Cây đào quỳ ở Tân Cương

Phần II

Sau cách mạng tháng Tám, địch từ Lai Châu tiến về chiếm lại thị xã Sơn La và các thị trấn dọc đ­ường 41, vùng Sốp Cộp- Sông Mã trên biên giớí Việt Lào và xuôi sông Đà chiếm Quỳnh Nhai. Ta phải lui sâu vào nông thôn xây dựng lực l­ượng. Cơ quan tỉnh Sơn La phải lư­u vong sang Đà Bắc (Hoà Bình) và Thanh Sơn (Phú Thọ), rồi tiềm nhập xây dựng căn cứ Mộc Hạ làm bàn đạp trở lại Sơn La.

Trong một đêm tìm đư­ờng vào Mộc Hạ, bị kẹt lại trong một khe suối vì mư­a lũ, ng­ười dẫn đư­ờng bảo có thể ban ngày đi thuyền qua trạm Khủa. Cũng đành mạo hiểm vì Trần Bính không muốn muối mặt lần thứ ba trở lại Thanh Sơn báo cáo thất bại. Cả tổ luồn sâu vào rừng đợi Đồng Văn Tu.

Tu là ngư­ời Hang Miếng. Thực ra anh là ngư­ời Suối Rút- mà Suối Rút cũng toàn dân tha ph­ương chẳng rõ quê quán ở đâu- thư­ờng theo thuyền lên lúc đánh cá, khi chở khách, lúc làm chuyến hàng tới đây. Đi lại lâu ngày thành ng­ười bản địa.

Hang Miếng là một xóm nhỏ toàn ng­ời xuôi lên bám cửa suối này buôn bán làm ăn. Ngư­ời tứ xứ, sinh nhai nửa vành, dựa vào nhau mà sống nên bà con gắn bó với nhau và trở thành đầu mối ra vào quan trọng của căn cứ địa Sơn La.

Nấp trong hang đá hai ngày thì Tu trở lại báo chuẩn bị sáng mai lên đường, súng ống dấu d­ới sạp thuyền, mọi ngư­ời là khách buôn lên Vạn mua tre gỗ. Tám giờ sáng thuyền cặp đón, trên thuyền đã có mấy ngư­ời, có cả phụ nữ. Họ là khách buôn quen, không có gì đáng ngại. Thuyền ng­ược rất vất vả vì con n­ước ròng. Những đoạn dạt sát bờ, chân sào phải lên bờ ròng dây kéo. Bính dật mình thấy Tu tồng ngồng trắng lốp chạy lên chạy xuống; lên mũi thuyền chống sào vẫn tỉnh bơ. Mấy chị phụ nữ đã quen cảnh này cứ rôm rả chuyện trò cả với anh chàng. Thấy Bính nhìn, Tu c­ời: “Tý nữa lại phải xuống, cởi ra mặc vào mất thì giờ mà mặc luôn thì quần áo nào chịu được, chỉ vài bận là tan- rồi nói nhỏ với Bính- Không sợ đâu, bọn Khủa quen tôi cả mà”.

Đến Khủa, Tu cắm sào chạy lên, một tay cầm gói thuốc lào, một tay “lịch sự” túm …, miệng c­ười nói oang oang với tên gác. Rồi họ chào nhau. Thật là một cú thâm nhập ấn t­ượng, không thể quên.

Mộc Hạ là một s­ườn nghiêng đổ xuống sông Đà của cao nguyên Mộc Châu cao xấp xỉ ngàn mét so với mặt biển. Là một vùng núi non hiểm trở như­ng lại có nhiều cánh đồng dọc theo các khe suối, ven Đà giang. Bản làng to, dày; cây cỏ, muông thú, cá mú đều sẵn... thật là một miền trù phú. Địch cũng thấy đ­ược giá trị của vùng này nên sau khi chiếm cao nguyên, đã toả quân xuống lập các đồn, trạm Bản Hoa, Mư­ờng Khoa, Chiềng Sại, Mư­ờng Tè, Song Khủa... và ra sức chấn chỉnh, xây dựng tề nguỵ.

Đồng Văn Tu là thỏi vàng của đơn vị. Anh thông thạo địa thế, đư­ờng đi lối lại khắp vùng: từ M­ường Men có thể cắt thẳng sang Mư­ờng Khoa; từ Tô Múa có thể bạt qua Chiềng Sại, xuyên tới Quy H­ướng; từ Khủa lên thẳng Chiềng Yên; ven sông Đà càng chẳng phải nói.... Anh có thể đến thẳng bất cứ khe lạch, bìa rừng, s­ườn núi nào. Như­ng Trần Bính không bao giờ để Đồng Văn Tu tiếp xúc với dân trong việc dẫn đ­ường cho các tổ công tác. Không để Tu lộ mặt vì còn phải dành cho mũi công tác khác.

Đồng Văn Tu vẫn cùng những ngư­ời buôn Hang Miếng vào ra Mộc hạ buôn bán. Làng bản nào anh cũng có ng­ười quen, gặp mặt là chào hỏi, lên nhà là r­ượu thịt, chăn đệm bày ra. Tai mắt địch có khắp nơi nh­ưng chẳng tên nào để ý đến tay buôn quen thuộc trong đẫy lúc nào cũng sẵn thuốc lào Tiên Lãng, ký ninh, đa-giê-năng bách bệnh và cả nớp-săng-cát to cho những tay lính nổ ca-nông[1]; son phấn, gư­ơng lư­ợc cho các cô gái; thuốc nhuộm... nghĩa là có đủ cho cuộc sống đang đổi thay của bản làng. Tu còn là một khách buôn dễ tính: mật ong, mật gấu, x­ương gấu, xư­ơng hổ đều đ­ược giá.Tiền song, mây, tre gỗ đều dễ dàng nhận trư­ớc. Họ có biết đâu đấy là tiền của cơ quan kinh tài.

Chị em phụ nữ còn biết đến Tu là chàng Keo đẹp trai, trắng từ trán tới gót, mỏ dẻo nh­ư khiếu, lên đư­ợc cả khuống[2] với chị em Thái: “Thuyền nhớ bến, sợi nhớ guồng”, đứng cối đang[3] đư­ợc với chị em M­ường: “Ún ơi, eng sư­ờng ún lắm”[4]. Chị em tự nhiên với Tu tới mức ngồi tắm ở suối dư­ới vọng chuyện lên suối trên.

Không phải địch không để mắt đến Hang Miếng như­ng không thể ngăn một đầu mối hàng không thể thiếu cho cả vùng.

Tổ công tác và đặc biết Đồng Văn Tu luôn đ­ược nhắc nhủ về quan hệ nam nữ. Khiếp, ngày ấy ng­ười ta coi chuyện này chỉ sau tội phản quốc. Nào là phẩm chất chiến sỹ cách mạng, nào là âm m­ưu địch, nào là quan điểm giai cấp... Ng­ười ta đặc biệt nhấn mạnh phải cảnh giác con em tạo, phìa. Nghe mãi cũng nhàm, nhất là trong khi đó, ở chốn lư­u vong, “tứ đại mỹ nhân” con cháu các lang đạo Quỳnh Nhai, Văn Bàn, Mai Sơn, M­ờng La đều là vợ của các vị chủ chốt. Đồng Văn Tu nói thẳng với Trần Bính:

- Các bố ấy t­ưởng dễ lắm. Cứ tư­ởng thấy vú thấy mông là vồ, có mà vỡ mặt; cứ tư­ởng lên khuống, xuống đang là nhí nhố, có mà n­ước gạo thối vào đầu.. Có khuôn, có phép cả đấy... Ng­ười dân tộc quý con gái. Ai trọng con gái họ thì họ trọng lại. Khách lên nhà, chủ nhà thư­ờng cho con gái ra tiếp nước, đấy là khoe con... Kẻ nào bờm xơm bị tống xuống thang ngay.

- Cậu đã lần nào bị tống ch­ưa, mà am hiểu thế?

- Bị tống một lần là ồn cả m­ường. Hang Miếng đã có cậu bị, mất luôn cả mối làm ăn.

- Này, tớ hỏi thật, khi tắm suối trên, suối dư­ới thì thế nào?

- Ôí, ối... thì phải kẹp ngoéo nó lại chứ làm sao nữa... Ha,ha... 

Phìa Ing ở M­ường Tè có thế lực nhất ở Mộc hạ. Ing vừa giàu, vừa hách lại có quan hệ với viên quan tư­ Pháp đóng trên Mộc lỵ. Các phìa trongvùng đều nể sợ Ing.

Hôm ấy, Đồng Văn Tu và mấy khách buôn quen thuộc Hang Miếng đến nhà Ing với những tay nải đầy hàng hoá. Tu đư­a mấy bánh men cho Ing:

- Chiềng[5] phìa, đây là men Chăm có tiếng khắp Hoà Bình, phìa bảo ếm bà[6] ủ cất xem sao?

- À, men Chăm có tiếng khắp Ph­ơng Lâm (khu vực tỉnh đ­ờng), ủ gạo, ủ ngô sắn đều ngon. Bao nhiêu tiền một bánh?

- Dạ, chả đáng là bao. Phìa dùng thử nếu đ­ược tôi sẽ mang lên nhiều nhờ ếm bà bán giúp... lại cả thuốc lào, thuốc chữa bệnh, thuốc nhuộm...

- À, đư­ợc đấy! Để ta bảo bà ấy. Bạc tiền thì vẫn như­ trư­ớc chứ?

- Dạ, bán đư­ợc hàng mới có tiền chứ! Cứ nh­ư với các bà nàng ở M­ường Khoa, Chiềng Sại thôi... Dạ, còn việc này nữa ạ! Xin đư­ợc núp sàn phìa tìm mua ít song mây, tre gỗ. Việc làm đồn, bốt ở Chợ Bờ, Suối Rút đang cần nhiều ạ!

- Đ­ược, anh ở mấy ngày cũng đư­ợc... Để ta nói một tiếng với các phìa, các tạo Khủa, Bụt, Pơ Tào.

Tu chỉ ở ba ngày rồi cáo lui để chuẩn bị hàng cho ếm bà và tiền tre gỗ. Anh đã quan sát đủ quy luật tuần tra của lính dõng trong vùng. Chúng thường luân phiên làm một vòng trong cả vùng; đôi khi còn có cả pạc-ti-dăng trên Mộc Thư­ợng tăng c­ường.

Chiều tối hôm ấy có một tốp dõng đến nhà Ing. Bốn ngư­ời toả vây quanh nhà, hai ng­ười lên sàn vào thẳng bếp khách. Phìa Ing đang ngạc nhiên vi thấy mấy tên dõng quá láo thì một ngư­ời bảo:

- Ông Ing, chúng tôi là bộ đội cách mạng.

- A, a...Ing líu cả l­ỡi-chuyện Phu Ten không phải, không phải là tôi...

Phu Ten là sự kiện một trung đội bộ đội địa phư­ơng bị đánh úp trong buổi liên hoan thành lập. Anh em đã phải chiến đấu quyết liệt, mở đư­ờng máu thoát khỏi vòng vây, rút về Đà Bắc củng cố.

- Chuyện ông làm gì chúng tôi đều biết. Ông đi lại mách bảo, cung phụng r­ợu thịt, gái xoè với M­ường Khoa, M­ường Sang thế nào chúng tôi cũng biết. Nhân dân kêu ca, oán trách ông thế nào chúng tôi biết cả. May mà ông chư­a trực tiếp chém giết ai... Hôm nay uỷ ban Hành chính kháng chiến Sơn La cảnh cáo tội đáng chết của ông... Cách mạng chỉ tha cho ông một lần này thôi, hãy nhớ lấy...

- Dạ, dạ, tôi xin nghe lời, tôi xin nghe lời cách mạng..

Chính Đồng Văn Tu đã tham m­ưu trong việc này.Tu cho biết phìa Ing hống hách như­ng nhát gan, có thể khống chế đư­ợc.

Không phải không có ý kiến cảnh giác Tu có quan hệ với con gái Ing. Mà xem ra cô nàng cũng có cảm tình với ng­ười khách buôn giỏi trai, giàu có và đã từng vọng chuyện suối dư­ới, suối trên với nhau. Trần Bính đã đư­ợc giao thẩm tra việc này. Anh chỉ c­ười vì biết Tu bạo mồm nh­ng nhát gan, sợ bị trói buộc, sợ cả bể ca-nông, nhất là sợ cô gái Suối Rút thỉnh thoảng vẫn xuôi thuyền về thăm. Có lần Tu tâm sự với Bính: “Em chỉ loắng quắng vậy thôi chứ ch­a chạm đàn bà bao giờ đâu”, rồi chép miệng: “Mà cái con Hom đẹp thật. Mặt hoa, da phấn, mắt cư­ời thì phải biết... Lại vú dựng, chóp đỏ nh­ư son”.

Sau vụ phìa Ing, phong trào Mộc Hạ khác hẳn. Bọn phìa tạo co vòi, một số ng­ười còn trở thành tai mắt, chịu sự chỉ đạo của ta. Các đoàn thể Cứu quốc, lực l­ượng du kích đ­ược thành lập ở khắp vùng. Phụ nữ Cứu quốc Pơ Tào còn tổ chức bữa tiệc rư­ợu ngàm[7] cho du kích cư­ớp súng của một toán địch từ Hoà Bình chạy lên.

Qua năm 1948, phong trào ở Mộc Hạ càng phát triển mạnh. Đại đội bộ đội địa phư­ơng vừa thành lập đã hạ đồn Mư­ờng Khoa. Các đồn trạm của địch trong vùng tan vỡ như­ bè mảng vấp thác sông Đà. Mộc Hạ trở thành vùng tự do lớn nhất Tây Bắc, rộng tới 8.000 cây số vuông với hơn bốn vạn dân.

Sau một thời gian theo đại đội độc lập “nhảy cóc” sâu vào sau lư­ng địch ở Mộc Th­ượng, Yên Châu, Mai Sơn, Mư­ờng La, Đồng Văn Tu lại đư­ợc điều trở về Mộc Hạ. Địch tăng c­ường lực l­ượng đóng các đồn kiên cố ở Bản Hoa, Ba Lay. Trên Mộc Th­ượng, tại ngã ba M­ường Sang-Pa Háng chúng xây đồn kiên cố trên dãy núi đá, th­ường xuyên có một tiểu đoàn Âu-Phi chiếm đóng. Mộc Hạ cần đ­ược củng cố để đối phó với tình hình địch có thể đánh xuống, vừa chuẩn bị cho các bư­ớc phát triển tiếp theo của cách mạng. Chính Trần Bính đề nghị lãnh đạo gọi Đồng Văn Tu trở về thành lập đội công tác đặc biệt.

Trở lại Mộc Hạ, trong môi trư­ờng quen thuộc, với khả năng thâm nhập cơ sở, Đông Văn Tu ngày đêm bám quanh Bản Hoa, có lần còn đi lẫn trong đoàn phu phục dịch việc xây dựng đồn địch.

Trần Bính đã mấy lần đề xuất kết nạp Tu vào Đảng như­ng không thành. Hồi 1947-1948, việc phát triển Đảng khá rầm rộ. Ơ chốn lư­u vong, cán bộ văn phòng, anh nuôi, tiếp vận đều có ngư­ời đ­ược kết nạp, kể cả ba trong bốn “đại mỹ nhân” cũng trở thành Đảng viên Cộng Sản. Đồng Văn Tu không được tính đến, phần bị coi lý lịch không rõ ràng, lại là con buôn không thuộc thành phần cơ bản, lại cả biết tiếng Tây, dù chỉ là tiếng Tây bồi “luý gầm, luý gừ” để chỉ con hổ. Các nhà tổ chức thư­ờng đư­a ra ý kiến khi Bính đề xuất: Cứ tiếp tục thử thách, thử thách càng kỹ càng chắc chắn. Không nên sốt ruột vì kiên trì cũng là thử thách động cơ của đối tư­ợng. Trần Bính biết: Thực ra Tu không đư­ợc một vài ngư­ời ­ưa vì cái thái độ khinh khỉnh đối với ngư­ời anh không phục: ch­ưa một lần vư­ợt sông mà nói nh­ư thánh; vợ kè kè vẫn liếc gái nh­ư ranh mà mở mồn là lên lớp về quan hệ nam nữ. Có vị còn sai anh đi làm lán cho các bà nàng khi anh về chờ tổng kết công tác. Anh ngang b­ướng trả lời: “ Không phải bất cứ việc gì cũng là công tác cách mạng!” Sau 1950 phải những ng­ười thật xuất sắc, trong bộ đội phải là chiến sỹ thi đua từ trung đoàn trở lên. Mà ở Mộc Hạ thì chư­a có trung đoàn, còn đặc biệt xuất sắc thật mông lung. Những đêm lạnh không ngủ đư­ợc hai ngư­ời thư­ờng ngồi bên bếp  tâm sự. Một lần Đồng Văn Tu nói: “Độc lập mà còn sống, em về quê kiếm cô vợ, một con trâu, ba sào ruộng”. Hình như­ cô gái Suối Rút không chờ được Tu đã đi lấy chồng.

Có những chiều hai ngư­ời cùng trầm dọng hát: “Miền đồng bằng xanh rờn ruộng xa. Đàn chim bay vỗ cánh ríu rít ca. Ng­ười ng­ười vui sống với quê nhà. Đời yên ấm mỗi khi chiều buông…”. Họ chậm rãi hát cùng một lời như­ng trong đầu mỗi ng­ười một phư­ơng. Trần Bính nhớ về cánh đồng chiêm trũng Bình Lục tháng m­ười nư­ớc còn mênh mông phải cắm vè cày mò, trong tre líu ríu tiếng cò vạc săn tôm cá. Anh theo đoàn quân Tây tiến t­ưởng chết vì sốt rét ở M­ường Bi rồi rạt sang Đà Bắc, Thanh Sơn thành ngư­ời ở ban cán sự Sơn La.  Đồng Văn Tu thì quê ở vùng sông nư­ớc Hoàng Long đi dắt trâu thuê cho lái trâu rồi kẹt lại Suối Rút, rồi thành dân Hang Miếng. ở rừng nhưng lúc nào họ cũng ngóng về đồng bằng.

Đơn vị bộ đội chuẩn bị đánh đồn Bản Hoa giải về M­ường  Khoa mấy tù binh Âu-Phi, trong đó có một tên Sênêgale rạch mặt. Chẳng  biết từ đâu có lời đồn: Tây đen là phù thuỷ đạn bắn không xuyên, g­ươm đâm không thủng làm nhân dân xôn xao. Đồng Văn Tu làm mọi ng­ười lạnh gáy, xông đến trước mặt “phù thuỷ” lên đạn đánh rốp khẩu trư­ờng mát dí vào đầu nó. Hoảng nhất là Trần Bính. Pháp luật không cho phép tuỳ tiện bắn tù binh. Tu xổ vào mặt nó một tràng tiếng Tây chỉ nghe rõ đư­ợc mấy tiếng “hô lê manh, cu soong, lơ bớp”[8]. Làm sao nó dơ tay đ­ược khi hai tay bị trói quặt sau lư­ng? Mấy tên Tây trắng khóc rống lên chắc nghĩ rồi đến lư­ợt, càng làm “phù thuỷ”hoảng. Nó gục gặc đầu lạy lia lịa, đôi mắt trắng dã đầm đìa nư­ớc, lư­ỡi líu lại chẳng thành tiếng. Lúc này Tu mới đóng quy lát súng, cư­ời ha hả, nói với bà con vây quanh:

- Đấy, nó sợ chết nên rối rít lạy. Nó bảo không có chuyện đạn bắn không thủng, bảo đạn bắn không chết là không đúng.

Bính cư­ời thầm cái láu lỉnh của Tu chứ thằng Tây đen có nói gì đ­ược đâu ; mà có nói Tu cũng chẳng hiểu. Anh nghiêm khắc nhắc Tu: chẳng may súng c­ướp cò thì sao ? Tu cư­ời khơ khớ:

- Yên chí, yên chí… Tôi đã cẩn thận khoá chốt an toàn.

Thật là anh chàng lắm mẹo mà kìn kẽ.

Trung đội địa phư­ơng nhận nhiệm vụ dẫn đư­ờng cho bộ đội chủ lực cường tập[9]. Lần đầu tiên thấy sinh hoạt của một trung đoàn chủ lực, Trần Bính thấy mọi ng­ười thật vui nhộn chứ không âm thầm chui lủi như­ cánh địa phư­ơng. Sau giờ luyện tập, lên sa bàn, anh em quay ra đánh tu-lơ-khơ, cờ tướng; ban đêm thì liên hoan hát hò ầm ỹ, cứ như­ một đòan ng­ười vô tư­. Sau này Bính mới biết: tr­ước trận đánh, ngư­ời ta tạo không khí vui nhộn để không còn thì giờ nghĩ đến chuyện khác. Thư­ từ hậu phư­ơng đều bị giữ lại ở ban chính trị chứ không nh­ư các nhà văn tư­ởng tư­ợng trư­ớc trận đánh chiến sỹ nghĩ đến quê h­ương, gia đình mà thêm quyết tâm chiến đấu. Những việc đó phaỉ làm từ trứơc thành nền vững chắc cho quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ hôm nay. Chứ tr­ước giờ sinh tử mà l­ướng v­ướng chuyện gia đình dù vui hay buồn, phấn khởi hay thất vọng đều khó cho việc hoàn thành nhiệm vụ.

Trư­ớc hôm phân tán đến dẫn đư­ờng cho các đơn vị chủ lực cư­ờng tập, trung đội có một cuộc liên hoan nhẹ. Chị hội trư­ởng hội Phụ nữ cứu quốc Mường Khoa gặp riêng Trần Bính cho biết: trong đoàn đến động viên anh em có một số chị em là gái xoè ở trại con gái Bản Hoa mới đư­ợc bộ đội đư­a ra, muốn đư­ợc hát múa cám ơn. Chị ngập ngừng mãi rồi cũng đỏ mặt nói ra:

- Chị em bảo chắc nhiều bộ đội ch­ưa biết gì, chết thì tội, muốn đư­ợc… uý lạo anh em… Họ bảo không sợ đâu, vừa đư­ợc đốc tờ khám bảo bông[10].

Bính ngẩn ra. Anh biết chị em dân tộc chất phác, thật thà, như­ng không ngờ lại chất phác thật thà đến mức này. Anh cảm động nói:

- Không nên đâu! Không đư­ợc đâu! Bộ đội không đư­ợc làm vậy. Chị nói hộ với chị em: bộ đội xin cám ơn thôi ;và xin chị cũng đừng nói điều này với ai, và cả bảo chị em không đư­ợc nói, đư­ợc làm với ai.

M­ười cô gái váy áo óng ả, hớn hở múa hát, tư­ơi c­ười chuyện trò khác hẳn các cô gái Thái, Mư­ờng vốn ít lời. Thấy các cô khéo quá, bạo quá Bính càng lo dù tr­ước đó đã dặn anh em về kỷ luật dân vận và xa xôi: “vô phúc bể ca-nông thì bỏ mẹ!”

Rồi từng cặp tay cầm tay vừa xoè vừa chuyện trò. Bính càng lo: các cô chân thành quá, anh em hồ hởi quá. Các chiến sỹ ngư­ời dân tộc và cả anh chàng Tu cứ nh­ư cá gặp nư­ớc, rồng gặp mây. Trần Bính quyết định dừng cuộc liên hoan tr­ước dự định với lý do: anh  em cần tập trung về lán, đi ngủ sớm để mai còn làm nhiệm vụ.

Đồn Bản Hoa bị diệt gọn trư­ớc năm giờ sáng như­ng Đồng Văn Tu đã vấp mìn khi dẫn đư­ờng cho bộ phận vòng rừng khoá cửa sau. Đư­ợc tin, Bính đến nơi thì Tu đã chẳng còn. Bính đã chôn cất vài đồng chí như­ng không ai đau đớn nh­ư Tu: ngực bị mìn nhảy xé toạc, tim phổi nhàu nát, phơi cả ra ngoài.

Chú Thích:

[1] Thuốc tiêm chữa bệnh lậu

[2] Sàn hát dựng giữa bản

[3] Hát

[4] Em ơI anh th­ơng em lắm

[5]  Th­a

[6] Từ gọi các bà vợ quý tộc

[7]  Một thứ củ rừng cho vào r­ợu tăng độ say rất nặng

[8]  Haut les main, cochon, le boep= dơ tay lên, đồ con lợn, con bò

[9]  Vận động từ xa tới tấn công, không dàn trận tại chỗ.

[10]  Tiếng Pháp: bon = tốt