Chúng ta thường hiểu một cách đơn giản, bảo vệ trẻ là nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ từ lúc lọt lòng cho tới tuổi trưởng thành. Nhưng muốn cho trẻ khi sinh ra được khỏe mạnh, nuôi dưỡng chóng lớn, ta cần phải bảo vệ trẻ em ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ.
Khi còn trong bụng mẹ, đứa trẻ sống hoàn toàn dựa vào người mẹ như một vật ký sinh. Sự trao đổi các chất dinh dưỡng đều phải tiến hành qua nhau thai, không có sự lưu thông trực tiếp giữa mẹ và con. Ở bánh nhau có một màng ngăn cách, qua màng này đứa trẻ nhận lượng oxy và các chất dinh dưỡng từ người mẹ truyền sang và thải các chất cặn bã cùng thán khí ra ngoài, qua tuần hoàn của người mẹ.
Thời gian trẻ sống trong bụng mẹ có thể chia ra làm hai giai đoạn chính. Giai đoạn 2, 3 tháng đầu là giai đoạn phôi, nghĩa là từ một tế bào (trứng) lớn lên phân chia và hình thành các bộ phận như não, tim, gan, bộ phận sinh dục và hình thành giới tính. Sau giai đoạn này, đứa trẻ tuy còn rất nhỏ chiều dài chỉ 3 - 5 cm, nhưng đã đầy đủ mọi bộ phận và bắt đầu giữa tháng thứ ba đến tháng thứ chín, đứa trẻ chỉ việc phát triển lên mà thôi.
Giai đoạn đầu
Giai đoạn phôi thai là giai đoạn hình thành các bộ phận; giai đoạn này rất quan trọng về mặt phát triển thai vì các dị tật bẩm sinh, nếu có đều có thể xảy ra trong giai đoạn này như thiếu hụt một hoặc nhiều bộ phận trong cơ thể như vỏ sọ, thiếu chân tay hoặc dị tật về các cơ quan nội tạng, tim, mạch máu, ruột, bộ phận sinh dục, không có hậu môn, á nam á nữ v.v.
Vì những lý do trên, việc bảo vệ sản phụ trong giai đoạn đầu rất quan trọng. Cần phòng bệnh tốt, nhất là những bệnh gây nên do siêu vi trùng và tránh dùng những thuốc có hại cho phôi.
Các bệnh của mẹ và cách dùng thuốc không đúng có thể làm cản trở sự phân chia tế bào hoặc làm cho sự phân chia không đúng với hướng nhất định.
Các loại bệnh do vi trùng, nhất là Rubeon (một loại bệnh như cúm) gây dị dạng ở tai, mắt và tim của phôi. Ở một số nước, khi người mẹ mới có thai trong 2, 3 tháng đầu, nếu chẩn đoán chắc chắn là bị nhiễm siêu vi trùng Rubeon, thì thầy thuốc chỉ định nạo thai, để tránh những hậu quả không hay sau này.
Vấn đề ăn uống cũng cần chú ý, vì nếu thiếu một vài loại vitamin cơ bản kéo dài cũng có thể gây ra những dị tật bẩm sinh cho đứa trẻ, thí dụ: thiếu vitamin A, D. Có trường hợp thiếu hụt bẩm sinh vitamin A, đứa trẻ sinh ra thấy da căng từng mảng, nứt nẻ, khô, co cứng các khớp, hạn chế cử động. Trường hợp nhẹ có thể khỏi, nhưng nặng quá có thể biến chứng nhiễm trùng chết. Cho nên để bảo vệ trẻ khi dùng thuốc và chỉ sử dụng những loại vitamin cần thiết cho thai.
Giai đoạn hai
Đứa trẻ đã phân biệt giới tính, có đầy đủ bộ phận và các tế bào chỉ việc phát triển, ta gọi là phát triển tổ chức. Đứa trẻ lớn và phát triển đều đặn. Thời gian phát triển thai trong dạ con có thể tính từ tháng thứ 3 tới hết tháng thứ 9, nhưng sự phát triển đó nhanh nhất là vào 3 tháng cuối, từ tháng 7 đến tháng thứ 9.
Trong tử cung người mẹ, thai phát triển bình thường trong 6 tháng đầu chỉ đạt tới 1.000 -1.200g, nhưng chỉ trong khoảng 12 tuần sau, thai tăng thêm 2.000g nữa. Như vậy sức lớn của thai tăng rất nhanh trong những tháng cuối, thời gian chỉ gần bằng 1/3, nhưng sự phát triển tăng gấp 2 lần.
Trong cơ thể trẻ mới sinh đủ tháng đã có sẵn một số kháng thể từ người mẹ truyền sang. Những chất này, chủ yếu là gama globulin, sẽ bảo vệ cho trẻ chống đỡ được một số vi trùng xâm nhập từ bên ngoài vào cơ thể.
Kháng thể và các chất dinh dưỡng khác truyền qua nhau thai rất nhiều trong giai đoạn 3 tháng cuối trước khi sinh. Do đó, nếu đứa trẻ ra đời thiếu tháng thì cân nặng và sức đề kháng sẽ giảm sút nhiều so với trẻ đủ tháng.
Để tăng sức khỏe cho người mẹ và bảo vệ tốt thai trong giai đoạn này, ngoài chế độ lao động hợp lý, người mẹ được tăng thêm khẩu phần ăn cho chất lượng đủ để cung cấp cho nhu cầu phát triển lành mạnh của thai.
Ở những tháng cuối giai đoạn 2 cần chuẩn bị cho khi sinh được tốt, chuẩn bị tư tưởng cho người mẹ. Thầy thuốc hoặc nữ hộ sinh phải giải quyết sao cho mẹ tròn con vuông, nghĩa là phải bảo đảm cho khi sinh được an toàn.
Khi chuyển dạ, những cơn co bóp của tử cung và thành bụng có ảnh hưởng đến sự lưu thông máu giữa mẹ và con, thai lại phải lọt qua đường sinh dục hẹp, nhất là trường hợp sinh con đầu lòng. Tất cả những hiện tượng đó dễ gây sang chấn đối với thai: tuần hoàn nhau thai bị giảm, lượng máu chuyển đến thai bị rối loạn và ít đi, thai bị ảnh hưởng ở trong tình trạng thiếu oxy. Đây là thời gian dễ xảy ra những biến chứng ngạt thai, suy thai trong bụng mẹ, nhất là khi sinh khó khăn, phải can thiệp bằng thủ thuật. Một số tai biến có thể xảy ra cho trẻ là sang chấn, choáng chấn thương gây rối loạn tuần hoàn não và từ đó có thể gây chảy máu não. Tất cả những sang chấn thực thể hoặc sinh lý đó, có thể gây nguy hiểm cho trẻ, không những ngay sau khi sinh mà còn có thể để lại những di chứng rất tác hại sau này như liệt chân tay, liệt mặt, câm điếc, đần độn, chậm phát triển về tinh thần. Dĩ nhiên, nếu người mang thai có tiền sử dễ bị đe dọa khi sinh, đặc bệnh là các bệnh tim, thận, huyết áp, thiếu máu, nhiễm độc. thì việc chăm nom và theo dõi càng phải cẩn thận và thường xuyên hơn. Theo dõi được như vậy mới bớt được những nguy hiểm cho trẻ như sinh non, sang chấn, ngạt, đó là chưa kể những biến chứng có thể xảy ra cho người mẹ.
Nếu đứa trẻ sinh ra non tháng, việc nuôi dưỡng khó khăn, cần phải có sự hướng dẫn của chuyên khoa trước khi ra viện. Nếu đứa trẻ đã được theo dõi và điều trị tích cực sau sinh, thì khi có điều kiện thầy thuốc phải theo dõi sự phát triển của trẻ trong một vài năm đầu qua phòng khám trẻ em lành mạnh, để xem sự phát triển về thể chất và tinh thần có được bình thường không?