mấy chốc đã tháo được vòng đai ra khỏi cổ tay anh. Tôi tự hỏi không biết làm sao vợ chồng nhà Chuột có thể đánh lạc hướng anh để mà tròng những thứ này vào, và tôi có thể cảm thấy mặt mình đang đỏ dần lên khi hình dung ra chuyện đó. Chàng ma cà rồng ghì chặt cánh tay vào ngực trong khi tôi cố tháo những vòng đai bạc quấn quanh chân anh. Mắt cá chân anh trông có vẻ ổn hơn vì bọn Rút Máu kia chẳng buồn kéo cao quần anh lên để tròng sợi dây bạc vào làn da trần.

“Tôi xin lỗi vì đã không đến nhanh hơn được,” tôi nói với vẻ hối lỗi. “Anh sẽ thấy khá lên ngay thôi, đúng không? Anh có muốn tôi đi không?”

“Không.”

Câu trả lời làm tôi cảm thấy khá dễ chịu, cho đến khi anh thêm vào, “Chúng có thể quay lại, mà tôi thì vẫn chưa đánh đấm được.” Giọng nói điềm tĩnh của anh không được bình thường, nhưng tôi không dám chắc là anh có thở gấp hay không.

Tôi nhìn anh với vẻ cáu kỉnh, và khi anh đang dần phục hồi, tôi thận trọng hơn một chút. Tôi quay lưng lại, cho anh chút riêng tư. Lúc bị thương mà cứ có ai nhìn chằm chằm vào mình thì thật chẳng thoải mái chút nào. Tôi quét mắt dọc vỉa hè, chú ý quan sát bãi đỗ xe. Một số xe đã rời đi, nhiều chiếc khác đỗ vào thế chỗ, nhưng chẳng ai đi đến cuối con đường cạnh cánh rừng. Dựa vào sự biến động của luồng không khí xung quanh mình, tôi biết chàng ma cà rồng đã đứng dậy.

Anh không lên tiếng ngay. Tôi quay đầu sang trái nhìn anh. Anh đứng gần hơn tôi nghĩ. Cặp mắt đen huyền của anh nhìn thẳng vào mắt tôi. Răng nanh của anh đã thu lại; tôi hơi thất vọng vì chuyện này.

“Cảm ơn,” anh nói một cách khó nhọc.

Vậy chàng ta không thích thú gì chuyện được phụ nữ giải cứu. Một anh chàng điển hình.

Vì anh đã tỏ ra khiếm nhã quá mức, tôi cảm thấy mình cũng có thể đáp lại bằng một hành động thô lỗ, vậy là tôi mở hết tâm trí để lắng nghe anh.

Và tôi... chẳng nghe được gì cả.

“Ồ,” tôi thốt lên, nghe rõ sự sửng sốt trong giọng nói của chính mình, gần như chẳng ý thức được mình đang nói gì. “Tôi không nghe thấy anh.”

“Cảm ơn!” chàng ma cà rồng đáp, miệng nhành ra.

“Không, không... tôi có thể nghe thấy anh nói, nhưng...” Và trong nỗi phấn khích, tôi đã làm một chuyện mà như bình thường chắc chắn tôi sẽ không bao giờ làm, vì đó là một hành động vừa mang tính cá nhân, vừa có vẻ tự đề cao mình, đồng thời lại chứng tỏ tôi là một kẻ không bình thường. Tôi xoay hẳn người về phía anh, đặt hai bàn tay lên đôi má xanh nhợt của anh và nhìn anh chăm chú. Tôi dồn tất cả sự chú tâm của mình. Chẳng có gì cả. Cứ như thể bạn suốt ngày phải nghe radio, nghe đủ mọi kênh mà bạn không hề chủ tâm chọn, rồi đột nhiên bạn chẳng nhận được tín hiệu nào nữa.

Cảm giác thật tuyệt.

Cặp mắt anh mở lớn hơn, đen hơn, mặc dù anh vẫn không hề cử động. “Xin lỗi anh,” tôi nói, thở hổn hển vì xấu hổ. Tôi vội buông tay, tiếp tục nhìn chằm chằm về phía bãi đỗ xe. Rồi tôi bắt đầu huyên thuyên đủ chuyện về Mack và Denise, trong khi vẫn không ngừng nghĩ về sự tuyệt diệu khi có một người bạn mà mình chẳng thể nghe được suy nghĩ của họ trừ phi họ nói ra. Sự im lặng của anh mới tuyệt diệu làm sao.

“... vậy nên tôi nghĩ mình nên ra đây xem anh có ổn không,” tôi kết luận mà chẳng biết nãy giờ mình huyên thuyên những gì.

“Cô đến đây để cứu tôi. Thật dũng cảm,” anh nói bằng một giọng quyến rũ đến độ có thể lôi tuột DeeAnne ra khỏi chiếc quần lót đỏ của cô nàng. “Anh thôi ngay cái giọng đó đi,” tôi chanh chua, giậm chân thình thịch xuống đất.

Anh kinh ngạc nhìn tôi vài giây, trước khi khuôn mặt anh trở lại sắc trắng nhẹ nhàng.

“Cô không sợ phải ở một mình cạnh một tên ma cà rồng đang đói sao?” anh hỏi, có chút gì đó tinh quái và nguy hiểm ẩn trong từng câu chữ.

“Không.”

“Có phải cô cho rằng vì đã cứu tôi nên cô sẽ được an toàn, rằng sau bao nhiêu tháng năm, trong tôi vẫn nhen nhúm một thứ cảm xúc ủy mị? Ma cà rồng thường xuyên phản bội lại những người tin họ. Chúng tôi không có nhân tính, cô biết rồi đấy.”

“Có cả đống người cũng phản bội lại những người tin mình,” tôi chỉ ra. Tôi chỉ thực tế thôi. “Tôi không hoàn toàn ngu ngốc đâu.” Tôi chìa cánh tay ra và xoay cổ lại. Trong lúc anh đang phục hồi, tôi đã quấn sợi xích của vợ chồng Chuột quanh cổ và tay mình. Anh run bần bật.

“Nhưng ở đùi non cô có những mạch máu ngon lành lắm đấy,” anh đáp sau một thoáng dừng để trấn tĩnh, giọng anh trở nên hiểm độc như một con rắn trơn tuột.

“Đừng nói chuyện bậy bạ,” tôi nói với anh. “Tôi không nghe đâu.”

Một lần nữa chúng tôi lại nhìn nhau trong im lặng. Tôi sợ rằng mình sẽ chẳng bao giờ gặp lại anh nữa; xét cho cùng, chuyến viếng thăm Merlotte lần đầu tiên của anh rõ ràng chẳng hề mỹ mãn. Nên tôi cố thu thập mọi chi tiết có thể; tôi quý trọng cuộc gặp gỡ này và sẽ còn nhâm nhi nó trong một khoảng thời gian rất dài nữa. Nó rất hiếm hoi, như một phần thưởng vậy. Tôi muốn chạm vào làn da anh lần nữa. Tôi chẳng thể nhớ được cảm giác đó. Nhưng hành động đó sẽ vượt quá những ranh giới ứng xử, và cũng có thể khiến anh lại tiếp tục màn quyến rũ vớ vẩn đó.

“Cô có muốn uống chỗ máu chúng thu được không?” anh hỏi đột ngột. “Đó sẽ là cách tôi tỏ lòng biết ơn của mình.” Anh ra hiệu về phía mấy cái lọ nằm trên mặt đường. “Máu của tôi được cho là có khả năng cải thiện sức khỏe cũng như đời sống chăn gối của cô đấy.”

“Tôi khỏe như vâm,” tôi thành thực đáp. “Và tôi cũng chẳng có đời sống chăn gối để mà nhắc đến nữa. Anh thích làm gì với chúng thì làm.”

“Cô có thể bán chúng đi,” anh gợi ý, nhưng tôi nghĩ anh chỉ đợi xem tôi phản ứng thế nào thôi.

“Tôi không đụng đến chúng đâu,” tôi nói với vẻ bị xúc phạm.

“Cô thật khác thường,” anh nói. “Cô là gì vậy hả?” Từ ánh mắt của anh, có vẻ như anh đang lập ra trong đầu cả một danh sách các khả năng. Tôi thích thú nhận ra mình chẳng thể nghe thấy một ý nghĩ nào trong số đó.

“Được thôi. Tôi là Sookie Stackhouse, và tôi làm phục vụ bàn,” tôi đáp. “Còn anh tên gì?” Tôi cho là ít ra mình cũng có thể hỏi điều đó mà không bị cho là quá mạo muội.

“Bill,” anh đáp Tôi cười lăn lộn mà chẳng thể dừng kịp được.

“Ma cà rồng Bill!” tôi nói. “Tôi cứ tưởng là Antoine, Basil hay Langford kia đấy! Bill!” Đã lâu lắm rồi tôi không cười đã đời như thế. “Vậy, gặp anh sau nhé, Bill. Tôi phải quay lại làm việc đây.” Tôi cảm thấy hơi căng thẳng khi nghĩ về việc quay lại Merlotte. Vịn tay vào vai Bill, tôi đứng dậy. Bờ vai anh rắn chắc như đá, và tôi bật dậy quá nhanh đến nỗi suýt ngã. Tôi xem lại đôi tất để chắc cổ tất vẫn đều nhau, kiểm tra lại quần áo xem có bị rách ở đâu trong cuộc giằng co với lũ Chuột không. Tôi phủi quần, vì lúc nãy lỡ ngồi trên vỉa hè bẩn, vẫy tay chào Bill rồi băng qua bãi xe.

Đó là một buổi tối thú vị và đầy cảm xúc. Tôi cảm thấy rộn ràng vui sướng mỗi lần nghĩ về nó.

Nhưng Jason sẽ cáu điên lên về chuyện sợi xích cho xem.

SAU CA LÀM tối hôm đó, tôi lái xe trở về căn nhà nằm cách quán bar bốn dặm về phía Nam. Khi tôi quay lại làm việc, Jason đã đi (và lẽ dĩ nhiên DeeAnne cũng thế), lại thêm một chuyện hay ho nữa. Tôi ngẫm đi ngẫm lại về buổi tối đó trên đường lái xe về nhà bà, nơi tôi đang sống. Nó nằm ngay trước nghĩa trang Tall Pines, cách xa con đường hẹp hai làn của vùng xứ đạo. Cụ cố của tôi đã xây dựng ngôi nhà này, và cụ đã ấp ủ những mong muốn về sự riêng tư, nên để đến được ngôi nhà, bạn phải rẽ khỏi con đường xứ đạo, băng qua rừng, rồi mới đến một khoảng rừng thưa nơi ngôi nhà tọa lạc.

Tôi dám chắc chẳng còn dấu tích gì của ngôi nhà hồi xưa nữa, vì qua năm tháng, tất cả những phần cũ nhất đã bị gỡ đi để thay mới, và tất nhiên ngôi nhà có điện, nước và tất cả những vật dụng tân tiến khác. Nhưng nó vẫn có mái nhà bằng thiếc, sáng lóa lên trong những ngày nắng. Hồi mái cần phải sửa, tôi muốn thay vật liệu bằng thứ ngói lợp thông thường nhưng bà không đồng ý. Tiền của tôi, nhưng nhà của bà, nên lẽ đương nhiên, mái nhà vẫn làm bằng thiếc.

Cho dù ngôi nhà có cổ kính hay không thì tôi vẫn sống ở đây từ năm lên bảy, và trước đó tôi cũng thường xuyên đến đây, nên tôi rất yêu nó. Đó là một ngôi nhà lâu đời rộng lớn, theo tôi là quá lớn khi chỉ dành cho hai bà cháu.

Mặt tiền rộng rãi của ngôi nhà được che bằng một cổng vòm to sơn trắng, bà vốn thuộc mẫu người cổ điển. Tôi đi xuyên qua phòng khách rộng mênh mông chất đầy những món đồ mòn vẹt được sắp xếp tùy ý hai bà cháu, rồi bước xuống hành lang để đến căn phòng ngủ đầu tiên bên tay trái, căn phòng to nhất.

Adele Hale Stackhouse, bà tôi, đang ngồi trên chiếc giường cao, dựa lưng vào đống gối đệm lấp ló sau bờ vai gầy gò. Bà mặc bộ đồ ngủ cotton tay dài bất chấp tiết trời ấm áp đêm xuân, và đèn ngủ của bà vẫn sáng. Trong lòng bà là một cuốn sách.

“Con về rồi,” tôi nói.

“Chào con.”

Bà nhỏ người và đã già lắm rồi, nhưng tóc vẫn rất dày, và trắng đến nỗi gần như có màu xanh nhẹ. Ban ngày bà thường búi tóc ngang vai nhưng đến tối sẽ để xõa hoặc thắt bím. Tôi nhìn bìa cuốn sách bà đang đọc.

“Bà lại đọc Danielle Steele à?”

“Ồ, người phụ nữ đó rất biết cách kể chuyện.” Thú vui lớn nhất của bà là đọc truyện của Danielle Steele, theo dõi phim truyền hình (được bà gọi là những “câu chuyện”) và tham gia các buổi gặp mặt của vô số những câu lạc bộ có vẻ như đã gắn bó với bà suốt từ khi bà còn trẻ. Những câu lạc bộ yêu thích nhất của bà là Hậu Duệ Của Những Người Hy Sinh Vinh Quang và Cộng Đồng Làm Vườn Bon Temps.

“Bà đoán thử xem tối nay đã có chuyện gì nào?” tôi bảo bà.

“Sao? Con hẹn hò à?”

“Không ạ,” tôi nói, cố gắng giữ nụ cười trên khuôn mặt. “Một ma cà rồng đã đến quán.”

“Ái chà, hắn có răng nanh không?” Tôi đã nhìn thấy chúng sáng lóa lên dưới ánh đèn của bãi xe khi cặp vợ chồng nhà Chuột đang rút máu anh, nhưng chẳng cần phải kể chuyện đó cho bà nghe. “Có chứ, nhưng chúng được thu vào rồi ạ.”

“Ma cà rồng ở ngay tại Bon Temps.” Bà có vẻ cực kỳ hài lòng. “Anh ta có cắn ai ở quán không?”

“Ôi, không đâu bà! Anh ấy chỉ ngồi uống vang đỏ thôi. Thực ra, anh ấy gọi nhưng không uống. Con nghĩ anh ấy chỉ muốn có bầu bạn thôi.”

“Không biết anh ta sống ở đâu nhỉ.”

“Có vẻ như anh ấy sẽ chẳng nói cho ai biết đâu.”

“Chắc vậy,” bà đáp, ngẫm nghĩ một hồi. “Chắc là không rồi. Con thích anh ta không?”

Một câu hỏi hóc búa. Tôi nghĩ tới nghĩ lui. “Con cũng chẳng biết nữa. Nhưng anh ấy rất thú vị,” tôi đáp thận trọng.

“Bà cũng mong được gặp anh ta.”

Tôi không hề thấy bất ngờ khi bà nói thế, vì bà cũng thích những điều mới lạ chẳng kém gì tôi. Bà không nằm trong số những kẻ phản động cho rằng ma cà rồng phải bị đày xuống địa ngục ngay lập tức. “Nhưng có lẽ bà phải đi ngủ rồi. Bà chỉ đợi con về để tắt đèn thôi.”

Tôi cúi xuống hôn bà và nói, “Chúc bà ngủ ngon.”

Tôi khép hờ cánh cửa phòng khi đi ra và nghe thấy tiếng bà với tay tắt đèn. Nàng mèo của tôi, Tina, rời khỏi chỗ ngủ của mình để cọ người vào chân tôi, và tôi bế cô nàng lên vuốt ve một lúc trước khi thả cho nó đi chơi đêm.

Tôi liếc nhìn đồng hồ. Đã gần hai giờ, và mắt tôi đã díp cả lại.

Phòng của tôi nằm đối diện phòng bà. Khi tôi sử dụng căn phòng này lần đầu tiên, sau khi cha mẹ tôi qua đời, bà đã chuyển mọi đồ đạc của tôi từ nhà cũ tới đây để tôi có thể cảm thấy như vẫn đang ở nhà. Và đến giờ tất cả vẫn vậy, chiếc giường đơn và bàn trang điểm bằng gỗ sơn trắng, cái rương quần áo nho nhỏ.

Tôi bật đèn, đóng cửa lại rồi bắt đầu thay quần áo. Tôi có ít nhất năm cái quần soóc đen và rất, rất nhiều áo phông trắng, vì chúng rất dễ ố. Ngoài ra còn vô số tất trắng cuộn lại để trong ngăn kéo. Vậy nên tối nay tôi không phải giặt đồ. Tôi cũng mệt đến nỗi chẳng tắm táp nổi. Tôi đánh răng, rửa sạch lớp phấn trang điểm, vỗ vỗ ít kem giữ ẩm và tháo dây buộc tóc ra.

Tôi chui vào chăn trong chiếc áo chuột Mickey yêu thích dài gần đến gối. Tôi nằm nghiêng như thường lệ và tận hưởng sự tĩnh lặng của căn phòng. Vào lúc khuya khoắt thế này thì hầu như ai nấy đều đã ngủ, mọi hoạt động đều đã ngừng, và sẽ chẳng ai làm phiền tôi nữa. Trong không gian yên bình đó, tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ vùi sau một ngày mệt mỏi, chỉ kịp nghĩ về đôi mắt đen huyền của chàng ma cà rồng trước khi khép mi mắt lại.

TRƯA HÔM SAU, tôi nằm tắm nắng trên chiếc ghế gấp bằng nhôm ở trước hiên nhà. Tôi bận một bộ đồ hai mảnh không quai màu trắng yêu thích, và vì chúng có vẻ rộng hơn hè năm trước nên tôi cảm thấy rất thoải mái.

Rồi tôi nghe thấy tiếng động cơ xe đang tiến lại, và chiếc xe tải viền xanh và hồng của Jason xuất hiện ngay bên cạnh.

Jason trèo xuống - tôi đã kể là chiếc xe lắp lốp cao chưa nhỉ? - đứng ra oai trước mặt tôi. Anh mặc bộ đồ lao động hằng ngày, quần và áo kaki, kèm theo một bao đựng dao dắt ở lưng quần, trông y hệt những công nhân làm đường khác ở vùng này. Nhìn vào cách Jason bước lại, tôi biết anh đang điên tiết.

Tôi đeo kính râm vào.

“Sao tối qua mày không nói với anh là mày định tẩn vợ chồng Rattray?” Anh tôi quăng người vào chiếc ghế nhôm ngay cạnh ghế của tôi. “Bà đâu rồi?” anh hỏi.

“Đang phơi đồ,” tôi đáp. Những khi cần kíp bà vẫn sử dụng máy sấy, nhưng thường thì bà thích phơi quần áo ngoài nắng hơn. Tất nhiên dây phơi quần áo nằm ở sân sau, như mọi dây phơi quần áo khác. “Bà đang chuẩn bị món bít tết quê, khoai tây ngọt và đậu xanh bà trồng năm ngoái cho bữa trưa,” tôi thêm vào, biết rằng làm như thế có thể khiến Jason sao nhãng đi phần nào. Tôi hy vọng bà vẫn đang ở sân sau. Tôi không hề muốn bà nghe thấy cuộc nói chuyện này. “Anh nói nhỏ thôi,” tôi nhắc anh. “Rene Lenier cứ sôi lên xình xịch, chỉ mong sáng nay gặp mặt để kể lại cho anh. Tối qua hắn tạt vào chỗ xe moóc nhà Rattray để mua cỏ thì thấy Denise đang lái xe như sắp giết người đến nơi. Rene bảo suýt nữa hắn đã toi mạng, mụ ta như phát điên vậy. Rene và Denise phải cố lắm mới lôi được Mack lên xe moóc rồi chở hắn đến bệnh viện ở Monroe.” Jason trừng trừng nhìn tôi với vẻ kết tội.

“Thế Rene có kể với anh là Mack đã cầm dao tấn công em trước không?” tôi hỏi, quyết định rằng tấn công sẽ là cách tốt nhất để giải quyết chuyện này. Tôi dám chắc thái độ tức giận của Jason phần nhiều là do anh nghe câu chuyện từ người khác.

“Nếu Denise có kể với Rene thì hắn cũng không cho anh biết,” Jason đáp lại chậm rãi, gương mặt điển trai của anh tối sầm lại vì giận. “Hắn tấn công em bằng dao à?”

“Nên em phải tự vệ thôi,” tôi nói, cứ như thể đó là chuyện hiển nhiên vậy. “Hắn còn lấy sợi xích của anh đi nữa.” Tất cả đều là sự thật, chỉ được biến tấu đi một chút xíu thôi.

“Em quay lại để kể với anh,” tôi tiếp tục, “nhưng khi về đến quán thì anh đã đi với DeeAnne rồi, và vì em vẫn ổn nên em nghĩ cũng chẳng cần phải tìm anh làm gì. Em biết rõ nếu nghe về chuyện con dao, anh chắc chắn sẽ muốn đuổi theo hắn,” tôi bồi thêm vào. Quả là thế thật, vì Jason cực kỳ hứng thú với mấy chuyện đấm đá. “Nhưng lúc đấy em làm cái quái gì ở đó chứ?” Jason hỏi, nhưng có vẻ đã dịu xuống, và tôi biết anh đã chấp nhận câu chuyện của tôi.

“Anh có biết là, ngoài việc bán thuốc phiện, bọn Chuột còn rút máu ma cà rồng không?”

Đến lượt anh kinh ngạc. “Không... thế thì sao?”

“Tối qua một khách hàng của em là ma cà rồng, và bọn chúng đã rút máu anh ta ở bãi xe của quán Merlotte! Em không thể để chuyện đấy xảy ra được.”

“Có ma cà rồng ở Bon Temps ư?”

“Phải. Cho dù không muốn thân thiết với ma cà rồng thì ta cũng đâu thể để bọn rác rưởi như vợ chồng Chuột rút máu anh ta được. Đấy có phải chuyện hút xăng từ xe hơi đâu chứ. Và chúng sẽ bỏ mặc anh ta trong rừng cho đến chết.” Tuy vợ chồng Chuột không nói với tôi dự định của chúng, tôi cũng dám cá là chúng sẽ làm thế. Cho dù bọn chúng có cho anh nằm trong bụi rậm để anh vẫn có thể sống sót trước ánh sáng ban ngày đi chăng nữa thì một ma cà rồng bị rút máu vẫn phải mất khoảng hai mươi năm để hồi phục hoàn toàn, ít nhất thì đó là những gì tôi nghe trên Oprah. Và đó là trong trường hợp anh ấy có một ma cà rồng khác chăm sóc.

“Khi anh đến quán tay ma cà rồng có ở đó không?” Jason sững sờ hỏi.

“Ờ. Anh chàng tóc sẫm màu ngồi với nhà Chuột ấy.”

Jason nhe răng cười trước cách tôi gọi nhà Rattray. Nhưng anh vẫn chưa buông tha chuyện tối qua. “Sao em biết anh ta là ma cà rồng?” Jason hỏi, nhưng khi anh nhìn tôi, tôi có thể dám chắc anh ước gì mình đã không hỏi thế.

“Em biết thế thôi,” tôi nói với giọng dứt khoát hết mức.

“Được rồi.” Và sau đó không ai nói thêm gì nữa.

“Ở Homulka không có ma cà rồng,” Jason nói với vẻ trầm ngâm. Anh nghiêng đầu đón ánh mặt trời, và tôi biết chuyện vậy là ổn thỏa rồi.

“Đúng thế,” tôi đồng tình. Homulka là thị trấn bị người dân Bon Temps ghét cay ghét đắng. Hai thị trấn cạnh tranh nhau từ bóng đá, bóng rổ cho tới những dấu ấn lịch sử suốt bao thế hệ.

“Cả Roedale cũng không có đâu,” bà cất tiếng ngay sau lưng hai anh em, khiến Jason và tôi nhảy dựng lên vì bất ngờ. Tôi ra dấu để Jason giữ mồm giữ miệng, anh lao đến ôm bà thật chặt giống như mọi lần anh gặp bà.

“Bà ơi, bà nấu đủ thức ăn cho cả con chứ?”

“Thêm hai đứa nữa cũng vẫn đủ,” bà đáp. Bà cười với Jason. Bà biết hết mọi lỗi lầm của Jason (hay của tôi), nhưng bà vẫn yêu anh. “Everlee Mason vừa gọi đến. Bà ta kể đêm qua con đã đong đưa DeeAnne.”

“Chúa ơi, chẳng thể thoải mái làm điều mình thích trong cái thị trấn này nữa rồi,” Jason thốt lên, nhưng không có vẻ giận dữ thật sự.

“Cô DeeAnne đó,” bà nói với giọng cảnh báo khi ba bà cháu bước vào nhà, “bà nhớ là cô ta đã có mang một lần rồi. Cẩn thận đừng làm cô ta dính bầu lần nữa, không thì con sẽ phải trả giá cho tới tận cuối đời đấy. Nhưng xem chừng đó là cách duy nhất để ta có chắt thì phải!”

Bà dọn đồ ăn lên bàn, và ngay sau khi Jason treo mũ, chúng tôi ngồi cả xuống và cầu nguyện. Rồi bà và Jason bắt đầu buôn chuyện (tuy nhiên cả hai bà cháu đều gọi đó là “tìm hiểu tí chút”) về mọi người dân trong cái thị trấn nhỏ bé này. Anh tôi làm việc cho hạt, giám sát đội làm đường. Theo như tôi biết thì cả ngày Jason chỉ lái xe công vụ đi loanh quanh, chờ đến hết giờ làm thì rong ruổi cả đêm trên chiếc xe tải của mình. Rene thuộc đội công nhân do anh tôi giám sát, họ là bạn từ hồi phổ thông. Hai người và Hoyt Fortenberry luôn kè kè với nhau.

“Sookie này, có khi anh phải thay cái bình nóng lạnh ở nhà,” đột nhiên Jason nói. Anh sống ở căn nhà cũ của gia đình, nơi chúng tôi đã cùng sống cho đến khi cha mẹ tôi mất trong một trận lũ. Kể từ đó chúng tôi chuyển về sống với bà, nhưng sau khi học xong hai năm đại học rồi ra làm việc cho hạt, Jason đã quay lại căn nhà cũ, mà trên giấy tờ thì một nửa là của tôi.

“Anh cần tiền để thay không?” tôi hỏi.

“Khỏi, anh có đủ mà.”

Cả hai anh em đều có lương, nhưng chúng tôi còn có thêm khoản thu nhập nho nhỏ từ một quỹ được lập ra khi có một giếng dầu lấn vào phần bất động sản thuộc quyền sở hữu của cha mẹ tôi. Giếng dầu chỉ vài năm là cạn, nhưng cha mẹ và bà đã đảm bảo tiền được mang đi đầu tư. Món thêm nếm đó đã nhiều lần giúp Jason và tôi thoát khỏi tình cảnh bi đát. Tôi cũng chẳng biết nếu không có khoản tiền đó thì bà sẽ xoay xở nuôi nấng hai anh em ra sao. Bà đã hạ quyết tâm sẽ không bán bất kỳ phần đất đai nào, nhưng thu nhập của bà cũng chẳng lớn hơn tiền phúc lợi xã hội là bao. Đó cũng là lý do tôi không ra ở riêng. Nếu tôi mua thứ này thứ nọ khi sống cùng bà, thì bà sẽ thấy thế cũng là chuyện hợp tình hợp lẽ, nhưng nếu tôi mua mang đến đặt trên bàn nhà bà rồi sau đó lại quay về nhà mình thì đó là đồ bố thí và sẽ làm bà cáu điên lên.

“Anh định mua loại nào?” tôi cố tỏ ra quan tâm.

Jason chỉ chờ có thế; anh nghiện đồ máy móc kinh khủng và rất mong muốn được trình bày kỹ càng quá trình anh so sánh chọn lựa để mua được cái bình nóng lạnh mới. Tôi cố vận toàn bộ khả năng tập trung của mình để lắng nghe.

Và rồi anh đột ngột chuyển sang đề tài khác. “Sook này, em có nhớ Maudette Pickens không?”

“Chắc chắn rồi,” tôi ngạc nhiên nói. “Bọn em là bạn học mà.”

“Tối qua có kẻ đã giết chết Maudette trong căn hộ của cô ấy.”

Bà và tôi trở nên tập trung hơn. “Bao giờ?” bà hỏi lại, cứ như thể mình nghe nhầm vậy.

“Sáng sớm nay họ vừa tìm thấy xác cô ấy trong phòng ngủ. Ông chủ của Pickens đã cố gọi để xem tại sao hai hôm nay cô ấy không đi làm nhưng chẳng thấy ai bắt máy cả, vậy nên ông ấy lái xe qua nhà dựng viên quản lý dậy, rồi họ phá khóa. Hai người biết là căn hộ của cô ấy nằm đối diện nhà DeeAnne chứ?” Bon Temps chỉ có một khu chung cư, một khu liên hợp hình chữ U gồm ba tòa nhà hai tầng, vậy nên hai bà cháu đều biết đích xác anh muốn ám chỉ nơi nào.

“Cô ấy bị giết ở đấy à?” Tôi cảm thấy hơi choáng. Tôi nhớ Maudette khá rõ. Maudette có chiếc cằm bạnh và vòng ba vuông chằn chặn, thêm mái tóc đen và bờ vai thô khỏe. Maudette con người cần cù, chẳng thông minh và cũng không tham vọng. Tôi nhớ hình như cô làm ở Grabbit Kwik, một cửa hàng tiện ích kèm cây xăng.

“Ừ, anh nghĩ cô ấy làm ở đó ít nhất là một năm rồi,” Jason xác nhận.

“Cô ấy chết ra sao?” bà hỏi, với ánh mắt nói-ngay-cho-bà-biết-đi-nào của một người tốt đang hỏi han về những chuyện không may.

“Cô ấy bị vài vết cắn của ma cà rồng ở - ừm - đùi non,” anh tôi đáp, nhìn chằm chằm xuống đĩa thức ăn. “Nhưng đó không phải nguyên nhân cái chết. Cô ấy bị bóp cổ. DeeAnne kể với con là nếu được nghỉ vài ngày, Maudette thích đến quán bar dành cho ma cà rồng ở Shreveport, nên có lẽ cô ấy bị cắn ở nơi đó. Có lẽ không phải chàng ma cà rồng của Sookie đâu nhỉ.”

“Maudette là nhân tình răng nanh à?” tôi thấy hơi lợm giọng khi hình dung ra cô nàng Maudette ù lỳ chậm chạp trong bộ đồ đen kỳ dị mà đám nhân tình răng nanh rất ưa chuộng.

“Nghĩa là sao?” bà hỏi. Chắc hẳn bà đã bỏ qua chương trình talk show Sally Jessy hôm chiếu phóng sự về hiện tượng này.

“Đó là cách gọi những người đàn ông đàn bà quan hệ tình dục với ma cà rồng và thích bị cắn. Những kẻ hâm mộ ma cà rồng. Con nghĩ họ cũng chẳng sống lâu được đâu, vì họ muốn bị cắn nhiều mà, không sớm thì muộn cũng thành quá đà thôi.”

“Nhưng Maudette đâu có chết vì vết cắn.” Bà muốn đảm bảo mình đã hiểu rõ vấn đề.

“Đúng vậy, bị bóp cổ.” Jason đã giải quyết xong bữa trưa.

“Anh thường xuyên đến mua xăng ở Grabbit đúng không?” tôi hỏi.

“Ừ. Cả đống người cũng thế mà.”

“Và con cũng hẹn hò với cô Maudette đó vài lần đúng không nhỉ?” bà hỏi bồi thêm.

“Theo một cách nào đó thì đúng vậy,” Jason đáp với vẻ cảnh giác.

Tôi hiểu thế có nghĩa là anh ấy sẽ ngủ với Maudette khi không tìm được ai khác.

“Bà hy vọng cảnh sát trưởng không có ý định nói chuyện với con.” Bà vừa nói vừa lắc đầu, cứ như thể nói “không” vẫn còn chưa đủ.

“Sao cơ ạ?” Mặt Jason đỏ bừng, trông có vẻ đề phòng.

“Anh thường xuyên gặp Maudette ở cửa hàng khi anh đến đó đổ xăng, anh nói-theo-cách-nào-đó đã hẹn hò với cô ấy, và cô ấy chết trong căn hộ mà anh đã quá quen thuộc,” tôi chỉ ra mấu chốt vấn đề. Không nhiều, nhưng cũng có vài vấn đề đáng nghi ngờ, và ở Bon Temps này có ít kẻ sát nhân ẩn danh đến nỗi tôi dám chắc người ta sẽ lôi mọi thứ khả nghi vào cuộc điều tra.

“Anh đâu phải người duy nhất chứ. Có cả tá gã mua xăng ở đó, gã nào mà lại không biết Maudette chứ.”

“Đúng thế, nhưng theo kiểu nào?” bà hỏi huỵch toẹt. “Cô ta đâu phải gái bán hoa, phải không? Vậy nên người ta sẽ biết cô ta đã gặp gỡ những ai.”

“Cô ta chỉ muốn vui vẻ thôi, cô ta không phải dân chuyên nghiệp.” Jason rõ là tử tế khi cố bảo vệ Maudette, khác hẳn với tính cách ích kỷ lúc thường của anh. Tôi bắt đầu suy nghĩ tích cực hơn một chút về ông anh mình. “Anh đoán có lẽ cô ấy cảm thấy hơi cô đơn,” anh thêm vào. Rồi Jason nhìn hai bà cháu tôi, và thấy rõ cả hai đều bất ngờ và cảm động.

“Nhắc đến gái bán hoa,” anh nói tiếp luôn, “có một cô ả ở Monroe chuyên phục vụ ma cà rồng. Cô ta luôn trói khách hàng vào cọc phòng trường hợp hắn say sưa quá mức. Cô ta còn uống cả máu nhân tạo để đảm bảo lượng máu của mình không cạn kiệt.” Đúng là một cách chuyển chủ đề không tồi, cả bà và tôi đều phải cố nghĩ ra một câu hỏi sao cho không tỏ ra quá sỗ sàng.

“Chẳng biết cô ta tính tiền thế nào nhỉ?” tôi đánh bạo hỏi, và khi Jason nói ra số tiền anh nghe đồn, cả hai bà cháu tôi đều choáng váng.

Khi chúng tôi kết thúc chủ đề về cái chết của Maudette, bữa trưa lại tiếp tục như bình thường, và đến lúc rửa bát thì Jason vội nhìn đồng hồ rồi la lên rằng anh phải đi ngay.

Nhưng tôi biết bà vẫn mải nghĩ về chuyện ma cà rồng. Một lúc sau bà vào phòng tôi, khi tôi đang bận rộn trang điểm để chuẩn bị đi làm.

“Con nghĩ anh chàng ma cà rồng con gặp khoảng bao nhiêu tuổi?”

“Con chẳng biết nữa, bà à.” Tôi đang chuốt mascara, mắt mở to và cố không chớp để que chải không chọc vào mắt, vậy nên giọng tôi nghe thật buồn cười, cứ như thể tôi bắt chước nhân vật trong phim kinh dị vậy.

“Con nghĩ... anh ta còn nhớ về Cuộc Chiến đó không?”

Tôi chẳng cần phải hỏi cuộc chiến nào. Dù sao thì bà cũng là thành viên tiêu biểu của câu lạc bộ Hậu Duệ Của Những Người Hy Sinh Vinh Quang.

“Có thể ạ,” tôi vừa đáp vừa quay mặt sang hai bên để xem phấn má đã đánh đều chưa.

“Con nghĩ anh ta có chịu đến nói chuyện về cuộc chiến không? Chúng ta có thể tổ chức một cuộc họp mặt đặc biệt.”

“Vào buổi đêm,” tôi nhắc bà.

“Ồ. Phải, tất nhiên rồi.” Câu lạc bộ Hậu Duệ này thường họp vào buổi trưa ở thư viện, và các thành viên tự mang theo bữa trưa cho mình.

Tôi đắn đo. Sẽ thật thô lỗ nếu yêu cầu chàng ma cà rồng đến nói chuyện tại câu lạc bộ của bà để đáp lại việc tôi đã cứu anh thoát khỏi bọn Rút Máu, nhưng biết đâu anh sẽ tự đề nghị nếu tôi gợi ý bóng gió? Tôi không thích chuyện này, nhưng tôi sẽ làm vì bà. “Con sẽ hỏi khi anh ấy quay trở lại quán,” tôi hứa.

“ít nhất thì anh ta cũng có thể đến nói chuyện với bà, và bà có thể ghi âm lại những hồi tưởng của anh ta,” bà nói. Tôi có thể nghe thấy tâm trí bà kêu lên lách ca lách cách trong lúc bà suy nghĩ đây sẽ là hành động phi thường đến thế nào. “Các thành viên khác của câu lạc bộ sẽ thích thú lắm cho mà xem,” bà nói đầy hứng khởi. Tôi cố nén cười. “Con sẽ gợi ý cho anh ấy,” tôi đáp. “Chúng ta cứ đợi rồi sẽ biết.”

Khi tôi rời khỏi nhà, bà rõ ràng vẫn đang ngồi đếm cua trong lỗ.

TÔI KHÔNG NGHĨ là Rene Lenier sẽ đến chỗ Sam ba hoa về vụ đấm đá ngày hôm qua ở bãi đỗ xe. Nhưng Rene vốn là người bận rộn. Khi đến chỗ làm chiều hôm đó, tôi cứ tưởng tâm trạng lo âu bao trùm quán là do cái chết của Maudette. Hóa ra lại không phải vậy.

Sam gọi tôi vào kho ngay khi tôi đến. Anh nhảy dựng lên vì giận. Anh trút hết cơn thịnh nộ lên tôi.

Trước đây Sam chưa bao giờ nổi cáu với tôi, nên chẳng mấy chốc nước mắt tôi đã chực trào ra.

“Và nếu em nghĩ một khách hàng không được an toàn, em phải nói với anh, anh sẽ lo việc đó, không phải em,” Sam nhắc lại câu nói đến lần thứ sáu, và rồi tôi nhận ra anh đang lo cho tôi.

Tôi vội dựng hàng rào tâm trí lên trước khi “nghe” Sam một cách rõ ràng. Nghe được suy nghĩ của ông chủ chỉ tổ dẫn đến tai họa.

Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện nhờ Sam - hay bất kỳ ai khác - giúp đỡ “Và nếu em nghĩ có người bị hại ở bãi xe của chúng ta, em nên gọi ngay cho cảnh sát chứ không được liều lĩnh xông ra như thế,” Sam cáu tiết. Nước da hồng hào của anh đỏ hơn bao giờ hết, mái tóc vàng ánh kim của anh xù lên như thể chưa được chải.

“Được rồi,” tôi nói, cố giữ giọng bình tĩnh và mở to mắt để những giọt lệ không ứa ra. “Anh sẽ sa thải em à?”

“Không! Không!” anh la lên, trông có vẻ còn giận hơn nữa. “Anh không muốn mất em!” Anh tóm chặt bờ vai tôi, lay nhẹ. Rồi anh nhìn thẳng vào tôi với đôi mắt to xanh thẳm khiến tôi cảm nhận được từ anh một luồng nhiệt nóng bỏng. Những đụng chạm đó khiến tôi bất lực, làm tôi không thể ngăn được việc lắng nghe tâm trí người chạm vào mình. Tôi nhìn sâu vào đôi mắt anh một lúc lâu, rồi chợt bừng tỉnh và nhảy lùi lại làm cánh tay anh rơi thõng xuống.

Tôi quay đi, kinh hãi rời khỏi phòng. Tôi đã nắm bắt được vài thông tin rời rạc. Sam thèm muốn tôi; và tôi không thể nghe được những suy nghĩ của anh rõ ràng như với người khác. Tôi cảm nhận được những làn sóng cảm xúc của anh, chứ không phải là suy nghĩ. Cứ như thể đeo một chiếc nhẫn bộc lộ cảm xúc thay vì nhận được một bức fax.

Vậy thì, tôi nên làm gì với những mẩu thông tin đó đây?

Tuyệt đối chẳng làm gì.

Trước đây tôi chưa bao giờ cho rằng Sam là mẫu người gợi tình - hay ít nhất là xét trên quan điểm của tôi - vì cả đống lý do. Nhưng lý do đơn giản nhất là tôi chưa từng nhìn ai theo cách đó, không phải vì tôi không có hoóc môn - Chúa ơi, tôi có đấy chứ - có điều chúng thường xuyên bị dẹp sang một bên vì với tôi, tình dục là thảm họa. Bạn có thể tưởng tượng được cảm giác khi biết bạn tình của mình đang nghĩ gì không? Đúng vậy đấy. Kiểu như “Chúa ơi, nhìn cái nốt ruồi đó kìa... Mông cô ấy hơi to quá... Ước gì cô ấy nhích sang phải một chút... Sao cô ấy không hiểu ý mình và...?” Bạn hiểu rồi đấy. Những cái đó phá tan nát cảm xúc, tin tôi đi. Và trong suốt cuộc ân ái, dựng rào cản tâm trí cho mình đâu có phải chuyện đơn giản.

Một lý do nữa là tôi thích Sam bằng thứ tình cảm của nhân viên dành cho ông chủ, và tôi thích công việc của mình, một công việc đã kéo tôi ra ngoài và giúp tôi không trở nên trì trệ, lại còn cho tôi mức thu nhập đủ để tôi thoát khỏi nguy cơ biến thành kẻ ẩn dật như bà tôi thường lo ngại. Công việc văn phòng quá khó đối với tôi, còn đại học thì gần như điều không thể vì nó cần sự tập trung cao độ. Sinh lực của tôi sẽ bị hút kiệt mất.

Vậy nên, ngay lúc này đây, tôi muốn suy ngẫm thật cẩn thận về thứ cảm xúc thèm muốn mà tôi đã cảm nhận được từ Sam. Sẽ không mấy khả năng anh đưa ra một gợi ý bằng lời hay ấn tôi xuống nền nhà kho. Tôi cảm nhận được cảm xúc của anh, và tôi có thể lờ đi nếu muốn. Tôi mừng vì anh đã cư xử lịch sự như vậy, và tự hỏi không biết Sam có cố ý chạm vào tôi không, không biết anh có thật sự hiểu tôi là con người như thế nào không.

Tôi sẽ cẩn thận tránh ở một mình với anh, nhưng tôi phải thừa nhận rằng tối đó mình cũng có phần dao động. HAI BUỔI TỐI SAU tình hình đã khá hơn. Chúng tôi quay trở lại với mối quan hệ thoải mái như cũ. Tôi nhẹ cả người. Nhưng tôi cũng hơi thất vọng. Và vì cái chết của Maudette đã làm cho Merlotte trở nên hết sức nhộn nhịp nên tôi cũng mệt đến bở hơi tai. Có đủ mọi loại tin đồn vo ve xung quanh Bon Temps, và đội buôn chuyện của thành phố Shrevenport cũng thêm thắt tí chút vào cái chết rùng rợn của Maudette. Tôi không đến dự đám tang của cô ấy nhưng bà tôi thì có, và bà kể là nhà thờ hôm đấy chật chội hết mức. Với những vết cắn ở đùi ấy, sự quan tâm mà chúng tôi dành cho cái chết của cô nàng Maudette khù khờ tội nghiệp còn lớn hơn nhiều so với những tình cảm cô nhận được khi còn sống.

Tôi chuẩn bị được nghỉ hai ngày, và lo rằng mình có thể bị mất liên lạc với chàng ma cà rồng, Bill. Tôi cần phải chuyển lời đề nghị của bà. Anh vẫn chưa quay trở lại, và tôi bắt đầu tự hỏi liệu anh có quay lại hay không. Mack và Denise cũng không thấy trở lại quán Merlotte, nhưng Rene Lenier và Hoyt Fortenberry thì không lúc nào quên nhắc nhớ tôi về những đe dọa khủng khiếp mà vợ chồng nhà Chuột đã dành cho tôi. Thực ra thì tôi cũng chẳng quan tâm lắm. Những tên tội phạm rác rưởi như vợ chồng nhà Chuột nhan nhản khắp các cao lộ và các bãi xe moóc nước Mỹ, chẳng đủ thông minh cũng như phẩm hạnh để có được một cuộc sống ổn định hữu ích. Chúng chẳng bao giờ có được đóng góp tích cực cho thế giới, theo cách nghĩ của tôi. Tôi nhún vai phớt lờ những cảnh báo của Rene.

Nhưng anh ta chắc chắn rất thích thú khi được cảnh báo tôi hết lần này đến lần khác. Rene Lenier cũng nhỏ người giống như Sam, nhưng Sam thì hồng hào và tóc vàng, còn Rene da ngăm đen, có một nùi tóc đen rối bù điểm những sợi bạc. Rene thường ghé vào quán uống bia và gặp Arlene bởi vì (như anh ta luôn hào hứng kể với bất kỳ ai có mặt ở quán) chị ấy là người vợ cũ được anh ta dành nhiều tình cảm nhất. Anh ta có ba đời vợ. Hoyt Fortenberry thì tầm thường hơn Rene rất nhiều. Da anh ta không đen cũng chẳng trắng, vóc người chẳng to cũng chẳng nhỏ. Anh ta luôn tỏ ra vui vẻ và boa hậu. Hoyt ngưỡng mộ anh trai tôi, Jason, nhiều hơn nhiều so với mức Jason đáng được hưởng, theo ý tôi.

Tôi mừng là Rene và Hoyt không ở đó vào buổi tối chàng ma cà rồng quay lại.

Anh vẫn ngồi ở chiếc bàn hôm rước. Giờ đây khi chàng ma cà rồng đã thực sự ở trước mặt, tôi lại cảm thấy hơi ngượng ngùng. Tôi nhận ra mình đã quên mất thứ ánh sáng lấp lánh gần như không thể nhận thấy được của làn da anh. Tôi đã phóng đại chiều cao và những đường nét dứt khoát trên khóe miệng anh.

“Anh dùng gì?” tôi hỏi.

Anh ngước nhìn tôi. Tôi cũng đã quên mất chiều sâu đôi mắt anh. Anh không cười cũng không nháy mắt; anh hoàn toàn bất động. Lần thứ hai, tôi cảm thấy thoải mái trước sự tĩnh lặng đó. Khi dỡ bỏ sự đề phòng, tôi có thể cảm thấy khuôn mặt mình giãn ra. Tuyệt vời như khi được mát xa vậy (tôi đoán thế).

“Cô là gì vậy?” anh hỏi tôi. Lần thứ hai câu hỏi ấy được đưa ra.

“Tôi là phục vụ bàn”,” tôi đáp, một lần nữa cố tình hiểu nhầm ý anh. Tôi cảm nhận được nụ cười chuyên nghiệp của mình đang trở lại.

Khoảnh khắc yên bình ít ỏi đã tan biến.

“Rượu vang đỏ,” anh yêu cầu, giọng nói không để lộ dấu hiệu thất vọng nào.

“Hẳn rồi,” tôi nói. “Ngày mai máu nhân tạo sẽ được xe hàng chuyển đến. Nghe này, sau giờ làm, tôi có thể nói chuyện với anh một lát không? Tôi cần nhờ anh một việc.”

“Chắc chắn rồi. Tôi nợ cô mà.” Và chắc chắn anh chẳng có có vẻ gì là vui cả.

“Thực ra không phải giúp tôi!” Tôi cảm thấy hơi chạnh lòng. “Mà là cho bà tôi. Nếu có thể - tôi đoán chắc là được thôi - thì anh chờ tôi lúc một rưỡi ở cửa dành cho nhân viên đằng sau quán được không?” tôi hất đầu ra dấu, túm tóc đuôi ngựa lúc lắc trên vai. Ánh mắt anh dõi theo chuyển động của mái tóc tôi.

“Tôi rất hân hạnh.”

Tôi không biết có phải anh đang thể hiện sự nhã nhặn mà bà vẫn luôn khẳng định là một chuẩn mực của thời xa xưa không, hay đơn giản chỉ là anh đang cợt nhả tôi.

Tôi cố kìm để không thè lưỡi hay bĩu môi với anh. Tôi quay gót trở lại quầy bar. Khi tôi mang rượu đến, anh boa tôi hai mươi phần trăm. Một lúc sau, khi tôi ngó về phía bàn anh, anh đã không còn ở đó nữa. Tôi băn khoăn không biết anh có giữ lời không.

Vì một vài lý do, chủ yếu là tại hầu hết hộp đựng giấy ăn ở khu vực tôi phụ trách đều sắp hết đến nơi, nên khi tôi sẵn sàng rời khỏi quán thì Arlene và Dawn đã về được một lúc rồi. Khi lấy ví ra khỏi tủ đồ có khóa trong văn phòng Sam, nơi tôi vẫn cất nó khi làm việc, tôi lớn tiếng chào tạm biệt ông chủ của mình. Tôi nghe tiếng loảng xoảng trong phòng vệ sinh nam, có lẽ anh đang cố sửa một ống nước bị rò. Tôi tạt qua phòng vệ sinh nữ để kiểm tra tóc tai và trang điểm.

Khi bước ra ngoài, tôi nhận thấy Sam đã tắt đèn ở bãi xe dành cho khách. Chỉ còn đèn an ninh lắp trên cột điện trước toa xe lưu động của anh là vẫn còn chiếu sáng bãi đỗ xe dành cho nhân viên. Arlene và Dawn đã rất thích thú khi Sam dựng một hàng rào gỗ bạch dương ngay trước toa xe lưu động của anh, và họ vẫn không ngừng trêu chọc anh về hàng rào quá nổi đó.

Tôi thì nghĩ nó rất đẹp.

Như thường lệ, xe tải của Sam đỗ ngay trước toa xe lưu động, nên chỉ còn độc chiếc xe con của tôi nằm trong bãi.

Tôi duỗi mình, nhìn quanh quất. Không thấy Bill. Tôi bất ngờ vì lại cảm thấy thất vọng đến thế. Tôi thật tình trông chờ anh cư xử một cách lịch sự, kể cả khi trái tim anh (liệu anh có trái tim không nhỉ?) không mách bảo anh làm điều đó.

Có thể, tôi mỉm cười nghĩ, anh sẽ nhảy ra từ một cái cây nào đó, hoặc bất thình lình xuất hiện trước mặt tôi trong chiếc áo choàng đen viền đỏ. Nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Tôi đành lê bước về xe.

Tôi đã mong có một bất ngờ, nhưng bất ngờ đó lại khác hoàn toàn với những gì tôi nghĩ.

Mack Rattray nhảy ra từ sau xe tôi và chỉ với một sải chân, hắn đã đến đủ gần để tung một cú móc mạnh mẽ vào quai hàm tôi. Hắn đánh liên tiếp, và tôi đổ sụp xuống mặt sỏi như một bao xi măng. Tôi bật hét lên khi ngã xuống, nhưng mặt đất đã lôi tuột toàn bộ không khí trong buồng phổi và thêm cả vài mảng da của tôi, vậy là tôi im lặng, ngộp thở và bất lực. Rồi tôi nhìn thấy Denise, thấy mụ hất chiếc bốt nặng trịch của mụ, và tôi chỉ kịp cuộn người lại như một quả bóng khi nhà Rattray bắt đầu đá tôi. Cơn đau cực độ đến ngay lập tức, buốt nhói. Tôi giơ tay che mặt theo bản năng, hứng chịu những đòn đánh vào tay, chân và lưng.

Trong khi chịu đựng những cú đòn đầu tiên, tôi đã tin chắc rồi chúng sẽ dừng lại, chửi rủa tôi và bỏ đi thôi. Nhưng tôi vẫn còn nhớ như in khoảnh khắc tôi bất chợt nhận ra chúng định giết chết tôi.

Tôi có thể nằm đó một cách bị động để hứng đòn, nhưng tôi không đời nào nằm đó chịu chết.

Chờ tới khi một cái cẳng chân tiến lại gần, tôi tung người chộp lấy và vận hết sức để giữ thật chặt. Tôi cố cắn, cố gắng ít nhất cũng phải để lại dấu vết trên người chúng. Tôi không nhận ra được đó là chân của ai.

Rồi, từ đằng sau, tôi nghe vang đến tiếng gầm gừ. Ôi không, chúng mang theo chó, tôi nghĩ. Tiếng gầm gừ rõ ràng đầy thù địch. Nếu tôi còn sức để biểu lộ cảm xúc, chắc tóc gáy tôi đã phải dựng ngược hết lên rồi.

Tôi nhận thêm một cú đá nữa, và sau đó trận đòn chấm dứt.

Cú đá sau cùng là một đòn chí mạng đối với tôi. Tôi có thể nghe thấy hơi thở khò khè và tiếng bong bóng khí dường như phát ra từ chính buồng phổi của mình.

“Cái quái gì vậy?” Mack Rattray thốt lên, giọng vô cùng khiếp sợ.

Tôi nghe thấy tiếng gầm gừ đó một lần nữa, gần hơn, ở ngay đằng sau tôi. Rồi tôi lại nghe thấy tiếng gầm gừ xuất phát từ một hướng khác. Denise bắt đầu rền rĩ. Mack văng tục.

Denise cố rút chân ra khỏi vòng tay đang dần tê bại của tôi. Hai cánh tay tôi buông thõng xuống đất. Chúng dường như đã bị mất kiểm soát. Dù không còn nhìn rõ nữa, tôi vẫn có thể nhận ra cánh tay phải của mình đã gãy. Mặt thì ướt nhoét. Tôi chẳng dám ước tính những vết thương của mình nữa.

Mack bắt đầu thét lên, sau đó là Denise, và dường như xung quanh tôi đang diễn ra đủ mọi hoạt động, nhưng tôi không tài nào cử động được. Trong tầm nhìn của tôi chỉ có cánh tay bị gãy, hai đầu gối dập nát cùng bóng tối bao phủ dưới gầm xe. Một lúc sau, mọi thứ lại trở nên yên lặng. Đằng sau tôi, con chó đang rên rỉ. Một chiếc mũi lạnh toát cù vành tay tôi, và chiếc lưỡi ấm áp liếm nhẹ. Tôi cố giơ tay lên để vuốt ve chú chó vừa cứu sống mình, nhưng không thể. Tôi có thể nghe thấy tiếng thở dài của chính mình. Cứ như thể nó vọng lại từ nơi xa lắm.

Tôi đối mặt với thực tế, “Mình sắp chết rồi.” Điều đó dường như đang càng lúc càng trở nên thực hơn. Sự ồn ào náo động của bãi để xe đã làm bọn dế bọn ếch ồn ã thường ngày im bặt, nên tiếng thì thào của tôi vang lên rõ ràng và rơi tõm vào bóng tối thăm thẳm. Lạ lùng thay, ngay sau đó, tôi nghe thấy hai giọng nói.

Rồi trước mắt tôi xuất hiện hai ống quần jean màu xanh bê bết máu. Ma cà rồng Bill cúi xuống để tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt anh. Có vệt máu dính trên khóe miệng anh, và những chiếc răng nanh của anh nhe ra, sáng bóng nơi vành môi dưới. Tôi cố mỉm cười với anh, nhưng không thể.

“Tôi sẽ giúp cô hồi phục,” Bill nói. Giọng anh nghe thật bình tĩnh.

“Anh làm vậy thì tôi chết mất,” tôi thì thầm.

Anh chăm chú nhìn tôi khắp lượt. “Chưa đâu,” anh nói, sau khi ước lượng tình trạng của tôi. Lạ lùng thay, việc này khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều, chắc là trong đời mình anh đã nhìn thấy nhiều vết thương lắm rồi.

“Sẽ đau đấy,” anh cảnh báo.

Thật khó để tưởng tượng rằng sẽ chẳng đau đớn gì.

Anh luồn cánh tay xuống dưới người tôi trước khi tôi có đủ thời gian để mà lo sợ. Tôi hét lên, nhưng tiếng hét chỉ vang lên yếu ớt.

“Nhanh lên,” một giọng nói hối thúc.

“Chúng ta sẽ lánh vào rừng cho khuất tầm mắt,” Bill nói, nhấc bổng tôi lên như thể tôi chỉ nhẹ như một chú mèo con vậy.

Có phải anh sẽ chôn tôi ở đó, để khuất tầm mắt mọi người? Sau khi anh vừa cứu tôi khỏi nhà Chuột? Tôi hầu như chẳng thèm quan tâm nữa. Tôi chỉ cảm thấy nhẹ nhõm hơn chút xíu khi anh đặt tôi xuống thảm lá thông trong khu rừng tối đen. Xa xa, tôi vẫn có thể nhìn thấy ánh đèn từ bãi đỗ xe. Tôi cảm thấy máu đang nhỏ giọt trên tóc mình, cảm nhận được sự đau đớn từ cánh tay gãy và những vết tím bầm nhức buốt, nhưng điều đáng sợ nhất nằm ở những gì tôi không cảm nhận được. Tôi không cảm nhận được đôi chân mình.

Bụng tôi có cảm giác đầy ứ và nặng nề. Cụm từ “chảy máu trong” như bị ghim lại trong suy nghĩ của tôi.

“Cô sẽ chết nếu không làm theo lời tôi,” Bill nói.

“Xin lỗi, tôi không muốn trở thành ma cà rồng đâu,” tôi đáp, giọng yếu ớt và mỏng manh.

“Không, cô sẽ không biến thành ma cà rồng đâu,” anh nói với giọng dịu dàng hơn nữa. “Cô sẽ khỏe lại. Rất nhanh. Tôi biết cách chữa trị. Nhưng cô phải sẵn lòng hợp tác.”

“Vậy thì anh chữa đi,” tôi thì thầm. “Tôi sẵn sàng rồi đây.” Tôi cảm nhận được rằng ý thức đang dần rời bỏ mình.

Ở một góc xa xăm nhỏ xíu nào đó trong tâm trí, tôi vẫn nhận được những tín hiệu của thế giới, tôi nghe thấy Bill rên rỉ như thể chính anh mới là người bị thương. Rồi có thứ gì đó được ấn vào miệng tôi.

“Uống đi,” anh nói.

Tôi cố thè lưỡi ra và rốt cuộc cũng làm được. Anh đang chảy máu, đang cố ép cho dòng máu từ cổ tay mình chảy vào họng tôi. Tôi nôn khan. Nhưng tôi không muốn chết. Tôi ép bản thân mình phải nuốt. Và lại nuốt.

Đột nhiên, vị máu trở nên ngon lành hơn, mặn mà, đầy sức sống. Cánh tay còn lành lặn của tôi giơ lên, bàn tay tôi ép chặt cổ tay của chàng ma cà rồng vào miệng mình. Sau mỗi một lần nuốt, tôi lại càng đỡ hơn. Và sau gần một phút, tôi chìm vào giấc ngủ.

Khi tỉnh dậy, tôi vẫn đang ở trong rừng, vẫn nằm trên mặt đất. Có ai đó đang duỗi người bên cạnh tôi; đó là chàng ma cà rồng. Tôi có thể thấy thân thể anh phát sáng. Tôi cảm nhận được lưỡi anh đang di chuyển trên đầu mình. Anh đang liếm vết thương trên đầu tôi. Thật khó bực mình với anh được.

“Vị của tôi có khác với mọi người không?” tôi hỏi.

“Có,” anh đáp lại bằng giọng chắc nịch. “Cô là gì?”

Đây là lần thứ ba anh hỏi câu này. Quá tam ba bận, bà vẫn thường nói thế “Này, tôi vẫn chưa chết,” tôi nói. Tôi đột ngột nhớ ra mình đáng lẽ phải vĩnh viễn biến mất khỏi cõi đời này rồi mới phải. Tôi ngọ nguậy cánh tay bị gãy. Nó vẫn yếu ớt, nhưng không còn buông thõng xuống nữa. Tôi nhận thấy đôi chân đã có cảm giác trở lại nên cũng bèn ngọ nguậy chúng nữa. Tôi thử hít vào thở ra và hài lòng khi thấy chỉ bị vài cơn đau nhẹ. Tôi cố ngồi dậy. Việc đó chẳng đơn giản chút nào, nhưng không phải là không thể làm được. Cảm giác không khác gì khi vừa dứt cơn sốt sau trận viêm phổi hồi còn nhỏ. Yếu ớt nhưng thật hạnh phúc. Tôi biết mình vẫn sống sót sau một sự kiện cực kỳ kinh khủng.

Trước khi tôi kết thúc màn co duỗi, anh luồn cánh tay xuống dưới người tôi kéo tôi về phía anh. Anh dựa lưng vào thân cây. Cảm giác ngồi trong lòng anh, dựa đầu vào ngực anh mới thoải mái làm sao.

“Tôi là người có khả năng ngoại cảm,” tôi đáp. “Tôi có thể nghe được suy nghĩ của người khác.”

“Kể cả của tôi à?” anh hỏi lại bằng giọng tò mò thuần túy.

“Không. Vậy nên tôi mới thích anh đến thế,” tôi đáp, ngập tràn trong cảm giác ngượng ngùng hạnh phúc. Có vẻ như tôi chẳng còn bận tâm giấu giếm suy nghĩ của mình nữa.

Tôi cảm thấy lồng ngực anh rung rung khi anh cười thành tiếng. Giọng cười hơi khàn khàn.

“Tôi chẳng thể nghe thấy anh,” tôi tiếp tục bằng giọng mơ màng. “Anh không biết điều đó mang lại cảm giác bình yên đến thế nào đâu. Sau cả đời phải chịu đủ thứ tào lao bá láp, rồi... chẳng nghe thấy gì cả.”

“Vậy làm sao em có thể xoay xở để hẹn hò với cánh đàn ông được? Đàn ông ở tuổi em chỉ độc có nghĩ đến cách lôi em lên giường thôi.”

“Vậy đấy, tôi không cần làm thế. Xoay xở ấy. Và thành thật mà nói, đàn ông ở tuổi nào thì cũng chỉ có độc một mục tiêu là lôi phụ nữ lên giường thôi. Tôi chẳng hẹn hò với ai cả. Mọi người đều cho rằng tôi bị điên, anh biết đấy, vì tôi không thể nói thật với họ; rằng tôi phát điên vì tất cả những suy nghĩ đó, những tâm trí đó. Hồi mới làm cho quán bar tôi cũng có hẹn hò vài lần, với những anh chàng chưa nghe đồn về tôi. Nhưng lần nào cũng như lần nào. Ta làm sao tập trung nổi để có thể tỏ ra thoải mái với một anh chàng hay nỗ lực hết sức trong khi nghe thấy rõ rành rành chàng ta đang băn khoăn không biết ta có nhuộm tóc không, hay đang cho rằng vòng ba của ta không đẹp, và tưởng tượng ngực ta trông như thế nào chứ.”

Đột nhiên tôi cảnh giác hơn, và nhận ra mình đã tiết lộ cho sinh vật này quá nhiều thứ về bản thân mình.

“Xin lỗi anh,” tôi nói tiếp. “Tôi không định làm anh nặng đầu với những rắc rối của mình. Cảm ơn anh đã cứu tôi khỏi bọn Chuột.”

“Do lỗi của tôi nên chúng mới có cơ hội tiếp cận em,” anh đáp. Tôi có thể nhận ra sự giận dữ đang lẩn khuất sau giọng nói bình tĩnh của anh. “Nếu tôi lịch sự đến đúng giờ thì đã chẳng có chuyện này. Nên tôi nợ em máu của mình. Tôi nợ em sự chữa trị đó”

“Chúng đã chết chưa?” Thật xấu hổ, nhưng giọng tôi nghe ráo hoảnh.

“Ồ, tất nhiên rồi.”

Tôi nuốt khan. Tôi không nuối tiếc gì khi thế giới này không còn đôi nhà Chuột. Nhưng khi nhìn thẳng vào anh, tôi không thể né tránh suy nghĩ mình đang ngồi trong lòng một kẻ sát nhân. Dù vậy, tôi vẫn thấy hạnh phúc khi ngồi đây, trong vòng tay anh. “Đáng lẽ tôi nên lo lắng về điều này mới phải, thế mà lại không,” tôi nói, trước khi kịp nhận ra mình đang nói gì. Giọng cười khàn khàn đó lại vang lên lần nữa.

“Sookie, sao tối nay em muốn nói chuyện với tôi?”

Tôi phải cố lắm mới nhớ lại được. Dù những tổn thương thể chất đã hồi phục một cách kỳ diệu, tâm trí tôi vẫn còn hơi quay cuồng một chút.

“Bà tôi thật sự rất muốn biết anh bao nhiêu tuổi,” tôi lưỡng lự. Tôi không biết câu hỏi đó có quá riêng tư với một ma cà rồng hay không. Chàng ma cà rồng đang vuốt ve lưng tôi cứ như thể tôi là một chú mèo con vậy. “Tôi trở thành ma cà rồng năm 1870, sau ba mươi năm làm người.” Tôi nhìn lên, khuôn mặt mờ sáng của anh chẳng biểu lộ cảm xúc gì, đôi mắt anh sẫm hơn cả bóng tối của khu rừng.

“Anh có tham gia Nội Chiến không?”

“Có.”

“Tôi có cảm giác anh sẽ nổi điên lên thôi. Nhưng bà và câu lạc bộ của bà sẽ rất vui nếu anh có thể kể cho họ nghe một chút về Nội Chiến, về bản chất của nó.”

“Câu lạc bộ?”

“Bà tôi tham gia hội Hậu Duệ Của Những Người Hy Sinh Vinh Quang.”

“Những Người Hy Sinh Vinh Quang.” Giọng nói của anh thật khó dò, nhưng tôi có thể dám chắc anh chẳng vui vẻ gì.

“Nghe này, anh không phải kể cho họ nghe về đám giòi bọ, những căn bệnh truyền nhiễm hay đám người chết vì đói đâu,” tôi nói. “Tự họ cũng có những hình dung riêng về Nội Chiến, và dù sao thì họ cũng không phải người ngu ngốc - họ cũng đã sống qua chiến tranh mà - họ chỉ muốn biết lúc đó người ta sống như thế nào, quân phục và cách thức hành quân nữa.”

“Những thứ sạch sẽ.”

Tôi hít một hơi thật sâu. “Phải.”

“Tôi mà làm thế thì em có vui không?”

“Có gì khác chứ? Điều này sẽ làm bà vui, và vì anh đang ở Bon Temps, thêm vào đó hình như anh cũng muốn sống ở đây, nên đó sẽ là bước khởi đầu cho những mối quan hệ tốt đẹp.”

“Em sẽ vui chứ?”

Anh không phải người tôi có thể lảng tránh được. “Được rồi, phải.”

“Vậy thì tôi sẽ làm thế.”

“Bà mong anh ăn xong rồi hãy đến,” tôi nói.

Một lần nữa tôi lại nghe thấy giọng cười của anh, lần này sâu hơn trước.

“Giờ thì tôi háo hức được gặp bà của em rồi đấy. Tôi ghé qua một tối nào đó được chứ?”

“Chắc chắn rồi. Tối mai tôi còn ca làm cuối, rồi sau đó được nghỉ hai ngày, nên tối thứ Năm thì sẽ hợp lý đấy.” Tôi giơ cánh tay để xem đồng hồ. Nó vẫn còn chạy, nhưng mặt thủy tinh dính đầy máu khô. “Khỉ thật,” tôi thốt lên, dấp nước bọt lên tay và cố chà sạch mặt đồng hồ. Tôi bấm nút đèn dạ quang và hốt hoảng khi biết được thời gian.

“Chúa ơi, tôi phải về nhà thôi. Hy vọng bà đã ngủ rồi.”

“Bà hẳn phải lo lắng lắm khi em ở một mình bên ngoài muộn như thế này,” Bill nhận xét. Anh có vẻ không bằng lòng. Có khi anh đang nghĩ tới Maudette chăng? Tôi có chút bứt rứt không yên, băn khoăn không hiểu Bill có biết cô ta không, hay cô ta đã lần nào mời anh về nhà mình chưa. Nhưng tôi bác bỏ ý nghĩ đó ngay, bởi tôi kiên quyết không muốn dấn sâu thêm vào cuộc sống và cái chết của cô nàng Maudette kỳ quặc ấy nữa; tôi không muốn sự kinh hoàng đó phá vỡ mất hạnh phúc nhỏ nhoi của mình.

“Đó là một phần công việc của tôi,” tôi đáp với giọng chua chát. “Chẳng làm sao khác được. Dù sao thì tôi cũng không làm ca tối cả tuần. Nhưng nếu có thể thì tôi sẽ làm.”

“Tại sao?” Chàng ma cà rồng giúp tôi giữ thăng bằng, rồi tự mình đứng lên một cách rất dễ dàng.

“Tiền boa hậu hơn. Công việc vất vả hơn. Chẳng còn thời gian để nghĩ ngợi nữa.”

“Nhưng ban đêm thì nguy hiểm hơn,” anh phản đối.

Bill phải biết. “Này, anh đừng có nói như bà tôi thế,” tôi nhẹ nhàng trách anh. Chúng tôi gần đến bãi đậu xe rồi.

“Tôi còn lớn tuổi hơn cả bà em nữa đấy,” anh nhắc tôi. Câu nói làm câu chuyện của chúng tôi bị ngắt quãng. Sau khi bước ra khỏi cánh rừng, tôi cứ đứng đó mà nhìn chằm chằm. Bãi đỗ xe trông có vẻ yên ắng thanh bình cứ như thể chẳng có gì xảy ra, như thể tôi không bị đánh suýt chết trên đoạn đường rải sỏi một tiếng đồng hồ trước, như thể nhà Chuột chưa gặp phải kết cục đẫm máu vậy.

Ánh đèn trong quán và trong toa xe lưu động của Sam đã tắt.

Con đường rải sỏi ẩm ướt, nhưng không có vết máu.

Ví xách tay của tôi nằm trên nóc xe. “Thế còn chú chó thì sao?” tôi hỏi. Tôi quay về phía ân nhân của mình. Anh đã không còn ở đó.