Thành phố vẫn chưa hoang vắng hoàn toàn. Cảnh sát Singh và cảnh sát Wood đến vùng đồng hoang ngay sau khi trận chiến chấm dứt. Thêm nhiều cảnh sát nữa đến. Xe cứu thương đậu ở rìa cỏ và nhân viên cứu hộ chạy ùa đến chỗ những thương binh.
Chú Lyell Bone được khiêng lên một chiếc băng ca và được đưa vô một xe cứu thương. Charlie được phép đi cùng ba nó. Ngay trước khi cửa xe đóng lại, cảnh sát Singh đến bên Charlie và hỏi thăm tình trạng của nó thế nào. “Trông cậu bầm dập đầy mình đấy, cậu trẻ”, ông nói. Rồi ông nhìn xoáy vô Charlie như thể ông thích thú đặc biệt về nó lắm
“Cháu không sao”, Charlie nói. “Cháu chỉ lo cho ba cháu thôi. Và cả mẹ cháu nữa. Mẹ cháu chắc chắn phải biết những chuyện đã xảy ra”
“Biết chứ”, cảnh át Singh nói. “Chú vừa mới gọi điện cho cô ấy xong”
Charlie bối rối. “Chú biết mẹ cháu ở đâu à? Nhưng sao chú biết?”
“À”, ông cảnh sát trả lời. “Chính mẹ cháu sẽ phải trả lời câu hỏi này của cháu”
Mẹ Charlie đang đợi nó ở bệnh viện, và sau khi ôm nó đến gần nghẹt thở, cả hai mẹ con tới đợi trong hành lang, trong khi chú Lyell được rửa vết thương
“Con không hiểu”, Charlie lặp đi lặp lại. “Ba mẹ đã ở đâu bấy lâu nay? Mỗi khi nghĩ về ba mẹ con luôn thấy có một chiếc thuyền ở tít ngoài biển khơi. Sau đó còn có những tấm bưu ảnh dán tem nước ngoài nữa”
“Charlie, mẹ xin lỗi”. Mẹ nó lại ôm nó. “Mẹ rất ghét phải làm như vậy với con. Nhưng ba mẹ phải đảm bảo chắc chắn cho gia đình Bloor không được để cho bọn chúng biết bằng hình thức thôi mien, bằng thần giao cách cảm hay bằng bất cứ trò lừa nguy hại nào của chúng”
“Thế có làm nên chuyện gì khác biệt không?”
Cô Amy Bone nâng gương mặt bầm tím của con trai và nhìn vô mắ nó. “Bọn chúng có thể đã bắt con đòi tiền chuộc, Charlie. Rất có thể chúng đã bắt cóc con, giam giữ con, thậm chí đe dọa tra tấn con nếu ba Lyell không từ bỏ sứ mạng của mình. Vì vậy chúng cần phải tin rằng ai đó khác mặc áo chùng đỏ và cưỡi ngựa trắng”
“Con đã nghĩ đó là ông Bartholomew Bloor”, Charlie nói, “Bởi vì ông ấy hay mặc áo khoác ngắn liền mũ màu xanh da trời, và Gabriel đã thấy cha anh ấy trao tấm áo chùng cho một người mặc áo khoác liền mũ”
Mẹ nó mỉm cười. “À, bác Silk biết rất rõ sự thật. BÁc ấy là người duy nhất biết, ngoài ông Bartholomew”
“Sao ông ấy cần phải biết?”
“Bởi vì chính ông ấy đã ở trên con thuyền đó, Charlie. Đúng thật là có một con thuyền tên là Cánh Xám, và nó đang dong buồm ngoài biền khơi nước Úc. Ông Bartholomew đã chẳng luôn muốn đi xem cá voi là gì. Ông là một thủy thủ tài ba và hoàn toàn tin mình sẽ sống sót qua khỏi bão tố của gã Lord Grimwald. Lúc này ông ấy và gia đình đang trên đường trở lại thành phố, con à”
“Phù!” Charlie vẫn chưa hiểu thông tỏ mọi việc. “Bất cứ khi nào con nghĩ đến ba mẹ là con đều thấy một chiếc thuyền. Nhưng tại sao lại thế, nếu ba mẹ không ở trên thuyền?”
Cô Amy lắc đầu. “Mẹ xin lỗi, Charlie. Ba mẹ cần phải làm cho con tin chắc là ba mẹ ở ngoài biển, đề phòng con bị thôi miên và Manfred moi được sự thật”
“Con đã bị thôi miên”, Charlie nhíu mày, “Vậy lại phải có ai đó đi vô đầu con để làm cho con tin rằng ba mẹ đang ở trên thuyền. Hừm. Con ước gì mình biết được người đó là ai”
Mẹ nó đắn đo. Hình như là một tình thế khó xử, vì vậy Charlie nhìn sát gương mặt của mẹ nó, nhất quyết đòi phải có câu trả lời
“Đó là xê-nho Alvaro”, cuối cùng me nó nói. “Thầy rất giỏi về phương diện này”
“Ra vậy” Charlie gần như không tin nổi
Một bác sĩ tiến đến chỗ hai mẹ con. Nụ cười hân hoan của ông cho họ biết rằng chú Lyell không hề bị nguy hiểm đến tính mạng. Họ được dẫn vô một phòng nhỏ, nơi chú Lyell đang ngồi trên giường. Đầu chú quấn băng trắng toát và một cánh tay quàng trong băng đeo. Charlie muốn ôm chầm lấy ba nhưng nó không biết cách nào, bèn hôn lên má và nắm chặt bàn tay không bị thương của ba
“Tha lỗi cho ba, Charlie”. Đôi mắt đen của chú Lyell long lanh. “Ba không xứng với con”
“Mẹ đã kể cho con nghe hết mọi việc rồi” Charlie bẽn lẽn. Nó cảm thấy mắc cỡ vì đã nghi ngờ ba nó, trong khi chính ba là một anh hùng
Chú Lyell bóp chặt tay con. “Hẳn là con tức giận ba mẹ lắm nhỉ”
Charlie lắc đầu nguầy nguậy. “Lão thầy bùa thì cần phải bị giết chứ? Để lão không bao giờ, không bao giờ còn bén mảng hiện về lại thành phố nữa”
“Suýt nữa là ba không xong rồi. Con đã cứu ba đó, Charlie”
“Vậy à?” Đến từ Charlie vẫn không nghĩ như vậy
“Còn nhiều việc phải làm nữa trước khi toàn thành phố được thanh lọc hoàn toàn,” ba nói nói, nhăn mặt
“Học viện Bloor?” Charlie hỏi
Chú Lyell mỉm cười nghiêm nghị. “Vài ngày nữa ba sẽ bình phục, và chúng ta, hai ba con mình sẽ sắp xếp mọi việc, được không?”
“Chắc chắn rồi”, Charlie nói
Charlie và mẹ nó ở lại với bệnh nhân thêm một tiếng đồng hồ nữa, và Charlie được biết về chỗ mẹ nó đã ở trong khi ba nó đi khắp thành phố trong vai trò của Hiệp sĩ Đỏ.
“Con có nhớ dạ tiệc một trăm hiệu trưởng không?” cô Amy hỏi
Làm sao Charlie quên được. “Đó là khi con phát hiện ra mụ Tilpin và lão thầy bùa”
“Có một người đàn ông đội khăn màu xanh da trời”
“Đúng rồi, Ông ấy đã trông thấy con và Billy trốn dưới gầm bàn nhưng ông ấy không chỉ điểm tụi con”
“Tên ông ấy là ông Singh”, cô Amy nói. “Ông ấy chính là cha của cảnh sát Singh, và ông ấy để cho mẹ sống ở nhà của ông ở miền Nam. Mẹ rất muốn ở nhà với con, Charlie, nhưng sẽ rất dễ sinh nghi ngờ nếu ba và mẹ lại xa nhau trong khi cả hai vừa mới đoàn tụ. Ông Singh tất nhiên là một hậu duệ của Vua Đỏ”
“Vậy là cả cảnh sát Singh nữa!”
Một cô y tá đẩy xe mang thuốc tới, Cahrrlie và mẹ chào tạm biệt ba Lyell, hứa sẽ trở lại vào ngày hôm sau. Trên đường ra khỏi bệnh viện họ bắt gặp cô Ingledew đang rời khỏi một phòng khác. Trông cô hơi đỏ mặt. Charlie chạy đến bên cô, la lớn, “Ông cậu của con ở đâu? Cô có gặp ông chwua?” Bỗng sực nhớ ra là họ đang giận nhau, nó ngập ngừng, “Hay là cô đi thăm người khác?”
Cô Ingledew mỉm cười. “Cô đi thăm ông Paton. Ông ấy không bị nặng ghê gớm đâu. Ông ấy nói về sự trợ giúp của những con báo, cô nghe mà chẳng hiểu gì cả. Nhưng có một chút phiền toái với bóng đèn. Họ phải chuyển chỗ cho ông ấy hai lần rồi, nhưng lần nào cũng lai có chuyện”
Charlie bụm tay lên miệng che nụ cươi. “Có ai bị thương không?”
“Hên là không”, cô Ingledew bảo. “Nhưng vụ việc gây bừa bãi kinh khủng. Thủy tinh vương vãi khắp nơi. Ông ấy được đưa vô một phòng riêng rồi, ở ngay sát cửa. Ngày mai ông ấy ra viện, cô tưởng tượng mọi người nhẹ nhõm phải biết”
Charlie không đợi để nghe thêm nữa. Bươn qua cánh cửa đang còn đu đưa, nó không thấy phòng của ông cậu và quàng tay ông người đàn ông cao gầy, đang gãi vô mảng băng lòi ra chiếc áo pyjama của mình
“Chết tiệt, ngứa như điên”, Ông cậy Paton phàn nàn khi Charlie buông tay ra. “Chào, Charlie. Tất cả giỏi hết xẩy luôn. Quả là một ngày hay ho nhỉ? Cuối cùng chúng ta cũng biết được vài bí mật. Trời ơi, ba của con là chú ngựa được biết đến ít nhất trong cuộc đua”
Charlie gật đầu lia lịa. Khi nó nghĩ ông cậu đã nói tất tật những gì ông muốn nói, nó hỏi. “Ông và cô Ingledew...?”
“Vẽ ra trận cãi cọ ngớ ngẩn à? Phải đấy. Cô ấy rất tốt bụng. Cứ tự trách mình, mặc dù tất cả là do lỗi tại ta, không nghi ngờ gì – chạy rông khắp đất nước, chõ mũi vô chuyện gia đình người ta”. Ông giả bộ ho một tiểng rồi tiếp. “Bị thương làm nên những phép mầu, khi nó đến...è, những mối quan hệ, con biết đấy. Người ta sẽ là kẻ tồi tệ hơn khi tự làm mình suy kiệt, Charlie.” Ông cậu Paton lại ho một tiếng kỳ kỳ nữa. “À, cô y tá sắp đến rồi. Khách khứa ra đi, Charlie. Nhưng trước khi con đi”, ông nắm lấy bàn tay Charlie, “ta muốn con là người đầu tiên biết...”
Má ông bất chợt đỏ nhừ lên.
“Biết gì ạ?” Charlie ỏi
“Cô... è....Julia... e hèm...” Ông cậu Paton dường như hôm nay có vấn đề với cái cổ họng, mặc dù ông bị thương ở ngực. Charlie kiên nhẫn chờ cơn co thắt trôi qua. “Ừ, Cô ấy...è... đã đồng ý lấy ta”
“WOW!” Charlie hét lên. “Một sự kiện bất ngờ”
Một cô y tá chạy vội về phía nó và mắng, “Đi ra, cậu kia!”
Đến lúc Charlie và mẹ nó về nhà, có bao nhiêu chuyện xảy ra ở nhà số 9. Trước hết là nội Bone đã ra đi
“Bà ta đến sống với các bà em rồi”. ngoại Maisie bảo họ. “Mặc dù ta không biết việc này sẽ kéo dài bao lâu”
Cô Alice Angel chuẩn bị về lại ngôi nhà cũ của mình. Cô quyết định sẽ bán cửa hàng hoa ở Đá Kê Chân và trở về sống trong ngôi nhà xưa
Vào tối Chủ nhật, mọi người bắt đầu trở lại thành phố. Họ hành xử cứ như họ vừa đi nghỉ cuối tuần mà thôi. Màn sương mù tai họa đã bao phủ nhà họ chỉ đơn thuần được coi như là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Không ai bóng gió gì tới trận chiến trong vùng đồng hoang. Đó là sự kiện mà hầu hết cư dân đều không can dự. Tất cả mọi người đồng ý rằng sắp tới sẽ là một ngày lễ Phục sinh tuyệt vời. Hoa thủy tiên và hoa diễn vĩ đã nở trong những bồn hoa trên đường và các đại lộ tràn ngập hoa anh đào thơm ngát. Bầu không khí lạc quan đầy tính chất huyền bí tràn ngập mọi nẻo đường.
Đám khách lạ man rợ từng xâm nhập đường Piminy dường như đã biến mất một cách bí hiểm hệt như khi bọn họ xuất hiện. Bà Kettle giờ là cư dân duy nhất ở đó. Bà tin chắc những hàng xóm dễ chịu chẳng mấy chốc sẽ quay trở lại. Thanh gươm vĩ đại của bà bây giờ treo trở về chỗ của nó trên tường lò rèn và con trăn xanh da trời một lần nữa lại bò thanh nhàn khắp các hàng ấm – có lúc người ta trông thấy nó, có lúc không. Bà Kettle đã đề nghị Dagbert Endless một mái ấm và nó sung sướng nhận lời. Nó suy ngẫm đến một cuộc đời hạnh phúc, ngày dài tháng rộng rèn nên những đồ dùng bằng sắt đẹp mắt. “Không nhất thiết phải rèn vũ khí,” nó bảo bà Kettle, “mà rèn những thanh gươm ngày lễ, những cánh cổng hoành tráng và những thứ đại loại như thế”
“Còn ấm thì sao?” bà Kettle hỏi
“Đương nhiên,” Dagbert nói
Không đứa học trò nào muốn trở lại Học viện Bloor vào ngày thứ Hai. Có tin đồn lan rộng rằng hiện thời nơi đó không phải là nơi an lành
Đến chiều thứ Hai, chú Lyell Bone và Ông cậu Paton về nhà ở đường Filbert. Bà bếp trưởng tạm thời ngủ ở phòng của nội Bone. Có rất nhiều việc phải làm, bởi vì chú Lyell và cô Amy muốn dọn về Góc Kim Cương, nhà của mình, càng sớm càng tốt. Nhưng trước khi dọn nhà, có một bí mật cần giải tỏa: bản di chúc của bà Maybelle
Tối hôm sau, chú Lyell đưa Charlie và ông cậu tới Nhà Thờ Lớn, nơi chú hiện nay vẫn là tay chơi organ chính thức. Họ bước dọc theo lối đi rộng, vòng qua các ngăn của ca đoàn tới chiếc organ lớn, những ống khung của nó chĩa thẳng lên mái trần hình vòm. Charlie tự hỏi không biết ba nó có thể giấu chiếc hộp khảm xà cừ ở đâu. Chú Lyell cười ranh mãnh và nhấc bề mặt bọc nệm của chiếc ghế dành cho nhạc công organ lên. Trong một cái ô vuông vức bên dưới là chiếc hộp
“Ối, tôi không bao giờ ngờ!” Ông cậu Paton kinh ngạc. “Giấu vậy mới là giấu chứ. Ai mà đoán cho được?” ông nhấc nó ra. “Nhưng không có chìa khóa, làm sao mở hả?”
“Chúng ta có thể phá khóa,” chú Lyell đề nghị, ‘nhưng làm vậy thì hoa văn của nó có thể bị phá hỏng”
Charlie cầm lấy chiếc hộp từ tay ông cậu. Nó lật úp chiếc hộp xuống và nghiên cứu những hình khảm xà cừ tinh xảo: những ngôi sao tí xíu, chim chóc, lá và hoa trang trí quanh đáy và thân hộp. Nó ngó đăm đăm những vì sao và thấy mình chu du rất chậm, rất êm, vô một căn phòng thắp nến, ở đó có một người thợ thủ công đang tỉ mẩn ghép những mảnh xà cừ tí hon vô mặt đáy của chiếc hộp. Người đàn ông này quay qua nhìn Charlie, và giơ một ngón tay lên. Charlie sửng sốt, bởi vì đó chính là bạn cũ của nó, Skarpo, thầy pháp, trên ngón tay giơ lên của ông ta có một con mèo nhỏ xíu bằng ngọc trai đang ngồi
“Charlie!” ba nó lay cánh tay nó. “Cái gì vậy? Con đang ở đâu thế?”
Charlie chớp mắt. Skarpo đã đi rồi. “Ngón tay của ông ta,” Charlie thở hổn hển, “Ngón tay”
Ông cậu Paton và ba nó hoảng hồn trố mắt nhìn Charlie.
“Nó là một con mèo!” Charlie nhìn mặt sau của chiếc hộp. Nó nhìn thấy lá và hoa, chim và ngôi sao, nhưng không có mèo. Nó đưa chiếc hộp lên sát mặt. Và thế là nó trông thấy. Có một con mèo. Tai của nó thò ra từ đằng sau một ngôi sao, đuôi nó để bên dưới một bông hoa. Charlie nhẹ nhàng ấn cái đuôi mỏng mảnh đó. Và nắp hộp bật mở ra
“Charlie! Phi thường làm sao!” Ông cậu Paton trầm trồ
“Thông minh quá!” chú Lyell khen
Charlie giữ bí mật chu du cho riêng nó
Bên trong hộp không chỉ có một bản di chúc mà có rất nhiều, bắt đầu từ bản di chúc của ông Septimus Bloor. Ông đã để lại tất cả mọi thứ cho bà Maybelle. Có cả một bản di chúc do bà Maybelle lập khi bà lo sợ mình đang bị đe dọa đến tính mạng. Bà để lại toàn bộ bất động sản cho con trai, Daniel Raven. Sau đó tới bản di chúc của Daniel, để lại toàn bộ của cải cho...
“Con gái ông ấy, Ita?” chú Lyell nói. “Bà ấy là ai trên đời này cơ chứ? Cháu đã từng nghĩ là ông Daniel để lại tất cả cho con trai, là Hugh, người đã trao chiếc hộp này cho cha của Billy, để chứng minh rằng anh ấy sẽ thừa kế tài sản của dòng họ Bloor, nếu bản di chúc thật của ông Septimus được tìm thấy”
“Đúng là tôi cũng đã tưởng như vậy,” Ông cậu Paton tán thành. “Tôi muốn hai người xem cái này.” Ông dẫn cha con Charlie ra ngồi xuống băng ghế đằng trước, họ ngồi hai bên ông trong khi ông lôi từ trong túi áo ra một tờ giấy gấp lại. “Đây là những gì tôi đã khám phá trong những chuyến nghiên cứu dài ngày của mình”, ông nói, trải rộng tờ giấy lên đùi
Charlie bà ba nó chụm đầu vô tờ giấy. Không có gì để xem ngoài môt đường thẳng theo hàng dọc những cái tên, bắt đầu từ người con cả của ông Daniel Raven, Ita, bà này sinh vào năm 1899 đã cưới một người tên là Simon Bone
“Bone!” Charlie và ba nó cùng ồ lên
Và đó, bên dưới Ita và Simom, là tên con trai của họ, Eamon, ông này cưới một bà tên là Clara Lyell. Rồi bên dưới Calra và Eamon là tên con trai của hai người, Montague Bone, người đã cưới Grizelda Yewbeam vào năm 1961, và chết vài năm sau đó
“Cha của cháu,” chú Lyell nói chậm rãi
“Ông ấy đã để lại tất cả mọi thứ ông sở hữu cho anh”, Ông cậu Paton bảo
Họ ngồi thật lâu trong ngôi thánh đường yên ắng, cố hiểu cái tin tức trọng đại này
“Vậy là Học viện Bloor là của ba, ba à”, cuối cùng Charlie nói
Ba nó nhăn mặt. “Ba nghĩ là vậy. Nhưng chúng ta sẽ chứng minh điều đó bằng cách nào?”
“Đơn giản thôi, tôi hy vọng vậy”, Ông cậu Paton nói. “Tôi đã có hẹn gặp thẩm phán Sage vào sáng mai”
Ngày hôm sau, chú Lyell Bone và Ông cậu Paton đem chiếc hộp đựng giấy tờ tới gặp cha của Lysander, thẩm phán Sage. Ông nổi danh là một trong những thành viên uyên thâm và không có thành kiến nhất trong hệ thống tòa án, và ông không cần mất nhiều thời gian đã tuyên bố rằng chú Lyell Bone là người thừa kế không thể chối cãi khối tài sản của ông Septimus Bloor. Dĩ nhiên ông sẽ phải đưa vụ việc này ra tòa, nhưng thẩm phán nghĩ rằng chú Lyell sẽ có cơ hội tuyệt vời để thắng kiện hoàn toàn
“Chúng ta buộc phải báo cho những người chủ hiện tại của Học viện Bloor rồi,” Ông cậu Paton nhận xét một cách hài hước
Charlie muốn hộ tống cha và ông cậu trong chuyến đi tới Học viện Bloor, nhưng chú Lyell e ngại không muốn cho nó đi theo. “Tất cả những nỗi thống khổ gần đây thành phố phải gánh chịu đều bắt nguồn từ gia đình đó,” chú Lyell nói, đặt tay lên vai con trai. “Đó là sào huyệt của quỷ, Charlie à, ba không biết bọn chúng sẽ còn giở trò gì khi chúng vỡ lẽ ra bản di chúc của ông Septimus đã được tìm thấy”
“Cho con đi mà!” Charlie năn nỉ. “Con muốn tới đó. Dù sao con cũng là người mở chiếc hộp chứ bộ”
Chú Lyell bật cười. “Thôi được. Con đã thắng ba, Charlie, nhưng hãy nhớ là chỉ được làm những gì ba bảo thôi đấy”
Charlie long trọng hứa. Thế là đến xế chiều, trước khi đèn đường bật sáng, Ông cậu Paton, Charlie và ba nó đi tới học viện Bloor. Họ vừa đi tới quảng trường thì một chiếc xe hơi mầu đen xồ ra. Nó khựng lại một thoáng để rẽ vô đường Đồi Cao và Charlie thấy gã Weedon ở đằng sau tay lái. Bên cạnh gã là bà vợ, và trong hàng ghế sau là thân hình không thể lầm lẫn được của Norton Cross trong áo jacket vẽ voi. Bên cạnh gã này nữa là một người ngồi tùm hụp, che mạng bằng bải đen kín mít. Cho tới khi chiếc xe lái xa khỏi họ Charlie mới thấy hành khách thứ tư. Một gương mặt trắng bợt, nhỏ quắt ngó ra đằng sau cửa sổ và rồi vụt biến khỏi tầm nhìn
“Joshua”, Charlie lầm bầm
“Và hình như là mẹ nó”, Ông cậu Paton nói. “Tất cả bọn chúng đang tẩu thoát”
“Chuột và tàu chìm đi với nhau”, chú Lyell nói hờ hững
Gã Weedon đã không thèm đóng cửa Học viện Bloor sau khi đi ra. Ba vị khách bước vô tiền sảnh tối tăm mà không mất công gõ cửa. Và lần cuối cùng trong đời, Charlie rùng mình trước âm khí dường như bao trùm toàn bộ tòa nhà. Quả đúng đây là sào huyệt của quỷ, và chủ mưu của tất cả mọi trò hiểm độc đang ngồi trong xe lăn của lão, đang trừng mắt ngó xuống họ từ chiếu nghỉ trên đỉnh dãy cầu thang. Cứ như là lão đang chủ ý đợi họ
“Tao nghĩ chúng mày đến để khoe khoang”, lão quát. “Nhưng chúng mày chưa thắng đâu. Chúng mày đã kết liễu bá tước Harken. Nhưng vẫn còn tao ở đây, mà tao thì đừng hòng lay chuyển”
“Chúng tôi có bản di chúc, ông Ezekiel”, chú Lyell nói. “Bản di chúc thật. Tất cả đã kết thúc rồi”
“Không bao giờ!” lão già rú gào.
“Tôi e rằng, ông Ezekiel”, Ông cậu Paton nói, “ông sẽ phải sống những ngày cuối đời trong nhà dưỡng lão”
“Không đời nào. Tao quyết ở lại!” lão Ezekiel bắt đầu cười khùng khục, không sao kìm chế được. “Manfred sẽ bảo đảm cho điều đó. Nếu bọn bay nhích thêm một bước nào nữa, nó sẽ thiêu rụi nơi này, tụi mày nào có muốn thế, phải không?”
Những lời của lão vừa dứt, Manfred bước ra khỏi bóng tối dưới gầm cầu thang. Hai tayhawns giơ lên không, mỗi ngón tay đều có lửa đang cháy rực như một ngọn đuốc. “Không được lại gần”, hắn cảnh báo. Tài phép kinh khủng của tổ tiên hắn, Borlath, con trai cả của Vua Đỏ, cuối cùng đã hiển linh ở Manfred.
Chú Lyell dũng cảm tiến một bước về phía Manfred.
“Ba, không!” Charlie thét,ngó chòng chọc những ngọn lửa đang nhảy nhót trên những ngón tay của Manfred.
“Húuu!” Manfred rít lên nhức óc, và những ngọn lửa cháy cao hơn nữa. “Đám mèo chết nhát!”
Sự việc xảy ra tiếp theo quá kinh hoàng, đến nỗi Charlie không thể tin vô mắt mình. Vì bỗng nhiên lão Ezekiel bắn vèo xuống cầu thang. Những bánh xe lăn đáp thịch, thịch, xuống từng bậc thang, một bậc, hai bậc, rồi lão bật tưng trên không. Choáng sốc đến nỗi không né được, Manfred chỉ biết khiếp đảm tại chỗ, nhìn sững cái khối đang bay trên không. Khi bị cái khối đó đáp trúng người, hắn phọt ra một tiếng thét lộng óc mà mãi về sau này vẫn còn âm vang trong đầu Charlie.
Lão Ezekiel lăn ra khỏi ghế ngồi của lão, hự lên một tiếng dài, sau đó nín bặt. Những ngọn lửa đang cháy èo uột trên một bàn tay thò ra từ cái đống lộn xộn ấy kêu xèo một cái rồi tắt ngúm
Ba vị khách tức thời cũng bàng hoàng đến không thể nói được, sau đó Ông cậu Paton lắp bắp. “Cái quái gì thế?”
Charlie đã nhìn thấy thủ phạm, hay đúng hơn, vị cứu tinh của họ, tùy theo người ta nhìn nhận nó thế nào. Một con chó ú ị, lún chún đứng ở bậc cầu thang trên cùng, ngúc ngoắc cái đuôi ốm tong teo. “May Phúc!” Charlie thét to. “Chú chó trong ngày!”
Ông cậu Paton rút điện thoại di động ra và bấm số gọi xe cứu thương. Trong khi ông gọi điện, Charlie để ý thấy một dáng người đậm chắc đứng bên cánh cửa dẫn vô chái phía Tây. Tiến sĩ Bloor tiến về phía cái đống gỗ và xương lùng nhùng. Thật khó mà đọc được biểu cảm của ông ta, nhưng ông ta không chạm vô cái nào trong hai cái xác
“Ấy là con chó,” chú Lyell nói. “Chắc nó đã đẩy chiếc xe”
“Từ lâu tôi đã biết rằng một ngày nào đó nó sẽ làm điều này”, tiến sĩ Bloor nói với vẻ chán nản. Ông ta ngước lên nhìn May Phúc,vẫn đang khoái chí ngoáy đuôi. “Tôi phỏng đoán là các người đã tìm thấy bản di chúc”
“Đúng thế”, chú Lyell đáp
Tiến sĩ Bloor thở dài đánh thượt. “Tôi sẽ không gây bất lỳ phiền toái nào cho anh. Giờ chỉ vô ích thôi. Tôi sẽ đi đóng gói hành lý”
“Cảm ơn ông”, chú Lyell nói
Vào ngày lễ Phục sinh, ông Paton Yewbeam và cô Ingledew cưới nhau tại một nhà thờ nhỏ ở ngoại ô thành phố. Người tham dự đông đến nỗi phải dứng ra tới tận cửa; bên ngoài nhiều người hát hò dưới những bóng cây anh đào nở rộ. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng về sống hòa thuận trong một gian phòng thắp nến ở trên lầu của tiệm sách Ingledew. Emma vô cùng sung sướng với sự sắp đặt mới này
Billy Raven không hề hay biết gì về việc nó là người thừa kế hụt khối tài sản của gia đình Bloor. Trong khi Charlie và ba mẹ đang thu dọn đồ đạc ở nhà số 9, Billy sống với Benjamin. Nhưng sau vài ngày bị Hạt Đậu rượt đuổi khắp nhà, Rembrandt bảo với Billy rằng chú ta không thể chịu đựng nổi thêm một ngày nào nữa ở ngôi nhà ấy. Vì vậy Billy chuyển tới tiểu trang trại của gia đình Silk ở khu Đồi Cao. Nó mê mải nói chuyện với rất nhiều thú nuôi của gia đình Silk, nhưng các chị của Gabriel không ngừng than vãn rằng họ cần chỗ rộng hơn, cho dù ông và bà Onimous đã dọn về lại quán cà phê Thú Kiểng. Nhà của Fidelio Gunn là mái ấm tạm thời tiếp theo của Billy, gia đình Gunn là một gia đình đông đúc, họ kết luận rằng thêm một đứa trẻ nữa cũng chẳng khác gì, sau đó đề nghị những dịch vụ xã hội xúc tiến các thủ tục nhận con nuôi.
Billy có hạnh phúc với những sự dàn xếp này? Thật khó nói. Nó mỉm cười vào những thời điểm thích hợp, và gật đầu khi nó được hỏi ý kiến. Nhưng liệu nó có hạnh phúc?
Nó hay đi tới nhà thờ khi chú Lyell Bone đang dợt đàn organ. Nó rúc vô ngồi trong một chiếc ghế khuất đằng sau một trong những cây cột lớn, nhắm mắt lại và lắng nghe. Nhưng sự hiện diện của nó không phải là không bị phát hiện. Một ngày nọ chú Lyell gọi Billy và hỏi nó có thích học chơi đàn organ không
Billy bẽn lẽn chui ra khỏi chỗ núp và tiến tới chỗ cây đàn organ lớn. Chú Lyell chỉ cho nó đặt những ngón tay lên các phím đàn thích hợp, và Billy sướng mê tới trước âm thanh phát ra từ khối đàn đồ sộ đó. Sau bài học đàn, hai chú cháu dắt nhau bước ra khỏi nhà thờ. Trời bất chợt đổ mưa. Đó chỉ là một cơn mưa rào mùa xuân, nhưng cũng đủ để hai người phải trú một lát trong mái hiên
Khi họ nhìn những hạt mưa nảy trên những viên sỏi bóng loáng, chú Lyell đặt tay lên vai Billy và nói, “Billy, con có muốn đến sống với gia đình chú không?”
Billy nhướng mày. Nó tháo đôi mắt kính mới của nó ra và dùng ngón cái lau lau mặt kính. “Trong bao lâu ạ?” nó hỏi
Chú Lyell mỉm cười. “Mãi mãi”
Billy đeo kính trở lại và nhìn đăm đăm ra trước. Nó hầu như không thể tin được những lời nó vừa nghe. Nó cảm thấy hụt thở, cổ họng nó co thít và nó tự hỏi có phải mình sắp chết không.
Lo lắng trước sự im lặng của Billy, chú Lyell nói. “Chú sẽ cố hết sức để là một người cha tốt”
Bằng giọng lí nhí, nghẹn ngào, Billy hỏi. “Thế còn Charlie?”
“Đây là ý kiến của nó,” chú Lyell nói. “Cô Amy và chú nghĩ, ờm, cô chú nghĩ cô chú thật sự muốn có thêm một đứa con trai nữa”. Chú Lyell ngó xuống gương mặt nghiêm trang của Billy. “Con thấy thế nào?”
Billy không thể tin nổi. Người đàn ông dũng cảm nhất, tốt bụng nhất trên thế giới đã đề nghị nó đến sống với một gia đình mà nó yêu mến. Không lời, nó vung tay ôm choàng lấy thắt lưng chú Lyell mà ghì chặt
“Chú coi như đó là lời đồng ý”, chú Lyell bảo
“Chỉ có một điều”, Billy thầm thì, và nó thò tay vô túi quần. Nó cảm thấy cuộc đời nó phụ thuộc vào câu trả lời của chú Lyell. “Thế còn con chuột của cháu?”
Chú Lyell cầm lấy con vật đen bóng được trao vô tay mình. “Đương nhiên chú rất thích chuột”, chú nói. “Chào mừng Rembrandt”
“Cảm ơn nhiều”, Rembrandt đáp
Một tuần sau ngày lễ Phục sinh, Học viện Bloor mở cửa lại dưới sự quản lý mới. Nó cũng có một cái tên mới – Học viện Bone. Việc chỉ định giáo sư Saltweather làm hiệu trưởng dường như rất được mọi người ủng hộ, xê-nho Alvaro thay vị trí trưởng khoa Nhạc của thầy. Một số giáo viên cũ ra đi, trong đó có thầy Paltry già và thầy Pope. Họ được coi là những tổn thất không đáng kể. Bà bếp trưởng trở lại căn phòng cũ của bà bên dưới nhà bếp, có điều lần này bà tuyên bố rằng cánh cửa âm tường dẫn tới nơi ở của bà sẽ luôn mở rộng cho bọn trẻ cần uống ca-cao và cần sự an ủi. May Phúc trải qua hầu hết ngày của nó nằm bên cạnh lò sưởi của bà, và giáo sư Saltweather thường xuyên đến thăm bà
Bà bếp trưởng mời bà bạn cũ của bà, ngoại Maisie Jones, trở lại học viện cùng với mình. Và ngoại Maisie bây giờ trở thành Nữ hoàng căn-tin xanh lá cây, thay cho mụ Bertha Weedon hay gắt gỏng. Chỉ sau vài ngày học hành trong điều kiện mới này mà mọi học sinh đều tuyên bố rằng Học viện Bone là ngôi trường tốt nhất và hạnh phúc nhất trong nhiều dặm
Hiện thời thành phố là một nơi khác hẳn. Nó mang bầu không khí mùa xuân vĩnh cửu. Ba ngôi nhà số 13 ở Ngách Tối đã trống trơn. Không ai biết bốn chị em và Eric đã đi đâu. Gia đình Loom cũng rời thành phố, cửa hàng và tiệm cà phê của nhà Branco vắng tanh. Nhưng quán cà phê Thú Kiểng thì không vậy. Quán đã mở cửa lại bằng một bữa tiệc linh đình. Nhiều thú vật tham dự đến nỗi hầu như không có chỗ cho chủ nhân của chúng. Gabriel đến, mang theo đủ chuột cảnh cho tất cả bọn bạn, kể cả cho Dagbert. Lysander đi với con vẹt của anh, Homer, còn chị Lauren, bạn gái của anh thì mang theo con vẹt Cassandra của chị
Ba con mèo lửa theo dõi sự kiện này từ trên quầy. Không ai dám đề nghị chúng nên đi chỗ khác.
Charlie và bạn bè xoay xở xí được chỗ ưa thích của chúng ở bên cửa sổ. Tất cả có mười hai con thú cưng và mười một đứa trẻ. Bà Onimous đã vượt lên chính bà – làm bánh ngon hơn hẳn trước đây – và sáu cái đĩa cao tú hụ đựng đủ loại món ăn mê ly dành cho thú và bánh nướng chễm chệ ở giữa bàn
Sau khi ních căng bánh trái, Rembrandt lăn ra ngủ và tuột khỏi đùi Billy. Billy lật đật cúi xuống gầm bàn để kịp thời giải cứu nó khỏi Hạt Đậu. Khi Billy chui lên khỏi gầm bàn, đôi mắt nó mở tròn xoe và một nụ cười rộng tướng ngự ở trên mặt nó. Cúi sát vô Charlie, nó thì thầm, “Tancred và Emma đang nắm tay nhau đó”
* * *
[1] Nguyên văn Hooligan: tức những người cổ vũ bóng đá một cách bạo lực[2]. Tượng điêu khắc, thường là hình người hoặc hình thú, gắn lên tường bên ngoài một tòa nhà để trang trí. (ND)[3] Stace là tên thường gọi của bà cô Eustacia. (ND)