Chai thời gian

Chương 29-30

Docsach24.com

hi ra khỏi nhà Jom, tôi phân vân một lúc lâu, cố gắng nghĩ xem nên đi đâu và gặp ai nhưng không thể nghĩ ra.

Tôi quyết định gọi điện tới văn phòng của bố nhưng người nhấc máy cho tôi biết ông đang lên miền ngược thăm họ hàng, tôi đoán là của Waeo, vì những người thân duy nhất còn sống của ông là bà nội và ông trẻ tôi, mà cả hai đều đang ở đồn điền tại Bang Khunthian.

Khi Ning và tôi còn bé, bố đã đưa chúng tôi đi thăm bà nội, nhưng không thường xuyên lắm. Tôi nhớ nhà của ông trẻ tôi là một căn nhà sàn gỗ vừa to vừa cao lênh khênh, có nhiều loại cây và những con chó cực kỳ dữ tợn. Mỗi khi đến đó, Ning và tôi đều chùn lại, sợ rằng chúng sẽ ăn sống chúng tôi. Bà nội dáng cao to, tóc cắt ngắn như đàn ông, miệng đỏ lòm do ăn trầu và giọng nói oang oang. Thuở ấy, tôi sợ quá không dám đến gần bà hay thậm chí là nhận những món ngọt truyền thống của Thái như bánh chuối hay mứt mà bà chìa ra cho chúng tôi. Còn ông trẻ của tôi là một người đàn ông trầm lặng ít khi chuyện phiếm. Đáp lại lời chào của chúng tôi xong là ông lập tức đi mất hút vào đồn điền. Đến lúc chúng tôi phải về, ông sẽ lại hiện ra với một túi đầy những quả roi, xoài hay quả thanh trà cho chúng tôi mang về nhà. Mẹ không hoà hợp với bà lắm, vì những lý do gì tôi chưa bao giờ được biết. Vậy nên, sau khi bố bỏ đi, mẹ chưa bao giờ đưa chúng tôi đi thăm bà hay ông trẻ.

Tôi nghĩ đến Eikkarong nhưng rồi nhận ra rằng nó sẽ chẳng giúp được mấy. Dù Eik là bạn thân của tôi, nhưng xét về mặt hiểu biết cuộc sống hay kiến thức chung để ho một cuộc nói chuyện thú vị thì nó kém Porm hay Chai nhiều. Eik chỉ rành về những vấn đề trực tiếp liên quan đến nó, ví dụ như sách giáo khoa hay việc bán hàng ở cửa hàng của bố nó, thay vì bất cứ thứ gì khác. Nó không quan tâm đến chính trị, nghệ sĩ và nhà văn như Porm, nó cũng không hứng thú với Tam giác Bermuda, với bí mật của các kim tự tháp hay với người ngoài hành tinh như Chai, với lại nó cũng không nghe nhạc nước ngoài hay xem phim giống tôi, Eik thuộc loại mà chúng tôi gọi là “một cộng một bằng hai”. Nó sẽ nhảy đến tận trần nhà nếu có ai đó nói với nó điều ngược lại, có một lần nó đã đuổi theo chửi rủa Chai vì Chai quả quyết rằng “một cộng một là một” và chứng minh bằng cách cho một nắm cát lên một nắm cát khác, thành một nắm cát. Porm thường hay giễu Eik là “nạn nhân của chế độ”, một người không có suy nghĩ tiến bộ, chỉ giỏi nghe theo sách giáo khoa, học thuyết phương Tây và các thứ đẹp đẽ cùng một giuộc khác, còn Eik thì chẳng để bụng mấy lời đó lắm, trừ phi nó đang bực mình và bị Porm dồn vào đường cùng, nó mới lấy tay gõ vào đầu Porm.

Tôi vẩn vơ nghĩ về Chai. Mặc dù nó trở thành một đứa bạn khác vô dụng sau sự cố bóng đá, nói chuyện với nó vẫn đỡ hơn là tâm sự với Eik.

Tôi bắt một chiếc xe buýt ở đầu ngõ nhà Jom rồi xuống xe ở đường Tok, rồi lại từ đây lên chiếc xe buýt khác qua cầu Krungcheip để đến gặp Chai ở Daokhanong.

Chai có vẻ không ngạc nhiên lắm khi thấy tôi đến. “Sao cậu không gọi điện trước?” nó nói. “Mình đang chuẩn bị nướng.”

“Cứ làm như nhà cậu có điện thoại ấy!” tôi giễu. “Mà chuyện nướng là thế nào đấy?”

“Nhóm lửa ngoài trời,” Chai nói, đứng ra xa đề phòng. “Nhiều cỏ quá nên mình định đốt.”

“Mình trượt rồi,” tôi nói với nó đoạn thả mình xuống cái xích đu cũ dưới chân bụi canh ki na.

“Cũng tốt thôi.” Chai ngồi xuống cạnh tôi. “Những người như cậu chỉ có thể với cao đến thế. Cậu đi bán mứt Tàu còn hơn.”

“Đây không phải là chuyện đáng cười đâu,” tôi bực mình. “Đừng đùa nữa.”

“Cậu muốn mình khóc lóc rên rĩ hay thế nào đây?” Chai run người đẩy xích đu. “Nghe đây, Béo, mình cho cậu hay: đừng coi chuyện này nghiêm trọng thế. Số trượt đông đảo hơn số đỗ nhiều. Cậu nên cảm thấy tự hào vì đứng cùng hàng ngũ với những người bị đè mới phải.”

“Để mình hỏi cậu chuyện này: cậu đã bao giờ ngồi đây rồi ngất lăn quay khỏi cái xích đu này chưa?”

“Lại cậy sức lấn lướt, cậu chỉ biết thế thôi,” nó lầm bầm phàn nàn.

Chúng tôi ngồi im lặng. Chỉ có tiếng xích đu khẽ kêu kin kít.

“Thế bây giờ cậu định làm gì?” Chai bất chợt hỏi.

“Chưa biết…” Tôi giơ tay lên vuốt tóc từng chập. “Không suy nghĩ cho ra hồn được. Mình bí rồi, thật sự là thế.”

“Ý cậu là cậu không chuẩn bị tinh thần cho thất bại.”

“Không phải thế.” Tôi lắc đầu. “Mà sao cậu lại bảo mình thế?”

“Cậu lạ thật đấy. Khi mình bông đùa cho cậu vui hơn thì cậu bảo mình không quan tâm, còn khi mình nghiêm túc thì cậu lại chụp mũ mình phá thối.”

“Mình không nói vậy,” tôi phản đối, giọng dịu lại.

“Kể cả thế thì ý cậu là như vậy còn gì.” Chai im lặng một hồi, rồi nói: “Hay là cùng đi Nongkhai?”

“Làm gì?”

“Chỉ để đi thôi, cho cậu hết ủ rũ.”

“Bao giờ?”

“Tối mai,” Chai trả lời chắc nịch.

“Thế còn mẹ cậu thì sao?” Tôi liếc ngôi nhà hai tầng sừng sững.

“Mẹ mình không phải lo lắng cho mình lâu rồi. Với lại biết mình đi với cậu thì mẹ sẽ yên tâm hơn.”

“Mình phải xin phép mẹ mình trước đã.” Tôi vẫn phân vân.

“Tuỳ thôi.” Chai đứng lên. “Nếu quyết định đi thì gặp mình ở bến xe buýt lúc tám giờ tối mai.

Lạ lùng thay, mẹ không hề phản đối chuyện tôi đi Nongkhai với Chai.

“Mày cần bao nhiêu?” bà vừa hỏi vừa mở ngăn kéo.

“Tuỳ mẹ thôi ạ,” tôi trả lời ngắn gọn đoạn bước tới chiếc ghế cạnh cửa.

“Bây giờ cứ cầm 500 mà đi mua vài thứ đã,” mẹ đề nghị. “Mai tao sẽ đưa mày thêm một ít.”

Tôi cầm tiền mẹ đưa và nhân cơ hội ấy lang thang trong trung tâm thương mại đến chiều tối thì vác về nhà một chiếc xe cút kít.

Chai và tôi ngồi tán chuyện gần như suốt chặn đường từ Bangkok tới Kho-rart, nơi xe khách dừng lại để khách xuống ăn cháo lót dạ. Chúng tôi kể cho nhau nghe, xen giữa những tiếng cười khùng khục, đủ loại giai thoại về bạn bè và quãng đời học sinh chúng tôi vừa trải qua.

Thật khó tin rằng những ngày tháng ấy đã lùi về phía sau! Vẫn có những buổi sáng tôi thức dậy đinh ninh rằng phải nhanh nhanh thay quần áo đến trường, vẫn lưu lại những câu chuyện để kể cho Chai và Eik, và vẫn nhớ những tiết học trong thời khoá biểu cũ trên tường và lúc nếm mùi chiếc thước kẻ của cô giáo môn Ngữ Văn, người cực kỳ nghiêm khắc về ngữ pháp của chúng tôi.

Sau bữa ăn nhẹ, Chai cuộn mình trong chăn ngủ, để tôi ngồi lại một mình mở to mắt nhìn vào bóng tối trước mặt. Cặp đèn pha to đùng ở đầu xe chiếu ra hai lường sáng dài hình nón phơi bày con đường trước mặt khỏi màn đêm tối tăm. Bên trong xe, bầu không khí tĩnh lặng và yên bình. Chỉ có tiếng thở và tiếng ngáy nho nhỏ từ những hành khác say ngủ. Ánh đèn nhỏ từ bảng đồng hồ làm nổi rõ hình ảnh người tài xế giữa bóng tối trong xe. Tôi chỉ có thể nhìn thấy lưng ông. Giữ thẳng đầu trên đôi vai rộng, ông có vẻ tự tin với khả năng của đôi tay trên vô lăng và với phản xạ của mình, nhưng không ai biết ông nhận thức được tới chừng nào trách nhiệm bản thân đối với tất cả hành khách trên xe.

Chúng tôi tới Nongkhai lúc năm giờ rưỡi sáng. Thị trấn vùng biên này vẫn chưa thức dậy đón ngày mới. Ở bến xe đã có xích lô, chừng năm hay sáu cái xếp hàng chở khách. Tôi nghĩ hẳn vài người đạp xích lô đang nằm ngủ trên xe của mình thì nghe thấy tiếng xe khách đang tới bấm còi bèn vội vàng xuống đây giành khách.

“Các cậu đi xe ạ?” một người lái xích lô đến trước mặt chúng tôi hỏi.

“Vâng,” Chai vừa trả lời vừa khoác chiếc túi du lịch nhỏ lên vai. “Giúp chúng tôi tìm một chiếc nữa với.”

“Dạ.” Người lái xích lô gọi một người bạn đoạn chạy thẳng đến xe của ông ta đang đỗ ngay cạnh đó.

Một lúc sau, hai chiếc xe xích lô dừng lại ngay trước chúng tôi.

“Chúng mình đi đâu bây giờ?” tôi bối rối hỏi Chai.

“Chẳng biết.” Chai lắc đầu. “Đây là lần đầu tiên mình đến Nongkhai.”

“Hai cậu đi đâu ạ?” người đạp xích lô hỏi khi Chai để tôi lên ghế.

“Ra chợ,” Chai lập tức trả lời.

Hai chiếc xích lô với những ngọn đèn tù mù đua nhau dọc các con phố bàng bạc yên tĩnh trước bình minh một ngày hè là cảnh tượng ngoạn mục còn lưu trong ký ức tôi. Thỉnh thoảng, hai chiếc xe bắt kịp nhau và bên này thúc giục bên kia bằng những hồi chuông dài lanh lảnh, torng khi hai đứa chúng tôi cổ vũ ầm ĩ cả phố. Mỗi khi hai chiếc xích lô chạy song song, chúng tôi lại nhoài người ra cố tóm lấy túi của nhau và cười nắc nẻ như trẻ con. Gió lạnh từ ngoài sông thổi tới làm rối tung tóc hai đứa. Ngay cái khoảnh khắc bất chợt cảm thấy tê cóng lạ lùng vì gió lạnh, tôi quay lại nhìn con đường hun hút trải vào bóng tối và bất chợt thấy cô đơn, trơ trọi.

 

Chương 30

Docsach24.com

 hợ Nongkhai trước bình minh trông như một bức tranh thuộc trường phái Ấn tượng. Bầu không khí u ám bao trùm tất cả, loang lỗ ánh đèn hắt ra từ các quầy bán thịt. Chúng tôi ngồi xuống cái ghế đẩu gỗ trước một xe hàng đầy bán cà phê. Người bán hàng đang lấy những chiếc bánh ránh giòn bóng mỡ ra khỏi một túi giấy lớn màu nâu đặt lên đĩa thiếc ngẩng đầu nhìn chúng tôi với ánh mắt xa lạ. “Hai cậu dùng gì?” Ông ta cộc cằn hỏi, gương mặt tái xám không chút cảm xúc.

“Làm ít cà phê nhỉ?” Chai nhìn tôi hỏi. Tôi gật đầu hướng mắt sang khu chợ.

Người đi chợ bắt đầu kéo đến. Những tiểu thương, cả nam lẫn nữ, đầu đội nón lá Việt Nam, mình bận áo ngủ thùng thình và quần đen, trên vai gánh những món hàng nặng trĩu, vừa đi vừa rao to bằng thứ tiếng Việt du dương trong khi các bà nội trợ hờ hững xách những chiếc giỏ to tướng lượn mua thực phẩm tươi. Khung cảnh nơi đây như tiết tấu của một ca khúc kết hợp cái đều đều và nét duyên dáng của cuộc sống vào một giai điệu chung duy nhất, và tôi luôn yêu bất cứ những gì đối lập mà lại hoà hợp như vậy.

Chúng tôi ngồi đó đến khi ánh bình minh dịu dàng rải trên phiên chợ và người tới đông hơn.

“Đi đâu tiếp đây?” tôi khẽ hõi Chai.

“Chả biết nữa…” Chai di ngón tay biến chỗ nước đây ra bàn thành bức tranh. “Trước tiên cứ đi tìm khách sạn nghỉ ngơi đã. Nếu không có gì đáng xem quanh đây, bọn mình sẽ lên xe buýt đến thị trấn tiếp theo.”

“Cậu nói cứ như một tay ngẫu hứng không biết đến kế hoạch ấy.” Tôi đẩy cốc nước không sang một bên.

“Mình từ bỏ những thứ đó từ rất lâu rồi.” Chai cười nhưng ánh mắt nó ánh lên nỗi chua xót. “Có những lúc ta tự đặt ra một mục tiêu, rồi chỉ nhận được thất vọng và đau đớn mà thôi.”

“Mình hiểu.” Tôi vươn tay vỗ nhẹ vai nó. “Đi thôi.”

Từ chợ, chúng tôi thuê xích lô đi lòng vòng quanh thị trấn, dọc theo những con phố hẹp hai bên là các ngôi nhà kiêm cửa hàng nhỏ, qua vài ba ngôi chùa, và rồi men theo bờ sông cho đến khi chúng tôi dừng lại ở một khu liên hiệp hải quan và nhập cảnh. Chúng tôi xuống xe đi bộ ra bến sông, ngắm nhìn con sông Mekong lững lờ chảy ngăn cách hai đất nước.

“Cậu qua đó bao giờ chưa?” Chai chỉ sang bờ bên kia.

“Chưa.” Tôi lắc đầu. “Cậu thì sao?”

“Mình cũng thế… Mình tự hỏi không biết con sông có khiến hai bên bờ khác biệt, hay đúng hơn là nó tạo ra loại khác biệt nào.”

“Mình không nghĩ dòng sông liên quan gì ở đây,” tôi phản đối. “Sự khác biệt chỉ nằm trong đầu chúng ta thôi.”

Mặt trời rải bụi kim cương lấp lánh lên mặt nước.

“Mình thích sông,” tôi lẩm bẩm. “Chúng gợi mình nhớ đến hồi bé… đến ngôi nhà ngày xưa của mình.”

“Cậu giống như một thằng bé không chịu lớn vậy.” Chai nói nửa đùa nửa thật.

“Biết làm sao được!” Tôi quay lại dựa lưng vào hàng rào. “Nhiều khi mình có cảm giác cuộc sống của mình như một tấm xếp hình bị vỡ, và vài miếng ghép đã lạc mất từ hồi mình mới là một đứa trẻ.”

“Mình không nghĩ có ai trên đời này lại có cuộc sống hoàn hảo. Tất cả chúng ta đều lạc mất thứ gì đó, tất cả chúng ta.”

“Nhiều khi mình không khỏi nghĩ rằng giả bộ đừng bỏ mình và Ning…”

“Cậu biết là với chúng ta, nếu không phải chuyện này cũng sẽ là chuyện khác tồi tệ không kém thôi.” Chai nói như thể nó đã trải đủ đắng cay. “Cứ lấy mình làm ví dụ: mình vẫn nghĩ rằng nếu mẹ mình không quá mong mỏi mình trở thành một người lính như bố mình, thì mình đâu có ra nông nổi này. Mình vẫn nhớ mẹ dạy mình nhắc đi nhắc lại mấy từ Tổ quốc, Tự trọng, Kỷ luật, Can đảm, cho đến khi chúng nhấn vào huyết quản mình từ lúc bập bẹ tập nói. Mình đứng nghiêm chào ảnh bố chứ không quỳ lạy. Mẹ cho mình vuốt ve quân hàm của bố thay vì đồ chơi. Bà suốt ngày kể về sự oai nghiêm và ý chí thép của bố, về cuộc sống của học viên trường sĩ quan ngày trước, thế rồi dần dần, chúng trở thành một phần tiềm thức của mình. Từ hồi bé mình đã luôn mơ lớn lên được khoác bộ quân phục như bố mình, nhưng kể từ lúc đời mình rẽ ngoặt thình lình như vậy, mình không biết phải làm gì với bản thân nữa.”

“Sức hấp dẫn của cuộc sống có lẽ nằm ở chỗ ta chả thể đoán trước được điều gì.” Tôi thì thầm.

“Sức hấp dẫn với người ngoài thôi.” Chai rời ánh mắt khỏi con sông. “Nhưng khi cậu tình cờ lại là người hứng chịu, mình không thể tả cho cậu nó kinh khủng đến mức nào đâu.”

Chúng tôi tìm thấy một căn phòng hợp túi tiền ở một khách sạn nhỏ, cũ kỹ, xập xệ.

Mặc dù cả hai đứa đều phấn khích vì đã đi thật xa và lập kế hoạch đến thăm khá nhiều nơi, trên thực tế, sau khi tắm táp, bọn tôi nằm kềnh trên giường tán chuyện cho đến khi ngủ thiếp đi. Khi bọn tôi tỉnh dậy, đã là ba giờ chiều và bụng hai đứa bắt đầu cồn cào.

Suốt ba ngày ở Nongkhai, chúng tôi ăn, ngủ và tán chuyện thay vì đi thăm thú. Khối lượng chuyện hai đứa kể cho nhau nghe quả là kỳ tích. Như thể mỗi đứa mang theo một quyển nhật ký ghi lại tất cả những sự kiện xảy ra từ ngày đầu tiên đi học. Chúng tôi không quên cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất – như lúc bác sĩ đến tiêm phòng ta, khoảnh khắc đáng sợ nhất thời thơ ấu của bọn tôi, và cả lũ xếp hàng mặt mũi tái mét, rướn người nhìn qua vai đứa phía trước cho đến khi hàng ngũ lộn xộn hết cả, và một lần Eik bỏ chạy rồi trốn trong toa lét và cả lũ đuổi theo nó, tóm cổ nó lôi về như anh hùng bắt được trộm. Hay khi Chai ị đùn, phải cởi quần ra giặt và nó vào lớp với một mảnh vải sọc quấn quanh mượn của bác lao công. Những kỷ niệm ấy ẩn núp trong biết bao góc nhỏ của quá khứ và sẽ không bao giờ biến mất khỏi ký ức, dù bao nhiêu tháng năm trôi qua.

Tôi gặp thầy Wa-thin ở Nongkhai vào chính cái ngày cả hai quyết định đi du hí ở các tỉnh khác. Thầy còn gầy hơn trước và rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi. “Sao hai đứa lại ở đây thế này?” Thầy Wa-thin vỗ vai Chai và tôi, có vẻ hơi lúng túng.

“Con đang đưa Béo đi chơi để nó hết thất vọng vì trượt đại học ạ.”

“Cái gì!” Thầy Wa-thin quay sang tôi. “Sao lại thế! Con siêng năng vậy mà.”

“Thế còn con thì sao, Chai?” thầy giáo quay sang hỏi kẻ bép xép.

“Con sẽ vào Rarm.”

“Tốt.” Thầy Wa-thin gật gù rồi lặng đi một lúc như thể đang suy nghĩ gì đó. “Các con có muốn xem nhà thầy không?”

“Có chứ ạ. Chúng con không biết quê thầy ở đây.”

“Ồ không.” Thầy Wa-thin quay đi chỗ khác. “Thầy mới chỉ dọn về đây một hai tháng thôi.”

“Tức là thầy không còn dạy ở trường nữa ạ?” tôi ngạc nhiên hỏi.

“Thầy xin thôi rồi…” Thầy cúi mặt xuống hít một hơi dài, khoác lên vai chúng tôi dẫn hai đứa đi dưới ánh ngày mai không nói thêm lời nào.

Thầy Wa-thin sống trong một khu nhà dãy ven sông, ngay cạnh một kho hàng lớn sực mùi nước mắm và bụi bột sắn.

“Ngồi đi, ngồi đi.” Thầy chỉ mấy cái ghế cũ dựa vào tường.

Chúng tôi ngoan ngoãn ngồi xuống trong lúc thấy mất hút vào một căn phòng khá tối rồi quay trở lại với chai nước và ba cái cốc.

“ Thầy ở đây một mình ạ?” Tôi vừa hỏi vừa đảo mắt quanh phòng, để Chai đón lấy chai nước và mấy cái cốc từ tay thầy.

“Ừm…” Thầy hắng giọng, ngại ngùng. “Thầy ở với vợ. Cô ấy đang đi chợ, chắc sắp về rồi.”

“Vậy là thầy cưới vợ rồi ạ!” Chai kêu lên như không tin nổi vào tai mình.

Thầy Wa-thin gật đầu thay vì câu trả lời và ngồi đó im lặng, ra hiệu câu chuyện đã kết thúc.

Lát sau, vợ thầy đi chợ về. Cô gầy và mảnh dẽ, khuôn mặt đẹp nhưng buồn gợi tôi nhớ đến một bức tranh của Picasso.

“Wi à, đây là Nat và Chai – hai học trò cũ của anh.” Thầy Wa-thin đứng dậy nắm tay vợ.

Chúng tôi cúi đầu chào và tôi để ý thấy một thoáng e dè trong ánh mắt cô khi biết chúng tôi là ai.

“Các con ở lại đây ăn trưa chứ?” thầy Wa-thin mời đoạn quay sang phía vợ.

“Đúng đó, ở lại dùng bữa với thầy cô đi.” Cô ủng hộ.

“Chúng ta ăn gì đây ạ? Để con giúp một tay.” Chai đưa mắt nhìn tôi trước khi theo Wi vào bếp, để tôi lại một mình với thầy giáo.

“Thưa thầy…” Tôi ngập ngừng khi thấy thầy thoải mái hơn. “Có phải thầy thôi việc chuyển về đây vì vợ thầy không ạ?”

Thầy Wa-thin nhìn tôi với ánh mắt rạng ngời tình yêu và sự tự tin. “Con nhớ nhà thầy ở Bangkok, đúng không Nat?”

“Dĩ nhiên rồi ạ,” tôi đáp. “Ngôi nhà trong vườn chuối.”

Tôi nghĩ về dạo còn ở với bố và thường đến thăm thầy Wa-thin. Tôi vẫn nhớ ngôi nhà một tầng giữa những bụi chuối và cái hàng rào sắt gỉ cùng bài “Cây bồ đề buông mành” mà thầy giáo của tôi hay đàn khi thầy đứng bên cửa sổ nhìn sang căn nhà lớn đối diện. Đôi lúc thầy dừng nửa chừng, như thể đã mất hết tất cả hy vọng hay nhuệ khí, nhưng mỗi khi có một bóng người lấp ló đằng sau rèm cửa sổ trắng với một niềm say mê lạ thường như thể muốn giải bày cả trái tim mình qua giai điệu.

“Ý thầy là vợ thầy…” Đến lúc này tôi mới nhận ra rằng đằng sau tấm rèm ấy là một người phụ nữ.

“Ừ.” Thầy Wa-thin nhìn thẳng vào mắt tôi với ánh mắt giải đáp cho mọi việc trong tim thầy cũng như trong tim tôi.