Charlie Bone 3: Charlie Bone Và Cậu Bé Vô Hình

Chương 13

SỢI DÂY NỊT KẾT HẠT HUYỀN

Đứa con gái tên là Belle Donner đã biến mất khỏi Học viện Bloor. Đối với hầu hết bọn trẻ, điều này quả là một cái thở phào nhẹ nhõm.

Nhưng Charlie biết, nó vẫn chưa gặp mụ Yolanda Yewbeam lần cuối cùng đâu. Nó được tin từ bà bếp trưởng là cuộc gặp gỡ giữa Ollie với con trăn đã thành công mỹ mãn. Tin này quả là tốt lành, nhưng Ollie cứ không ngừng hỏi về anh trai mình. Trong khi đó, không một ai biết chuyện gì đã xảy ra với Samuel Sparks.

Charlie đem vấn đề của Ollie ra bàn luận với Fidelio, thằng này đang cảm thấy mình bị gạt ra rìa trong mọi việc kể từ cái đêm đầy gió và linh hồn.

“Từ đây cho tới cuối tuần tụi mình không làm được gì nhiều đâu,” Fidelio nói. “Với lại ba anh đã đăng ký cho anh chơi đàn vỹ cầm trong đêm đám cưới ông anh họ anh rồi. Anh chịu thua, không giúp em được, Charlie. Mấy người kia hình như cũng đều bận bịu cả.”

Quả đúng vậy. Khi Tancred và Lysander nghe tin mừng về Ollie, bọn chúng cảm thấy như mình đã hoàn tất mọi phần việc cần đến chúng rồi.

Gabriel có rất nhiều bài tập dương cầm phải luyện tập cho kịp, còn Billy thì chắc chắn không thể mong chờ nó trợ giúp được rồi. Nó cứ thơ thẩn đi loanh quanh, ngầy ngật về cuộc hạnh ngộ với con trăn, và mong ngóng được đoàn tụ với con Rembrandt.

Nhưng chính Emma mới là đứa trở nên thê thảm nhất. Dorcas đã trói hai bàn tay nó bằng thứ dây mạnh mẽ khác thường, và kể từ đêm hôm đó, những ngón tay đã biến lẹ thành lông chim cứ đau nhức mãi. Đau đến nỗi mà Emma gần như không cầm viết nổi. Nhưng nó đã hứa là sẽ làm cho Olivia một sợi dây nịt vô cùng đặc biệt, và không gì thuyết phục được nó từ bỏ nhiệm vụ ấy.

Cô Marlowe, giáo viên khoa kịch, có ấn tượng tốt về diễn xuất của Olivia trong những buổi diễn tập, đến nỗi cô đã quyết định giao cho con bé đóng vai nàng công chúa chính. Và Emma, quá phấn khởi trước tin vui của Olivia, liền hứa sẽ làm cho đứa bạn nó bộ trang phục đẹp nhất từ trước tới nay.

Cái váy đầm dài đã hoàn tất và đang treo trên mắc ở phía sau lớp may trang phục. Nó được may bằng lụa đỏ, với những rẻo vải nối đen bóng. Ống tay áo dài và bó sát, với cổ tay áo bằng vải lưới đen óng ánh, và vạt váy được đính những khoen xê-quin đen nhỏ li ti. Tất cả mọi người đều trầm trồ chiếc đầm ấy, và Olivia cứ thường xuyên ghé thăm lớp của Emma chỉ để đứng nhìn mải mê bộ đồ xinh đẹp của mình. Giờ cái đầm chỉ cần có một sợi dây nịt.

Lúc này Emma đang tiến hành làm dây nịt, nhưng nó sợ rằng mình sẽ không bao giờ làm xong. Hôm nay nó mới đính được có hai hột cườm đen vào sợi dây, thế mà tất cả các khớp ngón tay của nó đã nhức nhối dữ dội rồi.

“Tôi có thể giúp bạn chút nào không?” Dorcas hỏi, nó đang ngồi đối diện với Emma bên một chiếc bàn làm việc lớn.

“Không, cám ơn, cứ để tôi ráng,” Emma nói.

Nó đính vô thêm giọt hạt huyền sáng bóng. Mỗi hạt huyền gắn vô một cái móc kẽm nhỏ xíu. Mỗi móc lại được may hẳn lên sợi dây nịt, để cho từng hạt huyền đều chuyển động độc lập được, loé sáng và lấp lánh khi ánh đèn sân khấu chiếu lên. Kết quả thật ngoạn mục: một sợi dây nịt kết hạt huyền.

Emma giơ tay lên:

“Thưa cô, em đi uống nước được không ạ?” Nó hỏi cô Singerlee, giáo viên lớp thiết kế trang phục.

“Ừ. Em bị sao vậy, Emma?” Cô Singerlee lo lắng. Emma trông thậm chí còn nhợt nhạt hơn thường ngày và công việc của nó tiến triển rất chậm.

“Em không sao, chỉ khát nước thôi,” Emma nói.

Nó rời lớp học và bắt đầu một đoạn đường xa tới phòng để áo khoác. Khi uống nước xong, nó dựa người vô dãy bồn rửa mặt và xoa bóp ngón tay. Liệu mình có bao giờ bay được nữa không, nó tự hỏi.

Emma không biết nó đã rời lớp học trong bao lâu, nhưng khi quay trở lại, nó đã thấy ai đó đã đính hết cả một hàng hột cườm vô sợi dây nịt rồi.

“Tôi nghĩ bạn cần có người giúp,” Dorcas nói.

“Cám ơn.”

Emma không biết phải nghi ngờ hay biết ơn. Dorcas trở nên thân thiện khác thường kể từ khi Belle đi khỏi.

Chuông reng, Emma cẩn thận gấp sợi dây nịt lại và cất vô giỏ xách. Nó sẽ còn phải làm tiếp cho xong vào cuối tuần, cho nên nó gói nắm hột cườm vô chiếc khăn tay và thảy chúng vô trong giỏ xách chung với sợi dây nịt.

Hôm đó là thứ Sáu, và Emma ao ước mong ngóng được về để ngủ một giấc thật lâu trong căn phòng thoải mái của nó ở phía trên tiệm sách.

Charlie không thể chờ nổi để gặp Ollie. Thật ra tất cả những người đã góp phần vô việc giải cứu Ollie đều nôn nao muốn gặp thằng bé. Thậm chí cả Tancred và Lysander cũng sẵn sàng liều mạng với dơi và nhện (nếu chúng xuất hiện) để tận mắt nhìn thằng bé vô hình nay đã trở thành hữu hình.

“Con dơi già ấy chắc chắn đã bay tới tận Transylvania rồi,” Gabriel nói khi chúng chạy ra xe buýt trường.

“Đừng có chủ quan như thế,” Charlie lẩm bẩm.

Có một điều ngạc nhiên đang chờ Charlie ở nhà. Ngoại Maisie đã trở về. Bà đang dùng bữa trà với Ông cậu Paton thì Charlie bước vô.

Sau bao nhiêu là cái ôm và nước mắt (về phía ngoại Maisie), bà ngoại yêu quý của Charlie ấn nó ngồi xuống, và nó xơi một dĩa cá với khoai tây chiên trong khi bà kể cho nó nghe một điều rất thú vị.

“Nghe đi, Charlie,” Ông cậu nói nghiêm trang. “Việc này có lẽ sẽ giải thích được vài điều.”

“Dạ. Nói đi ngoại Maisie,” Charlie nói.

Ngoại Maisie kéo ghế của mình lại gần nó.

“Thế này, Charlie, con biết đấy, ta vừa mới ở chỗ chị Doris của ta về.”

“Bà ấy có đỡ bệnh không ạ,” Charlie hỏi.

“Khoẻ hơn nhiều rồi, cảm ơn con, Charlie. Bà ấy già hơn ta và biết nhiều về gia đình hơn ta. Ta không hiểu tại sao bà ấy lại đợi cho đến khi kề cận cửa thần chết mới nói cho ta biết điều này, nhưng…”

Đúng lúc đó, mẹ Charlie bước vô và một quy trình ôm ấp dài khác lại diễn ra.

“Hãy kiên nhẫn, Charlie,” Ông cậu Platon nói. “Đáng phải đợi lắm.”

Không phải đợi đến khi mẹ Charlie đã yên vị với dĩa cá và khoai tây chiên của mình thì ngoại Maisie mới thấy thích hợp để kể tiếp câu chuyện của mình.

“Ngoại đang nói tới đâu rồi nhỉ?” Bà hỏi.

“Chị của bà lúc đang kề cận cửa thần chết,” Charlie nhắc.

“À phải. Bất thình lình bà ấy bảo. ‘Maisie à, nếu tôi chết thì hãy cứu lấy những giấy tờ ở trên bàn giấy của tôi. Đừng để họ đốt chúng đi.’ ‘Đương nhiên là tôi sẽ không để như thế,’ ngoại vừa đáp vừa vỗ vỗ bàn tay trắng tội nghiệp của bà ấy. Thế rồi bà ấy khăng khăng đòi ngoại lấy giấy tờ ra, và bà ấy bắt đầu phân loại chúng ngay tại chỗ. Thiệt là bừa bộn! Bà ấy đã tích trữ đống giấy vô dụng đó suốt bao nhiêu năm. Hầu hết chúng nằm vương vãi dưới sàn nhà gần giường của bà ấy, và khi ngoại lượm một túi giấy cũ lên thì thấy rớt ra cuộn giấy cũ này.”

Ngoại Maisie ngừng lại và nhìn Charlie đăm đăm.

“Đó là gia phả, Charlie à, và con đoán được nó ghi cái gì không?

“Không ạ,” Charlie nói.

“Ừm, ở trên ngọn cây gia phả, là một người có cái tên lạ, rất khó phát âm. Khi ngoại hỏi chị của ngoại về cái tên ấy, bà bảo. ‘Ồ, ông ấy đấy. Ông là một thầy pháp, theo như mọi người nói. Một thầy pháp xứ Wales. Chính vì vậy mà ông có cái tên rất lạ.”

“Một thầy pháp?” Charlie nói, nhổm người lên. “Bà có chắc không?”

“Chắc chứ!” Ngoại Maisie nói, sáng rỡ lên. “Vậy, rốt cuộc dòng họ Jones không hề là vớ vẩn chút nào. Chúng ta cũng đặc biệt không kém gì dòng họ Yewbeam. Thế đấy!”

Mẹ Charlie trầm tư khuấy tách trà của mình:

“Nhưng như vậy là Charlie được thừa hưởng ở cả hai dòng họ,” cô nói. “Sức mạnh… hay phép thuật… hay bất cứ cái gì đó.”

“Chính xác,” Ông cậu Paton nói, khoái chí đập bàn đánh rầm. “Mày biết đấy, Charlie. Cây gậy phép đúng là thuộc về mày, chính vì thế mà nó chỉ hiệu nghiệm với mày thôi, không với ai khác. Chắc chắn ông thầy phù thủy già đầy mưu mô đã đánh cắp nó từ tổ tiên của mày. Ta đã tra cứu ngày tháng. Skarpo trẻ hơn nhiều… cho nên hắn có thể là đệ tử tập sự của thầy pháp đó… Có lẽ hắn đã ăn cắp cây gậy phép khi ông thầy già qua đời.”

“Có lẽ chính vì vậy mà lần này Skarpo đã không cố lừa phỉnh con, nhờ cây gậy phép và mối liên hệ của con với ông thầy pháp kia.”

“Cũng có thể do hắn lo ngại không biết con làm được gì với cây gậy phép ấy,” Ông cậu Paton nói.

Charlie cào cào mớ tóc hàng rào của nó.

“Chà!” Nó lẩm bẩm. “Chà! Vậy là con được ban phép thuật gấp đôi.”

Nó không còn chắc được cảm giác của mình nữa, nhưng chắc chắn là rất sửng sốt.

“Ông cậu nghĩ nội Bone có biết chuyện này không?” Nó hỏi.

“Có lẽ bà ấy đã đoán ra,” Ông cậu Paton nói. “Đừng quên tài tiên tri của bà Eustacia. Có lẽ bà ta đã có điềm báo.”

Charlie nhìn trân trân vô món cá và khoai tây chiên.

“Mọi người không nói về vụ này một thời gian có được không ạ?” Nó nói. “Con muốn nghĩ thêm về nó.”

“Dĩ nhiên, con,” ngoại Maisie nói. “Có lẽ hơi sốc một chút, đúng không? Nhưng ngoại đưa cho con tờ gia phả này để con coi. Dù gì thì con cũng là nhánh cuối cùng của dòng họ Jones.”

Charlie cầm cuộn giấy da dê nhăn nheo lên phòng ngủ của nó. Mất một lúc lâu, nó nhìn trừng trừng vô những cái tên lạ, những ngày tháng năm sinh, những cặp vợ chồng, tự hỏi ai trong số những tổ tiên đó có phép thuật. Họ có sử dụng cây gậy phép không? Và nếu có, thì họ dùng để làm gì?

Nó vừa trải qua một tuần lễ bận rộn, ít ra là thế. Và giờ thì nó nằm xuống, nhắm mắt lại. Ngay bây giờ mà phải nghĩ thêm nữa thì là quá nhiều.

Vào sáng thứ Bảy, cô Julia Ingledew đang định mở cửa tiệm, thì mắt cô chợt dừng lại ở một sợi dây nịt kết cườm tuyệt đẹp. Nó đang nằm trên bàn, ngay chỗ Emma đã bỏ lại hồi đêm hôm trước.

Cô Julia Ingledew không phải là một phụ nữ tự cao, nhưng cô có một vòng eo cực nhỏ, và ai có thể trách khi cô tự hào về nó nào? Cô cầm sợi dây nịt lên. Những viên đá màu đen lấp lánh. Nó là cho con nít, nhưng nếu cô đeo thử thì sẽ ra sao nhỉ? Chắc là nó sẽ vừa vặn với cô.

Cô Julia ướm sợi dây nịt quanh vòng eo của mình. Nó hơi chật nhưng… cô hóp bụng vô… rồi vừa rồi. Cô gài móc khoá lại và ra đứng trước gương soi. Sợi dây nịt trông thật tiệp với chiếc đầm xanh ngọc bích cô đang mặc. Cô Julie xoay nhẹ người và những viên đá chói loà kêu lóc xóc một cách huyền bí.

“Ôôô!” Cô ồ lên. Chưa bao giờ cô thấy mình xinh đẹp hơn thế.

Cô hít một hơi thật sâu nữa… vì sợi dây nịt rất chặt… nhưng hình như cô không thể hít đủ không khí vô phổi. Cô ho rũ người. Đầu cô tưởng như bị ép chặt trong một cái bàn kẹp. Cảm giác đó chạy khắp xương sống, và cô Julia lảo đảo vì đau đớn. Cô cố tháo sợi dây nịt ra, nhưng móc khoá không thể mở ra được. Tim cô Julia bắt đầu đập loạn xạ.

“Emma,” cô rên rỉ. “Emma, giúp dì với.”

Charlie đang ăn sáng thì chuông cửa reng. Chuông cứ kêu mãi, kêu liên hồi. Ai đó đã đè cả nắm đấm lên nút chuông, hoặc là nó bị kẹt rồi.

“Từ từ!” Charlie gọi với ra, vẫn đang nhai bánh mì nướng. “Ra ngay đây.”

“Cứu! Cứu! Cứu với!” Một giọng thét lên.

Charlie mở cửa ra và Emma suýt nữa thì té nhào vô hành lang.

“Ối, Charlie!” Con bé la lên. “Có chuyện rất khủng khiếp xảy ra cho dì mình.”

“Khủng khiếp thế nào?” Charlie nói, quệt miệng.

Chiếu nghỉ phía trên nó lập tức đầy kín bà nội, bà ngoại, cả hai bà cùng hét to:

“Có chuyện gì xảy ra vậy? ”

“Ai làm sao?”

“Gì mà ồn ào vậy?”

“Bồ có muốn uống chút nước không?” Charlie hỏi Emma. Hình như nó chưa thấy tình huống khẩn cấp cho lắm.

“Không,” Emma rên lên. “Mình muốn ai đó tới ngay bây giờ. Mình muốn ai đó giúp với. Mình đã chạy tới phòng khám của bác sĩ, nhưng mình không biết phải nói gì, và chắc họ không coi đây là một vụ nghiêm trọng.”

“Có chuyện gì thế?” Giọng Ông cậu Paton.

“Ôi, ông Yewbeam. Dì của con,” Emma thét lên. “Con nghĩ dì ấy sắp chết.”

“Cái gì? ”

Với bốn bước nhảy, ông cậu Paton đã xuống hết cầu thang.

“Đi nào,” Ông cậu nói.

“Ồ, cám ơn!” Emma lao bắn ra ngoài cửa.

Khi con bé xuống đến vỉa hè thì Ông cậu đã đi phăm phăm trước nó một quãng rồi.

Charlie đứng nhìn theo và lắc đầu. Mọi việc diễn ra quá nhanh đối với nó. Nhưng nó không quá bàng hoàng để đến nỗi không nhận thấy nụ cười ác nghiệt trên gương mặt nội Bone ngay trước khi nội quay trở vô phòng mình.

“Con đi tới tiệm sách đây,” nó bảo ngoại Maisie.

“Tốt lắm,” ngoại Maisie đáp.

Charlie phóng lên lầu và chộp lấy cây gậy phép dưới gầm giường. Nó không biết tại sao đột nhiên cây gập phép lại có vẻ quan trọng đến như vậy, nhưng kể từ khi nó biết được lịch sử của cây gậy phép này, nó cảm thấy rằng, có lẽ cây gậy sẽ đóng một vai trò nào đó trong tình huống tuyệt vọng này.

Khi nó ra tới bậc cấp cửa trước thì Ông cậu Paton và Emma đã biến mất. Charlie lao vù trên đường Filbert, dọc theo đường chính, cho tới khi nó va phải ba con chó chồn. Chủ nhân của ba con chó giận dữ quát:

“Coi chừng cây gậy kìa!”

Cánh cửa tiệm sách vẫn để mở, bị gió đập sầm sầm. Charlie gài chốt lại cẩn thận sau lưng, và nhớ treo thêm tấm biển ĐÓNG CỬA lên.

Nó gặp Ông cậu Paton trong phòng cô Ingledew, và đang làm hô hấp nhân tạo cho cô. Bối rối khi trông thấy Ông cậu nó đang làm… cái việc ông đang làm, Charlie nhìn lên trần nhà.

“Làm ơn đừng để dì chết!” Emma khóc. “Ôi, làm ơn.”

Charlie tiến lại gần. Cô Ingledew đang nằm trên ghế trường kỷ. Mặt cô tái xanh, mắt mở trợn trừng, miệng cô ngáp ngáp như con cá.

Việc hô hấp nhân tạo của Ông cậu Paton rõ ràng là không có tác dụng, và giờ ông dùng đến chiêu ấn hai bàn tay thật mạnh vô ức cô Ingledew.

“Tháo sợi dây nịt đó ra, Emma!” Ông cậu nói.

“Con không làm được!” Emma kêu lên. “Con đã thử rồi.”

“Cái gì?”

Ông cậu Paton kéo cái móc khoá và một tia lửa xanh da trời xẹt ngang qua những ngón tay ông.

“Úi! Cái quỷ gì thế này?”

Ông lôi cái móc khoá một lần nữa, kết quả vẫn vậy. Ông chụp lấy sợi dây nịt bằng cả hai tay và cố dứt nó ra.

“Không được,” ông làu bàu. “Cái này làm bằng gì vậy? Chúng ta cần một con dao… loại dao cắt dây điện… Loại có thể cắt xuyên qua thép.”

“Vô ích thôi,” Emma nói bằng giọng lạc đi, sợ hãi. “Con nghĩ nó bị ếm bùa rồi. Con đã để nó lại để đi uống nước. Tất cả là lỗi ở con.”

Ông cậu Paton nhìn Emma trừng trừng, vẻ kinh hoàng.

“Đây là cách chúng trừng phạt người ta,” ông gằn giọng. “Nếu Julia…”

Những lời tiếp theo, ông nghẹn lại. Và rồi, ông quỳ xuống, cầm lấy bàn tay lạnh tím của cô Ingledew, đặt nó lên miệng.

“Ôi, em yêu,” ông thở dài. “Ta xin lỗi.”

Charlie nhìn chết trân. Nó sững sờ khi thấy Ông cậu rơi vô tình trạng tuyệt vọng như vậy. Chỉ thế thôi mà Ông cậu chịu bỏ cuộc sao? Hay cô Ingledew chết rồi? Nó không thể tin nổi.

Nó cảm thấy cái gì đó đang động đậy trong bàn tay phải của nó và những ngón tay nó tê lên âm ấm. Charlie nhìn vô cây gậy phép. Tại sao nó lại mang cây gậy phép tới đây, nếu không phải để sử dụng?

“Con nghĩ con có thể giúp,” nó nói.

Ông cậu Paton nhìn nó.

“Mày à, Charlie?”

“Dạ phải,” Charlie nói tự tin.

Nó bước lại gần cơ thể xuội lơ của cô Ingledew và chạm đầu cây gậy phép vô sợi dây nịt kết đá. Một luồng sáng nhá lên. Trong một giây, toàn bộ sợi dây nịt cháy lắc rắc như một cây pháo bông.

“Nó cháy kìa!” Emma thét lên.

“Không phải,” Charlie nói rành rọt. “Torri!” Nó ra lệnh.

Đầu bịt bạc của cây gậy bùng lên như một ngọn lửa, và sợi dây nịt bay vọt đi, vút thành một cơn mưa bụi sáng, băng vèo qua căn phòng.

“Trời ơi, Charlie!” Ông cậu Paton nói với giọng khiếp đảm. “Làm sao mày biết phải nói cái gì?”

Charlie không thể trả lời Ông cậu. Có lẽ cái từ đó đã nằm chờ trong đầu nó suốt bao nhiêu năm, chưa bao giờ có dịp vọt ra, cho tới bây giờ.

Một phút sau, cô Ingledew thở hắt ra một hơi thật dài và ngồi dậy.

“Lạy Chúa,” cô nói. “Hình như tôi vừa mới xỉu hay sao đó?”

“Ôi dì. Con tưởng dì chết rồi chứ!” Emma bật khóc. Nó vòng cánh tay ôm chặt lấy cổ cô Ingledew.

“Chết!” Cô Ingledew nói, coi bộ hoang mang.

“Ôi em yêu, Julia yêu dấu. Tôi không thể nói với em…”

Không thể nói được điều mình muốn nói, Ông cậu Paton đành hỉ mũi ầm ĩ.

“Paton, anh cứu em đó à?” Cô Ingledew hỏi.

“Ồ không. Charlie đã cứu em đó.”

Cô Ingledew nhìn cây gậy phép đang nằm trên đùi.

“Thật à? Việc tệ đến thế sao? Cám ơn, Charlie.”

“Không có chi ạ,” Charlie nói, lấy lại cây gậy phép. “Không phải chỉ mình cháu. Mà là… chúng cháu. Cháu và cây gậy phép.”

“À ra vậy. Cảm ơn cả hai nhé.” Cô Ingledew mỉm với Charlie một nụ cười tuyệt vời.

“Em thấy khỏe hơn rồi chưa, Julia?” Ông cậu Paton vừa nói vừa đứng lên.

“Rồi,” cô Julia vui mừng nói. “Em xin lỗi đã gây ra rắc rối này.”

“Đừng lo, Julia,” Ông cậu Paton nói rõ. “Không có gì phiền hết. Nhưng nếu em đã khoẻ rồi thì tôi đi thôi. Có việc phải làm.”

Ông sải bước ra cửa nói:

“Chăm sóc dì con nhé, Emma. Tôi sẽ trở lại sau.”

Charlie phóng theo Ông cậu, ông đã đi hết nửa đường Phố Nhà Thờ.

“Ông cậu đi đâu vậy?” Charlie gọi.

“Mày biết rõ mà!” Ông cậu Paton la lớn.

Charlie biết thật. Giữa thanh thiên bạch nhật, nhưng Ông cậu Paton chẳng thèm để ý gì. Không hề cẩn thận trước những cửa sổ bày hàng hay những đèn sau xe ô-tô, đôi chân dài đưa ông đi qua thành phố như một cơn lốc gió đen. Có một tai nạn nhỏ ở chỗ đèn giao thông, nhưng hên là chỉ có một bóng đèn trang trí bị nứt bể, và trước khi ai đó kịp nghĩ xem cái gì đã gây ra điều đó, thì Ông cậu Paton đã khuất một đoạn xa rồi.

Charlie thoáng thấy Ông cậu quẹo vô Vòng Cung Ụ Xám, nhưng nhoáng một cái, ông đã biến mất. Phải tới tận Ngách Tối nó mới thấy lại ông, và ở đó, Ông cậu đứng bên ngoài cánh cửa nhà số 13 thứ ba. Không gõ cửa hay nhấn chuông. Thay vào đó, ông giơ bàn chân lên và đạp. Cánh cửa gỗ cũ nứt toác ra, kêu rắc rắc. Ông cậu Paton lại đạp nữa và cả cánh cửa đổ ập vô trong.

Charlie phóng vèo lên những bậc cấp và lướt qua ngưỡng cửa để mở. Ông cậu đang đi xuống cầu thang phía sau nhà. Charlie chạy theo, xuống những bậc thang, băng qua một hành lang hẹp và vô phòng may của bà cô Venetia.

Mụ Yolanda đang ngồi sau một chiếc máy may ở phía bên kia chiếc bàn lớn, chất la liệt những khúc vải màu và những phụ liệu. Có một tấm vải dài màu xanh lá cây đang nằm dưới mũi kim may.

“Paton, cuối cùng chúng ta cũng gặp lại nhau,” mụ già nói. “Ta hy vọng ngươi tới để van xin.”

Ông cậu Paton trừng mắt nhìn mụ ta, gần như không tin nổi.

“Mụ hy vọng à?” Ông cậu nói.

“Dĩ nhiên. Sau vụ từ trần đáng buồn của bạn gái ngươi. Cô ta chết rồi chứ, ta chắc chắn thế? Ngươi không có duyên may với phụ nữ nhỉ, phải không Paton? Trước tiên là mẹ ngươi, và bây giờ là bạn gái ngươi. Tốt hơn ngươi hãy làm việc cho bọn ta đi, ngươi biết đấy.”

“CÁI GÌ?” Ông cậu Paton gầm vang.

“Ngươi nghe ta nói rồi đó, cả cái thằng nhãi ranh đang đứng núp bóng ngươi nữa.”

Charlie nắm chặt cây gậy phép. Nó tự hỏi khi nào thì nó sẽ cần phải sử dụng cây gậy phép, nhưng rốt cuộc lại không cần phải dùng đến. Nó nhìn ra chỗ mà tia nhìn giận dữ điên cuồng của Ông cậu Paton đang hướng tới, và thấy ngay trong chớp mắt, cái mà mụ Yolanda chưa kịp nhận ra tiếp theo.

Một vẻ sửng sốt kinh hoàng hiện lên trên gương mặt của người đàn bà già khú, khi mụ nhấc hai bàn tay khỏi chiếc máy may… Quá trễ.

Ngọn đèn bên trên bàn máy may nổ tung, và nguyên bộ máy may bùng sáng, trắng xoá và toả hơi nóng. Thét lên khiếp đảm, mụ già bị điện giật ở sau máy may bay thẳng lên không. Mụ quay tít như con bông vụ, và một chuỗi sinh vật giống như hồn ma đổ tràn ra khỏi người mụ. Chúng bay dật dờ trên trần nhà – dơi, chim, nhện, chó, mèo, cá, quái vật… và cả Belle xinh đẹp, quơ quào hai cánh tay dài nghều ngào – và biến mất.

“Có chuyện gì vậy?”

Mọt giọng thét ầm, và bà cô Venetia xộc bắn vô phòng. Bà ta nhìn trối chết vô chiếc máy may đang cháy, cái bàn bị bén lửa, vải vóc cháy sém.

“Mày vừa làm gì vậy?” Bà ta quát Ông cậu Paton. “Bà cô của ta đâu?”

“Chứ bà nghĩ mụ ta đang ở đâu?” Ông cậu hỏi lại.

“Làm sao mà mày…?” Bà ta thét lên, chạy ra xa khỏi Ông cậu. “Sao mày dám? Đồ bạo tàn, quỷ sứ, ác độc. Đồ… đồ ngu!”

“Đáng lý ra ta phải làm điều này từ lâu lắm rồi.”

Ông cậu Paton nói, quệt hai tay làm điệu bộ như đang chùi sạch một vết nhơ tưởng tượng nào đó.

Lúc này, một vệt lửa nhỏ đang liếm vô những thứ quần áo ở trên bàn. Lửa bắt vô những tấm rèm nhung, và căn phòng tràn ngập mùi đồ vật cháy, khủng khiếp, cay xè.

“Đi nào, Charlie. Ra khỏi đây,” Ông cậu Paton nói.

Họ phóng ào lên cầu thang và bươn ra ngoài trời thoáng đãng. Hai người ho sặc sụa vì khói. Liền ngay đó, bà cô Venetia bổ ra theo.

Xe cứu hoả phải vất vả lắm mới chui được vô Ngách Tối, nhưng cuối cùng họ cũng xoay sở được. Lúc đó thì nhà số 13 đã cháy dở hai tầng lầu. Một đám đông tụ tập lại coi cảnh tượng kinh hoàng. Người ta chỉ trỏ và bàn tán về sự cố chập điện và gỗ mục. Không ai ngạc nhiên khi thấy ngôi nhà cũ bốc cháy.

Bốn chị em nhà Yewbeam đứng tách xa ra, nhìn mọi việc trong im lặng ảm đạm. Họ thậm chí không thèm ngó tới mặt của ông em trai.

Khi những người lính cứu hoả sắp sửa kiểm soát được ngọn lửa, thì có người phát hiện ra một người đàn ông đang đứng ở cửa sổ lầu trên cùng. Một cái thang nhỏ được nâng lên, và giữa những tiếng reo hò “Giỏi lắm!” “Ổn thôi!” “Anh ta còn sống!”, khung cửa sổ gãy sụp xuống và kẻ sống sót bước ra cái thang. Đó là thầy Boldova.

Những bà cô nhà Yewbeam giải thích với xung quanh rằng người này vẫn làm cố vấn cho họ về thiết kế trang phục.

“Anh ta là hoạ sĩ mà,” bà cô Eustacia nói.

Thầy Boldova được cứu sống kịp thời. Vài phút sau khi thầy được cứu, mái nhà của bà cô Venetia bốc cháy, những bức tường ở lầu trên cùng rớt xuống. Trong tích tắc, những người đang há hốc miệng chứng kiến hình thù của một chiếc dương cầm lớn đen, đậu chót vót trên điểm cao nhất của toà nhà đang cháy. Và rồi, khối nhạc cụ ấy rớt lộn nhào, những phím đàn cháy sém tạo nên một chuỗi âm thanh rợn người khi nó đâm nhào xuống những bậc thang tầng hầm.

“Tôi nhớ rồi,” thầy Boldova nói. “Có ai đó đang chơi đàn dương cầm.”

Nhưng không còn ai sót lại trong toà nhà cháy rụi đó. Những người lính cứu hoả đoan chắc điều đó. Vì vậy, bất cứ ai đang chơi cây đàn khuất dạng đó hẳn đã thoát ra được khỏi ngôi nhà trước khi quá trễ.

“Lạ thật,” thầy Boldova nói. “Tôi chưa bao giờ trông thấy người nghệ sĩ dương cầm, chỉ nghe những điệu nhạc. Thế thôi, những giai điệu mê hồn.”

Charlie nghĩ về ba nó. Có lẽ nào ông bị nhốt ở đó, trong gác mái nhà bà cô Venetia, với chỉ một cây đàn dương cầm? Nếu thế thì bây giờ ông đang ở đâu?

Ông cậu Paton vỗ vai Charlie.

“Mày có điều gì muốn nói với Quý ông này, đúng không Charlie?”

“Con hả?” Charlie mơ màng. “Dạ phải. Đúng rồi.” Và nó kể cho thầy Boldova về Ollie.

“Đây là tin tốt lành nhất tôi từng nghe trong cuộc đời mình,” thầy dạy vẽ nói. “Cậu đưa tôi đến gặp nó được không? Ngay bây giờ? Và cậu vui lòng gọi tôi là Samuel được không? Hãy bỏ phần đời mang tên Boldova của tôi lại phía sau.”

“Dạ được, thưa thầy Sparks,” Charlie nói. “Ollie đang ở không xa đây. Ông cậu của con…”

Nó nhìn quanh, nhưng Ông cậu Paton đã đi mất. Charlie đoán là ông đã quay trở lại tiệm sách cô Ingledew.

Vào Chủ nhật, bảy đứa trẻ cùng với bầu đoàn thú cưng của chúng gặp nhau ở quán Cà Phê Thú Kiểng. Tất cả bọn đều muốn gặp cậu bé vô hình. Mặc đồ mới, tắm rửa sạch sẽ, cắt tóc gọn gàng, trông Ollie hoàn toàn bình thường. Bọn trẻ hình như hơi thất vọng. Nhưng nỗi thất vọng không kéo dài lâu.

“Tôi muốn tất cả các bạn tới chơi Lâu Đài Lấp Lánh,” Ollie nói. “Anh Samuel bảo kỳ nghỉ giữa học kỳ sắp tới rồi, vì vậy các bạn có thể đi một tuần. Lâu lắm rồi tôi không có bạn tới chơi, và nếu không có tất cả các bạn thì tôi đã không có mặt ở đây.”

Ai còn màng đến học lời thoại, tập hoà âm hay vẽ phông nền nữa, khi mà cả một tuần lễ sẽ được trôi qua trong một toà lâu đài.

“Nó không hẳn là một lâu đài,” Ollie nói. “Nhưng có rất nhiều phòng. Và có cả núi, cả suối, cả rừng, và cả cánh đồng nữa.”

Nghe sao mà hấp dẫn quá.

Lời ước của Charlie đã được thực hiện. Ông cậu Paton thuê một chiếc xe tải nhỏ. Ông cậu sẽ không mua một chiếc như thế đâu, ông nói, bởi vì nó không hợp với gu của Ông cậu. Nhưng để chở tám đứa trẻ và một thầy giáo dạy vẽ, một cô bán sách, và một con chó… thì đúng là rất cần đến xe tải.

Tất cả mọi người hẹn gặp nhau ở tiệm sách vào thứ Bảy sau đó. Sau khi trời tối, Ông cậu Paton xuất hiện trong chiếc xe tải dài màu bạc. Hành lý và những túi ngủ được gói ghém gọn gàng sau xe, bánh mì và nước uống được tống dưới gầm ghế và tất cả mọi người dồn vô trong xe.

Cô Ingledew ngồi cạnh Ông cậu Paton ở đằng trước. Charlie và Fidelio ngồi với anh em nhà Sparks ở hàng ghế kế tiếp, với Hạt Đậu nằm vắt ngang qua đầu gối họ. Năm đứa còn lại chen chúc nhau ở đằng sau.

Khi họ rời khỏi thành phố lấp lánh ánh đèn phía sau và đi vô những con lộ nhỏ tối, Ollie nói:

“Còn cậu bé kia đâu rồi? Cậu bé làm cho con trăn thay đổi ấy?”

Charlie cảm thấy tội nghiệp Billy.

“Họ không cho nó rời khỏi Học viện,” Charlie nói. “Nhưng một ngày nào đó tụi mình sẽ đưa nó ra. Mọi người biết đấy, Billy có khi còn dũng cảm hơn bất cứ ai trong chúng ta.”

Có tiếng râm ran đồng ý từ mấy đứa kia, nhưng trước khi tâm trạng cả bọn trở nên quá uỷ mị, Gabriel bảo:

“Thật ra ngay lúc này Billy rất vui. Anh đã ráng mang Rembrandt vô khu nhà bếp. Anh bảo đảm là chúng đang vui vẻ với nhau. À mà này, May Phúc đã có đuôi trở lại rồi. Bà bếp trưởng đã đem nó tới gặp con trăn.”

Thầy Samuel Sparks nói thầy rất vui khi biết Rembrandt đã có người để chuyện trò. Trước kia thầy không bao giờ biết chắc là con chuột đó có hạnh phúc hay không.

“Thầy nghĩ là nó không thích những cái này,” thầy Samuel nói.

Rồi thầy lôi hai viên sỏi ra khỏi túi và để cho chúng loé sáng trong lòng bàn tay mình.

“Thú vật không thích phép thuật,” Gabriel nói.

Lập tức, con Hạt Đậu nhỏm đứng lên đầu gối Charlie và tru lên một tràng dài.

“Mày đồng ý hả?” Gabriel nói, và tất cả mọi người cùng cười.

Đó là một cuộc hành trình dài, và bao nhiêu lần Charlie ngủ thiếp đi. Nó choàng tỉnh dậy mỗi khi Hạt Đậu liếm mặt nó hoặc thay đổi tư thế. Nhưng lần cuối cùng Charlie thức giấc, chiếc xe nảy một cái thật mạnh và dừng lại. Họ đến một ngã ba đường. Và nhìn qua cửa sổ, Charlie thấy một bảng chỉ đường. Có hai cái tên ở trên cùng. Mũi tên bên trái đề ĐÁ LẤP LÁNH và mũi tên bên phải đề ĐƯỜNG YOR.

“Đường Yor?” Charlie nói gà gật. “Nghĩa là gì?”

“Là con đường dẫn tới Lâu Đài Yewbeam,” Ông cậu Paton nói nghiêm trang.

Charlie cảm thấy cái gì đó sợ hãi, ớn lạnh chạy dọc theo sống lưng. Yorath đã nói gì với Ông cậu? “Nếu mày làm hại con gái yêu của ta thì mày phải trả giá bằng mạng sống của mày.” Và Ông cậu Paton đã làm hại mụ Yolanda. Vậy lão Yorath sẽ làm gì? Tốt hơn không nghĩ đến chuyện đó vội, Charlie quyết định.

Cô Ingledew đặt một bàn tay mình lên những ngón tay rắn chắc của Ông cậu Paton, và ông quay qua cô, mỉm cười.

“Đó là con đường chúng ta sẽ không tới,” Ông cậu nói.

Chiếc xe tròng trành tiến lên trước và đi theo mũi tên tới Đá Lấp Lánh. Con đường trở nên dốc và ngoằn ngoèo, nhưng họ chỉ phải đi thêm một chút, Ollie đã thét lên:

“Kia rồi! Chúng ta đã về nhà!”

Và đúng là nó, sừng sững ngay trên đồi dốc đứng trước mặt: lâu đài Lấp Lánh. Và nó sáng lấp lánh thật. Trong mỗi cửa sổ của ngôi nhà lạ kỳ, nhấp nhô đầy những tháp nhỏ ấy đều có một dãy đèn loé sáng, nhấp nháy.

Một cậu bé bị mất tích đang về nhà, và người cha đã tìm lại được tài phát sáng đá của mình.