Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang

Chương 4

BỌ BIẾN DẠNG

Sáng Chủ Nhật, mưa dầm, thỉnh thoảng chuyển mưa tuyết, trôi lượt thượt xuống những tấm kính cửa sổ. Bầu trời tối sụp, xám như chì, nhiệt độ đóng băng. Vẫn không thấy bóng dáng bà bếp trưởng đâu, nên Charlie và Billy phải ăn bữa sáng khốn khổ trong căng-tin xanh lá cây: lại bánh mì nướng cháy, không bơ, không cốm bắp. Chúng đã chắc mẩm là mình phải đứng lên mà không được uống gì thì mụ Weedon đặt kịch một bình nước và hai cái ca xuống bàn chúng.

“Cháu nghĩ lẽ nào tụi cháu không được một miếng bơ?” Charlie thận trọng hỏi.

“Mày nghĩ đúng đấy,” mụ Weedon nói.

“Còn mứt?” Billy gợi ý.

Mụ Weedon lờ tịt thằng nhóc và hằm hằm đi ra. Hai phút sau trở lại với một bình đựng cái gì trắng trắng. “Váng kem đấy,” mụ bảo tụi nó. “Rất tốt cho tụi mày.”

Hai thằng nghi ngờ nhìn cái gọi là váng kem. Ngay khi mụ Weedon tếch khỏi, Charlie thò con dao ăn của nó vào bình rồi nhấc ra, dính nhoe nhoét. Nó liếm con dao. “Uuuurrrghh! Kinh tởm.”

Billy lại có quan điểm khác. “Em thích nó,” thằng bé trét dày váng sữa vào miếng bánh của nó. “Bánh cháy sẽ đỡ hơn với cái này phết lên.”

Ăn sáng xong chúng lang thang lên phòng Nhà Vua. Không có ai để bảo chúng phải làm gì. Nếu Manfred Bloor ở đó, thể nào hắn cũng ra lệnh chúng phải ra sân chơi. Hắn rất khoái đuổi cổ bọn trẻ ra ngoài trời, đặc biệt là những khi trời lạnh và ẩm ướt. Mà Manfred bấy nay đâu chẳng thấy?

“Em nghe nói hắn trông như quái vật.” Billy liếc quanh căn phòng, nơm nớp sợ Manfred xồ ra từ sau một kệ sách. “Hắn bị gù lưng và què.”

“Anh ngạc nhiên là hắn còn sống,” Charlie nói khẽ. “Không nhiều người sống sót nổi sau khi bị báo tấn công đâu.”

“Báo!” Vẻ khiếp đảm pha lẫn trong giọng nói của Billy. “Trông chúng y như mèo bình thường vậy, trừ màu lông.”

“Ừm.” Charlie chưa bao giờ ngưng thắc mắc làm thế nào mà ba con mèo, trong vài phút sống còn, lại biến thành báo, có khả năng xé xác người ra thành từng mảnh. À, không thành từng mảnh đâu, nhưng thế là đủ rồi.

Đến giữa trưa hai thằng quyết định đi tìm bà bếp trưởng. Sau một bữa sáng sơ sài, bao tử chúng đã đánh lô tô rồi. Khi đi xuống cầu thang chính, chúng thấy một bóng người đang băng qua tiền sảnh. Áo chùng đen phủ toàn thân người đó. Chỉ còn nhìn thấy được bàn chân, bọc trong giày bốt đen, bên dưới cẳng chân mặc quần xắn đến mắt cá. Chiếc mũ trùm ụp kín cái đầu bổ về trước, thòi ra từ đôi vai thõng xuống một cách bất tiện, quái dị.

Hai thằng bé đông cứng lại khi thân hình đội mũ trùm khập khiễng đi tới cánh cửa dẫn vào chái phía tây. Có vẻ bất lực trong cách hắn giật và lắc cái vòng tay cầm, hình như hắn không thể vặn được nó vậy. Nhưng cuối cùng cánh cửa cũng mở ra, và đến khi đó cái hình hài mới quay về phía bọn trẻ.

Chúng đinh ninh là sẽ thấy một gương mặt cau có, biểu thị sự tức giận vì bị dòm ngó. Nhưng người đàn ông đội mũ trùm không có mặt. Charlie và Billy thấy mình nhìn vào một chiếc mặt nạ trắng khoét hai lỗ xiên xiên, viền bạc và một cái miệng há hoác hình con thuyền. Thế rồi hắn biến mất, lướt qua cánh cửa nhỏ với tốc độ đáng kinh ngạc, bỏ lại hai thằng trơ khấc ra ở cầu thang.

“Manfred,” Billy thì thầm.

Charlie gật đầu. “Chắc vậy.”

“Em thấy ớn sườn. Em đang cố tưởng tượng gương mặt hắn thế nào.”

“Đừng tưởng tượng,” Charlie nói.

Mãi rốt cuộc chúng tìm ra bà bếp trưởng ở đằng cuối nhà bếp của bà. Bà đang vừa lầm bầm to tiếng một mình vừa thảy hành băm vào một cái chảo kêu xèo xèo. Charlie gọi bà, nhưng không thấy đáp lại, nó bèn chạm nhẹ vào cánh tay bà. Bà bếp trưởng hoảng hồn thét lên và chiếc thìa gỗ bà đang cầm bay vèo lên không.

“Sao con làm thế?” Bà nói lạc giọng.

“Tại bà không nghe con gọi, bà bếp trưởng. Bà đang nói chuyện một mình.”

“Thế à? Ồ, ta đã nói gì?” Bà bếp trưởng vuốt thẳng tạp dề và vặn nhỏ ga lại.

Khi nghe kể về thức ăn mà hai thằng nhỏ đã phải è cổ ra nuốt, bà bếp trưởng bình tâm lại một chút và hứa chúng sẽ có súp thịt trong bữa trưa. “Sau đó có thêm bánh hấp phết táo nữa,” bà thêm. “Ta đã làm một ít trong lò để cho nhà Bloor.”

“Bà đã ở đâu vậy, bà bếp trưởng?” Billy hỏi. “Thường bữa sáng nào bà cũng ở đây kia mà.”

“Ta đã ở nhà một người bạn. Có thể nói là suýt nữa ta đã không trở lại. Nhưng bạn của ta đã thuyết phục ta phải trở lại. Bà ấy là người rất nhạy cảm.” Bà bếp trưởng mở vung ra và thảy vào chảo một nắm lá gia vị.

“Ưmm!” Charlie nhắm mắt lại. Mùi thơm từ cái chảo bay ra mê hồn đến độ nó tưởng như mình đang ăn món đó.

“Chưa xong đâu.” Bà bếp trưởng xua hai thằng bé trở lại căng-tin. Vài phút sau bà xuất hiện với hai tô súp thịt bốc khói.

“Bà sẽ không rời học viện Bloor đâu, bà nhỉ?” Charlie hỏi bà bếp trưởng.

Bà nhăn mặt. “Billy đã kể cho con nghe về thằng Dagbert đó rồi à?”

“Con biết rành về Dagbert,” Charlie thở dài, “về Lord Grimwald và những gì hắn đã gây ra cho bà. Kinh khủng quá, bà bếp trưởng, nhưng Dagbert không biết bà là ai. Tại sao bà phải sợ nó?”

“Ta không cưỡng lại được, Charlie. Chỉ cần nghĩ về gia đình đó thôi là ruột gan ta lộn nhào. À, Billy này, con chuột của con bị chuyển đi rồi.”

“Rembrandt? Sao? Sao vậy ạ? Sao nó không thể ở quán Cà Phê Thú Kiểng?”

“Tại nó tự cảm thấy ô nhục. Về tội ăn cắp bánh bích quy. Thật đáng giận. Con biết bà Onimous yêu thương nó biết chừng nào không. Bà ấy không muốn nó đi, dĩ nhiên rồi, nhưng ông Onimous thì nhất quyết. Ta nghe nói con rắn tội nghiệp nhớ nó kinh khủng, đến nỗi gần mất màu luôn. Nhưng mà thôi, việc đã rồi.”

“Nhưng bây giờ Rembrandt ở đâu?” Billy thất kinh. “Nó có vui không? Nó có thích chỗ ở mới của nó không?”

“Nó ở tiệm Ấm Đun,” bà bếp trưởng thông báo với chúng. “Không thể chôm chỉa được gì ở đó, ngoài trà, tất nhiên. Theo tin tức ta thu thập được thì nó không thích nơi đó cho lắm.” Bà quay đi.

“Tiệm Ấm Đun ở đâu vậy bà?” Billy tha thiết hỏi.

Bà bếp trưởng ngần ngừ. Đầu óc bà hình như đang ở nơi khác. “Tiệm Ấm Đun,” bà lơ đãng, “ở đường Piminy. Hãy hỏi thăm bà Kettle – một người bạn thân của ta. Ăn súp đi kìa.”

Khi bà bếp trưởng đi trở vào bếp, Charlie nhận thấy lò xo đã biến khỏi bước chân của bà. Bà vốn là người quyết đoán và lạc quan, thấy bà buồn nản như vậy khiến nó lo lắng.

Không lâu sau, bánh hấp phết táo hiện ra tiếp theo súp thịt như đã hứa. Ăn xong, để lại bà bếp trưởng vẫn nói chuyện một mình, Charlie và Billy trở về phòng Nhà Vua. Không có người cai quản nên bọn chúng khó lòng ép mình tự học bài được.

“Nếu Olivia ở đây chị ấy sẽ rủ tụi mình đi thám hiểm cho coi,” Billy hít hà.

Nhưng Olivia không có ở đó, và nghe nhắc đến tên con nhỏ khiến Charlie lộn tiết. Nó không tài nào quên được cái kiểu con nhỏ hối hả chạy đi, hét bảo nó là đồ dối trá và lừa phỉnh.

“Đi, tụi mình đi thám hiểm đi,” Billy nài nỉ.

Charlie rên rẩm và đặt sách xuống, bất thần nó bỗng thấy ham thích. “Thì đi.”

Thám hiểm ở đâu? Billy không có đáp số. Không thể là trên gác mái, nơi lão Ezekiel sống chung với những thí nghiệm rùng rợn của lão. Không phải dưới tầng hầm, nơi tiến sĩ Bloor cất giữ những dụng cụ tra tấn cổ xưa, trong đó có những món thấy là dựng óc. Càng không thể ra sân chơi, vì ngoài ấy mưa tuyết đã chuyển thành bức màn mưa đá trắng xóa.

Cuối cùng chúng quyết định vào phòng Mỹ Thuật. Ngắm tranh luôn luôn là thú tiêu khiển, mặc dù tranh không đẹp gì cho cam. Phòng điêu khắc ở bên dưới trưng bày một số tác phẩm rất ấn tượng. Lysander là nhà điêu khắc tài năng. Những bức tượng của Tancred cũng rất thú vị, có điều không phải lúc nào ta cũng biết đấy là tượng gì.

Phòng Mỹ Thuật ở ngay đầu kia phòng ngủ chung của chúng và nhìn ra vườn. Hôm nay những cửa sổ dài chỉ nhìn ra được một làn mưa tuyết và mưa đá lay động. Chúng hắt ánh sáng quái gở lên rừng bảng vẽ và giá vẽ.

“Tụi mình đi xem tượng của Lysander đi,” Billy đề nghị.

Một cầu thang xoáy trôn ốc bằng sắt rèn chạm trổ tinh xảo dẫn xuống phòng điêu khắc. Trong lúc chúng đi xuống, một âm thanh bất thình lình vẳng lên chỗ chúng. Tiếng hát. Hay là tiếng đọc kinh? Có thể là ai? Theo như chúng biết thì không có đứa nào khác bị cấm túc vào cuối tuần này.

Khi xuống tới phòng điêu khắc, chúng nhón chân vòng qua những khối gỗ, thạch cao và những bức tượng hình thù kỳ lạ. Ở chính giữa phòng dựng tác phẩm của Lysander: một bức tượng cỡ bằng người thật, hình mẹ anh ấy, bà Hortense Sage, và đứa con mới sinh của bà.

Chúng càng tiến vào căn phòng dài thì tiếng tụng kinh càng rõ dần. Đến khi chúng băng tới đầu kia, không nghi ngờ gì cái tiếng ấy phát ra từ căn phòng sát vách: căn phòng dành cho lớp vẽ năm nhất và lớp may trang phục.

Charlie đặt tay vào nắm cửa.

“Mở đi,” Billy thì thầm. “Coi đó là ai.”

Charlie mở phăng cửa ra.

Một tiếng rú lên hoảng hốt, cùng với một đống giấy, kim ghim và vải – hai thằng bé thấy mình nhìn sững vào Dorcas Loom. Trên chiếc bàn rộng trước mặt con nhỏ có một cây kéo khổng lồ, to nhất Charlie từng thấy. Nó còn thấy cả những cái hũ và hộp gỗ, những hộp thiếc nhỏ và những bó dược thảo xếp thành hàng ngay ngắn bên cạnh cây kéo. Chắc chắn bà cô Venetia của nó có dính dáng đến mấy thứ này.

“Đồ rình mò!” Dorcas gào to.

Charlie mặc kệ ánh mắt buộc tội của con nhỏ. “Cô làm gì trong trường thế này?”

“Chứ mày làm gì ở đây?” con bé quật lại, vừa vội vàng đậy một tờ khăn giấy lên cái gì đó màu xanh da trời. Nhưng Charlie đã kịp thấy nó là vật gì.

“Tôi bị cấm túc,” nó nói một cách thờ ơ. “Còn lý do của cô là gì?”

Đã định thần lại, Dorcas lên giọng kiêu căng. “Tao không cần lý do. Tao làm việc cho bà Venetia của mày.”

“Tôi thấy cô có đủ đồ nghề thích hợp đấy.” Charlie cầm một cái hộp thiếc lên và đọc trên nhãn hiệu. “Bọ Biến Dạng. Dùng để...”

“Trả đây cho tao!” Dorcas giật lấy đáy hộp trong khi Charlie vẫn giữ chặt cái nắp. Và điều tất yếu là cái hộp tách bung ra làm hai phần.

Một đám mây bọ màu cam đổ ụp ra bàn, phủ kín kéo, kim ghim và ống chỉ cotton.

“Đồ quỷ!” Dorcas thét gầm, quính quáng lôi các thứ ra khỏi đám bụi cam. “Cút khỏi đây. CÚT MAU!”

Charlie và Billy đứng ngây ra như phỗng. Ngay trước mắt chúng, những đồ vật bị đàn bọ bám đang từ từ thay đổi hình dạng – chúng kéo dài ra hơn, thon lại, và láng hơn.

“Chị đang là... làm gì đó, Dorcas?” Billy run rẩy hỏi.

“Không phải việc của mày,” con nhỏ rống như bò bị chọc tiết. “CÚT MAU! CÚT ĐI!”

Dorcas bắn giạt qua bên bởi một tiếng gầm từ ngưỡng cửa.

“Mày điếc hả, Charlie Bone?” Lão Weedon quát. “Tao đã lùng sục khắp cái học viện chết tiệt này tìm mày. Đến giờ về nhà rồi. Trừ phi mày định ở đây thêm một đêm nữa.”

“Không, không,” Charlie hấp tấp. “Cháu không nghe thấy. Phải Ông cậu Paton...”

“Hắn không vào. Liên tục gọi cho tao từ cái mobile tàn tạ của hắn. Món đồ phải gió. Thà đừng bao giờ phát minh ra thì hơn. Theo tao thì đó là đồ dùng của quỷ.”

Charlie vù qua lão Weedon, Billy lọt tọt theo sau. Chúng phóng bay lên phòng ngủ chung để lấy giỏ xách và trở xuống tiền sảnh trong vòng ba phút đúng. Lão Weedon ì ạch đuổi theo chúng xuống cầu thang.

“Chúng mày không xứng đáng một ngày nghỉ,” lão vừa làu bàu vừa mở khóa cánh cửa nặng nề.

Charlie không mất công đối đáp rằng một ngày rời khỏi trường không phải là ngày nghỉ. Rốt cuộc mưa tuyết đã ngừng, nhưng thay vào đó lại là một màn sương đóng băng. Thoạt đầu chúng không nhận ra chiếc xe của Ông cậu Paton đậu bên kia quảng trường. Như thường lệ, đầu ông cúi gằm xuống một quyển sách. Nhưng không như thường lệ, ông không đeo kính đen.

“Hầu như chả thấy gì trong màn sương này,” Ông cậu Paton nhận xét khi bọn nhóc lồm cồm chui vào ghế sau. “Nên ta nghĩ chẳng ai nhìn thấy ta.”

Ông lái xe cẩn thận ra khỏi quảng trường. Trời đã gần tối, đèn đường hiện ra như những vầng sáng dịu nhẹ, treo lơ lửng trong màn sương.

“Sương gì kỳ quái,” Ông cậu Paton nói trong khi nhìn thẳng về trước. “Nó có mùi muối. Chắc từ biển bay vào, có trời biết, cách nhiều dặm chứ ít gì.”

“Biển.” Charlie bắt đầu nối kết các sự việc lại với nhau. “Ông cậu Paton, có một thằng bé mới tới trường của con. Nó được ban phép thuật, theo như nó nói, là dìm chết đuối.”

Ông cậu Paton cười khà. “Dìm chết đuối? Vậy chắc là bóng ma từ con tàu đắm hay sao?”

“Chuyện nghiêm túc đấy ạ, thưa ông Yewbeam,” Billy sốt sắng. “Nó dìm chết người ta.”

Charlie thêm. “Cha nó là Lord Grimwald. Người mà đã...”

“Quỷ thần ơi! Ta hiểu ý con rồi, Charlie. Một kẻ hủy diệt từng có trên đời. Hắn im hơi lặng tiếng đã khá lâu. Ta tưởng hắn chết hay bị chôn vùi đâu đó rồi chứ. Nên nhớ...” Ông cậu Paton nhấn còi với một chiếc xe lù lù hiện ra khỏi màn sương, rồ sát tới thật nguy hiểm. “Dạo này có nhiều vụ đắm tàu gần khu vực của hắn. Phần lớn là ngư dân. Họ giải thích là do thời tiết, nhưng đâu biết chừng, ai ngờ được.”

“Vùng của hắn ở đâu?” Charlie hỏi.

“Phương Bắc.” Ông cậu Paton phẩy bàn tay ra một hướng vô định. “Một trong những hòn đảo. Không ai biết vị trí đích xác. Bọn chúng rất bí hiểm, lũ nhà Grimwald ấy. Lưu truyền rằng khi một đứa con trai trong gia đình tới 12 tuổi thì, hoặc là cha nó hoặc là nó sẽ chết. Không thể nào cả hai cùng sống qua khỏi năm sinh nhật thứ 13 của đứa con trai. Thảm họa gia đình, ta có thể nói thế, nhưng mặt khác, một kẻ dìm chết đuối vẫn tốt hơn là hai.”

Charlie đã mất cha khi còn quá nhỏ nên không nhớ gì về cha. Nhưng bây giờ cha nó đã được tìm thấy, sẽ thật kinh khủng nếu như nó mất cha lần nữa, ở tuổi 12. Nỗi sợ bất giác khiến nó rùng mình, khi nghĩ giờ này ba mẹ đang ở ngoài biển khơi. Thậm chí nó còn nếm thấy vị muối trên môi.

Chiếc xe giật nảy lên dừng gấp lại vì Ông cậu Paton chợt nhận ra mình đã ở bên ngoài nhà số 9. Khi họ bước ra khỏi xe, màn sương bao kín lấy họ như một tấm màn băng giá. Billy bật ho và ôm bụm lấy ngực, nói lớt đớt. “Nó chui thẳng xuống cổ họng. Như là nuốt trúng len cotton vậy.”

Khi ba ông cháu leo lên những bậc cấp, tiếng chuông nhà thờ bị nghẹt xuyên qua không gian mù sương, Ông cậu Paton nói, “À, nó nhắc ta mới nhớ. Hôm nay là đám cưới của bà cô Venetia đó, Charlie.” Ông mở cửa trước ra.

“Một ngày khủng khiếp cho đám cưới,” Charlie bình luận khi bước vào trong nhà. “Xui phải biết, con nghĩ vậy.”

Ông cậu chùi chân vào tấm thảm chùi chân. “Ta không được mời, cũng tự nhiên thôi.”

Hai thằng bé mừng húm vì ngoại Maisie cũng không được mời. Chúng có thể ngồi xơi một bữa trà ngon lành mà không có bộ mặt chàu bạu của nội Bone lù lù bên kia bàn.

“Phải chi con thấy bà nội của con nhỉ,” ngoại Maisie nói. “Rốt cuộc bà ta quyết định đi đám cưới. Vẻ bất bình lộ ra đầy mặt, nhưng bà ta vẫn không thể bỏ lỡ sự kiện này. Bà ta diện màu tím từ đầu đến chân. Đúng, thậm chí đôi giày cũng tím với cái nơ to sụ bên trên. Còn nón thì ôi thôi! Gắn bao nhiêu là nho. Trông như một tô trái cây trộn.”

Hình ảnh gương mặt dài của nội Bone phía dưới những chùm nho màu tím làm Charlie bị hóc khoai tây chiên, cả bàn cười rộ lên, Ông cậu Paton cười to nhất.

Charlie định đi thăm Benjamin sau bữa trà, nhưng quang cảnh từ cửa sổ nhà bếp nhìn ra chẳng khích lệ chút nào. Những ngôi nhà phía bên kia đường chìm trong bóng tối và sương mù. Tất cả chỉ có thể nhìn thấy những đốm sáng bức bối từ những chiếc xe hơi chạy cực chậm trên đường.

Billy nuối tiếc nhìn ra cửa sổ. Nó ao ước được đi lấy con chuột cưng của mình nhưng không dám xin xỏ vào một đêm hiểm họa như thế này.

“Mai tụi mình sẽ đi lấy Rembrandt sớm,” Charlie hứa. “Tụi mình sẽ rủ Benjamin với Hạt Đậu đi cùng luôn.”

Đâu đó trong đêm, màn sương mù lờ đờ cuộn đi khỏi, nhường chỗ cho sương giá bao kín lấy thành phố và một vầng trăng tròn hiện ra tít trên trời. Từng mái nhà sáng lấp lánh như rắc bạc. Trong vùng đồng hoang bên kia sông, một sinh vật bị nhốt giữ bắt đầu tru lên thống thiết.

Sáng Chủ Nhật chào đón hai thằng nhỏ bằng ánh nắng rực rỡ và bầu trời xanh băng giá. Chúng tự làm bữa sáng cho mình – cốm bắp, bánh mì nướng và sữa – trước khi có ai thức dậy. Nhưng ngoại Maisie ráng cố xuống cầu thang trong bộ đồ ngủ màu hồng và những ống cuốn tóc ngay khi chúng vừa ăn xong.

“Nhớ về nhà vào giờ ăn trưa đấy kẻo không ta sẽ đi theo các con,” bà nói. “Đường Piminy ở ngay đằng sau nhà thờ lớn, gần tiệm sách cô Ingledew. Nếu các con muốn ghé ăn trưa ở tiệm sách thì phải gọi điện cho bà biết.”

“Tụi con không tới đó đâu,” Charlie ngượng nghịu nói.

Ngoại Maisie nghẹo đầu qua bên. “Con cãi nhau với một trong những bạn gái đấy à.”

“Con không có bạn gái,” Charlie nóng nảy. “Và con chẳng cãi nhau với ai cả.”

Trên đường ra cửa bọn con trai để ý thấy một cái mũ to tướng, màu sắc sặc sỡ đặt trên chiếc ghế trong hành lang. Trông nó đúng là tô trái cây trộn. Cái mũ khiến Billy bật cười khúc khích và Charlie lập tức cảm thấy nhẹ người đi.

Benjamin luôn sẵn sàng để đi thám hiểm, và Hạt Đậu ở sát cánh bên nó, vui mừng tí tởn khi sợi dây dắt chó được lấy xuống khỏi cái móc trong hành lang.

Ba mẹ Benjamin đang mải miết làm việc khi ba thằng bé rời nhà số 12. Là thám tử tư có nghĩa là ngày nghỉ cuối tuần cũng bận rộn y như ngày thường. Hôm nay cô chú không ra ngoài điều tra, mà ở trong nhà bếp để thiết kế một diện mạo cải trang tinh vi khác. Họ phải thường xuyên làm mới việc hóa trang của mình khi đang “theo dõi một đối tượng”, như cách nói của họ. Có nhiều khi đến cả Benjamin cũng không nhận ra ba mẹ mình. Những lúc như vậy, cô chú rất mãn nguyện, mặc dù Benjamin thì không.

“Mình ăn trưa ở nhà bồ nhé?” Benjamin hỏi khi chúng đi về phía nhà thờ lớn.

Charlie nhận ra cô chú Brown hay ỷ vào ngoại Maisie dọn cho con trai mình những bữa thịnh soạn vào cuối tuần. “Dĩ nhiên,” Charlie đáp.

“Billy lấy được Rembrandt xong, tụi mình có tới quán Cà Phê Thú Kiểng ăn quà không?” Benjamin háo hức hỏi.

“Không,” Charlie nói, hơi nhanh.

Benjamin khựng lại. “Sao vậy?”

“Có thể nói thế này, Emma và Olivia sẽ ở đó và tụi nó không hân hoan khi gặp mình.”

“Sao vậy?” Benjamin hỏi tiếp

Charlie kể cho nó nghe về Dagbert.

“Nhưng bạn bè phải làm lành với nhau chứ,” Benjamin kiên quyết. “Bồ có thể giải thích cho tụi nó rằng đó là một sự hiểu lầm khủng khiếp.”

“Không dễ vậy đâu,” Billy nói, trong khi Charlie dướn vượt lên trước. “Anh biết đấy, Dagbert đã làm tất cả tụi em điên tiết hết cả lên. Nó gọi em là đồ dị dạng.”

Hạt Đậu kéo Benjamin chạy theo Charlie. Benjamin thở hùng hục. “Mình nghĩ bồ nên xin lỗi.”

“Hừ, không đâu.” Charlie bước nhanh hơn nữa. “Chuyện thế là thế.”

Không đúng. Charlie rất muốn xin lỗi Emma và Olivia. Có điều nó không nghĩ ra cách làm điều đó như thế nào. Nó quên phéng là mình phải đi qua khúc cuối ngõ Nhà Thờ Lớn trên đường tới đường Piminy.

Tiệm sách cô Ingledew lọt thỏm trong ngõ Nhà Thờ Lớn, thuộc dãy nhà gỗ nơi bóng râm nhà thờ lớn đổ xuống. Charlie nhìn khắp con hẻm rải sỏi dẫn tới tiệm sách và quầy quả rẽ vào đường Piminy. Nó thắc mắc Olivia có ở trong tiệm sách với Emma hay không. Tụi nó đang làm gì? Giúp dì của Emma, cô Ingledew, không sai. Chắc là đang phân loại sách, quét bụi những bìa sách bọc da, chùi những gáy sách mạ vàng bao những trang sách mong manh. Hoặc tụi nó đang tưởng tượng một kế hoạch trừng phạt Charlie vì những lời mà nó không bao giờ nói?

Về mặt nào đó Charlie đã đoán đúng. Emma và Olivia đang ở trong tiệm sách thật, đang tưởng tượng một kế hoạch – chỉ có Olivia tưởng tượng thì đúng hơn. Nhưng kế hoạch đó chẳng liên quan gì đến Charlie. Mà liên quan tới một thử nghiệm.

Tài phép của Olivia vẫn còn bí mật đối với gia đình Bloor. Chỉ bạn bè cận kề nhất mới biết con nhỏ là người tạo ảo giác. Trong đám biết điều này, vài đứa, gồm Charlie, nghĩ việc con bé bị phát giác chỉ là vấn đề thời gian thôi, bởi vì Olivia là diễn viên. Nó ham vui, và nỗi mê thích dùng tài phép của mình để đùa chơi thỉnh thoảng lại chế ngự, điều khiển nó.

Chính sự ám ảnh về chim của Emma đã gợi cho Olivia nảy ra một ý tưởng vô cùng nguy hiểm. Emma có thể bay, nhưng trước tiên nó phải biến thành chim mới bay được. Nó hay vẽ chim, sưu tập lông chim, và mê mải ngắm hình những loài chim đã bị tuyệt chủng từ lâu. Buổi sáng hôm đó Emma chợt nảy ra trong óc về một loài chim mà nó chưa bao giờ nghe nói đến. Loài chim này ở trong một quyển sách xưa quý hiếm nhất của dì nó.

Emma cầm quyển sách vào phòng trong và để mở ra trên đầu gối. “Hãy tưởng tượng nào, Liv! Mình giống như con chim này, mỏ dài thật dài, chân to thật to, nhưng đôi cánh lại bé xíu đến nỗi không thể bay lên khỏi mặt đất.”

Olivia nằm thẳng cẳng trên chiếc ghế xô pha thoải mái của cô Ingledew. Nó đặt tay sau gáy và nhắm mắt lại. “Tớ hình dung được con chim thần đó rồi,” nó cười nụ. “Bây giờ tớ tạo con chim đó ra cho bồ thấy nhé, Em? Rồi bồ biến thành con chim đó. Thế là có hai con, và tụi mình sẽ để cho dì của bồ đoán, xem con chim nào là Emma, con nào là ảo ảnh?” Nó mở mắt ra, ngồi bật dậy, vỗ hai tay vào nhau. “Đúng. Tụi mình làm đi.”

Emma nhìn xoáy vào nhỏ bạn, nhíu mày lo lắng. “Tớ không nghĩ vậy đâu, Liv. Vậy không đúng.”

“Có gì mà không đúng? Đi, Em!”

“Tụi mình không nên... sử dụng tài phép làm vui.”

“Thì sao? Ai nói thế?”

“Đó là điều tụi mình ai cũng phải biết,” Emma cứng cỏi.

Olivia ngả ịch xuống trở lại đống gối nệm. “Hừ, tớ sẽ làm.”

“KHÔNG, Liv. Làm ơn đừng. Coi chừng bồ...”

Nhưng con chim thần đang thành hình kìa. Khi Olivia ngoái nhìn qua vai, một mảng lông sặc sỡ hiện ra trên không trung phía sau đầu nó. Emma bất lực nhìn đám lông bắt đầu vào đúng vị trí trong hình hài của một sinh vật đẹp mê hồn. Đôi cánh rộng, cái đuôi xòe ra duyên dáng, mắt đen như hạt huyền, và cái mỏ sắc màu cam.

Chưa hài lòng với hình dáng con chim, Olivia cho nó bật ra những tiếng cúc cu dài khi nó ép qua khung cửa che rèm vào trong tiệm.

Đúng lúc đó chuông tiệm sách rung kính coong, cửa mở ra và một phụ nữ cao to xuất hiện ở ngưỡng cửa.

Cô Ingledew đang dán tựa sách trên quầy chợt ngước lên, bối rối. Hai sự việc cùng xảy ra với cô một lúc. Một, đó là cô đã quên khóa cửa tiệm vào ngày Chủ Nhật và hai, một con chim quái lạ vừa sổng chuồng khỏi sở thú và tìm đường vô tiệm sách của cô. Tình huống thậm chí còn hoang mang hơn khi Emma chạy ù vào phòng, thét to. “Ối không!” Nghe vậy con chim biến phụt vào không khí.

“Á,” vị khách lạ lên tiếng. “Một ảo giác. Thú vị quá.”

Không nghi ngờ gì về vị khách không được chào đón kia. Nhìn mái tóc đen rức, lông mày cao hình cánh cung chắc hẳn Emma sẽ biết đó là bà cô Venetia của Charlie. Nhưng giờ mụ mới thay đổi làm sao! Không còn váy bẩn thỉu và áo khoác thùng thình như dạo gần đây nữa. Người phụ nữ này mặc veston màu hoa tử đinh hương rất lịch duyệt, cổ áo viền lông thú, với đôi giày bốt cũng viền lông thú ở cổ.

“Ta vừa mới lấy chồng,” người phụ nữ nói, đi xuống ba bậc thang vô trong tiệm. Giờ ta là bà Venetia Shellhorn. Ta chuẩn bị đi hưởng tuần trăng mật đây.”

“Vậy ư?” Cô Ingledew nói, không một mảy may tươi tỉnh lên.

“Đúng. Và ta muốn đưa...” bà cô Venetia ngoái nhìn ra sau vai. “Chúng đâu rồi?” mụ ta cấm cẳn.

Cửa mở ra, rất chậm.

“Các con của ta,” bà cô Venetia vẫy bàn tay đeo găng ra cửa.

Đứng ở bậc thang trên cùng là hai đứa trẻ ẻo lả, thương tâm nhất mà Emma từng thấy.