Sáng hôm sau, Marion thức dậy với cảm giác thư giãn và tươi tỉnh. Nàng mỉm cười nhìn nóc mùng qua đôi rèm mi khép hờ, cố nhớ lại giấc mơ của mình. Các chi tiết thật mơ hồ, nhưng nàng biết Brand đã có mặt trong đó, và nàng cảm thấy ngập tràn hạnh phúc.
Cảm giác lâng lâng của nàng đã tan biến khi hiện thực kéo về. Hôm qua, họ đã tìm thấy thi thể của John Forrest. Ông ta đã bị giết hại thật dã man vào đêm hôm trước.Ngài Robert lại là nghi phạm chính. Ngay cả bây giờ, ông ta đang bị truy lùng để thẩm vấn. Bà công tước không thể tự kiềm chế được nỗi đau buồn, và Brand lại càng tan nát. Còn có thím Theo- thím sẽ đau buồn bởi cái chết của Jonh Forrest. Ai biết được thím ấy sẽ nghĩ gì về chú Robert?
Thở dài, nàng đẩy tấm chăn khỏi người và đứng dậy. Nàng còn có những cô em cần đến mình, cũng như Flora. Ai đó phải có mặt để xoa dịu nỗi sợ của họ. Nhưng sẽ có ai để xoa dịu cho nàng? Brand, nàng biết, đang ở ngôi nhà Grange với Ngài Robert, và sẽ không rời khỏi đến khi trấn trưởng nói chuyện với chú ấy.
Nơi này có một mùi hôi nồng nặc. Nàng có thể cảm nhận được nó đang thấm vào trong mình. Nếu nàng không rời đi, nàng sẽ bị ngạt thở bởi thần kinh bị tấn công.
Sửa sang lại đầu tóc không lấy mất của nàng hơn mười lăm phút, và vài phút sau đó, nàng tiến bước vào phòng ăn sáng. Những người có mặt duy nhất là Emily và Bà Cutter. Cả hai trông chán nản y như nàng, mặc dù Emily đã cố nặn ra một nụ cười.
“Chúng ta là những người chậm trễ”, Emily nói: “Những người khác đã dùng bữa sáng và ra ngoài lo việc. Trứng đã bị lạnh, nhưng trà thì vừa pha và nóng hổi.”
“Hai cô bé đâu rồi?”
“Họ đã ra ngoài với Clarice và Oswald để đi ngắm biển.Chỉ có sáu dặm từ đây, vì thế em đã cho phép. Hai đứa sẽ có một khoảng thời gian thú vị ở đó, chị Marion ạ, và em nghĩ ở đó sẽ tốt hơn cho hai đứa hơn là ở đây.”
Marion gật đầu. Một chuyến đi đến bên bờ biển là điều mà nàng hứa với Phoebe trước khi họ rời khỏi Huyện Lake. Không biết sao mà chị em họ chưa bao giờ hoàn thành lời hứa ấy? Nàng nhìn Bà Cutter. Người phụ nữ đáng thương đang chìm trong thinh lặng, điều này không giống bà chút nào.
Công việc với Ngài Robert đã bắt đầu khiến bà mệt mõi.Như Marion nhớ, Ngài Robert là người Bà Cutter yêu thích nhất. Marion bốc đồng nắm lấy tay Bà Cutter siết nhẹ. “Brand đang ở với Ngài Robert,” nàng nói. “Anh ấy sẽ không cho phép bất kỳ tổn hại đến với chú ấy.”
Một tia sáng lóe lên trong đôi mắt thẫn thờ, Bà Cutter mỉm cười. “Cô thật tốt bụng, cô gái đáng yêu, nhưng tôi không lo lắng về Robert. Andrew vừa ở đây với một tin nhắn từ Brand. Cậu ta bảo rằng Robert có một lời giải thích hoàn hảo cho sự vắng mặt khỏi Priory.
Không. Chính là công tước nương nương khiến tôi bận tâm. Những vụ việc này thật gây nhiều khó khăn cho bà ấy. Tôi không biết làm thế nào mà mọi thứ lại sai trái ngần này.”
Bà đứng dậy. “Ngồi xuống đi, Marion, và tôi sẽ rót cho cô một tách trà.”
“Tôi có thể tự làm được-”
“Không, không. Có vấn đề gì đâu.”
Marion ngồi xuống, lấy một mẩu bánh mì nướng và bắt đầu nhâm nhi nó.
“Andrew đã ở đây sao?”
Emily gật đầu. “Hiện giờ cậu ta đang ở với bà nội của cậu ấy, và ngay sau khi chú Robert nói chuyện với trấn trưởng và xóa đi sự nghi ngờ về chú ấy, mọi người sẽ tụ tập lại đây.”
“Chị biết rồi.” Marion sẽ cảm thấy khá hơn nếu thông tin được đến sau khi trấn trưởng đã nói chuyện với chú Robert. Cho đến khi điều đó xảy ra, thông điệp của Andrew không khác gì một sự bảo đảm trống rỗng, giống như lời nàng nói với Bà Cutter.
“Cám ơn”, nàng nói khi Bà Cutter đặt tách trà và dĩa của nàng lên bàn.
Emily nói: “Có một tin nhắn từ Brand cho chị, nhưng nó không có nghĩa gì cả.”
“Tin nhắn gì?”
“Đọc lấy tâm trí của anh?”
Để che đậy nụ cười lố lăng của mình, Marion vươn tay lấy tách trà và uống một ngụm trước khi nàng nhận ra nó nóng đến mức nào. Nàng ho và thở hổn hển đến khi nước mắt lưng tròng.
“Tôi đã tự làm bỏng lưỡi mình rồi,” nàng la lên. Bà Cutter nhanh chóng đổ thêm sữa vào tách trà của Marion để làm nguội nó. “Thử uống nó vào đi”, bà nói. Marion uống một ngụm dài. Bây giờ tách trà đã lạt nhách, và nàng không thích nó tí nào. Nhưng Bà Cutter có vẻ rất hài long với bản thân nên nàng nỡ lòng để yêu cầu một tách khác.
“Tốt hơn rồi”, Marion nói và uống thêm một ngụm nữa. Một suy nghĩ chợt nảy ra trong nàng. “Theodora có biết Robert đã được tìm thấy không?”
Emily nói qua đôi môi mỏng của mình: “Thím ấy đã có mặt khi Andrew đến. Bình luận duy nhất của thím ấy là muốn xem qua các thứ trên bàn của John Forrest, để đảm bảo mọi thứ vẫn còn trật tự. Bây giờ thím ấy đang có mặt ở đấy với viên cảnh sát và ông Manley”.
Bà Cutter tặt lưỡi. Một bức màn trầm lắng bao trùm quanh chiếc bàn. Marion thở dài, với lấy đĩa mứt, và múc muột muỗng đầy để lên đĩa bên cạnh lát bánh mì nướng của mình.
“Tôi tin rằng ông Manley sẽ tư vấn cho thím ấy về những cái chuồng của thím?” Khi không có ai trả lời, nàng cố gắng một lần nữa.
“Kế hoạch cho buổi sáng nay là gì, Emily?”
“Không gì cả”. Emily nuốt cái ực và nhìn xuống những lát bánh mì nướng thừa trên đĩa của mình. “Em cảm thấy khủng khiếp. Em vẫn không thể tin vào những chuyện đã xảy ra. Nó giống như một cơn ác mộng.”
Marion kéo mình khỏi những nỗi lo âu của bản thân. “Lý do hơn hết”, nàng nói: “để tìm cái gì đó giúp gạt những sự kiện khủng khiếp này khỏi tâm trí em. Em nên đi dạo bờ biển với Clarice và Oswald. Vì em ko đi, chị đề nghị em để Andrew đưa em đến gặp bạn của em - Ginny. Đi mua sắm với cô ấy, hoặc đi thăm viếng những bạn bè khác. Làm những gì mà tuổi trẻ bọn em cần làm”.
Emily tươi tỉnh hơn một chút. “Sao chị không đi với em?”
Marion lắc đầu. Nàng đã có kế hoạch riêng cho sáng nay. “Chị không có sức”, nàng nói. “Chị nghĩ mình sẽ đọc một quyển sách và bầu bạn với Bà Cutter”. Nàng nhìn Bà Cutter.
Bà Cutter gật đầu. “Hay là đi dạo đi? Tôi muốn cho cô thấy khu vườn thảo mộc của tôi.”
“Tại sao không nào?” Marion nói.
Bà Cutter rạng rỡ. “Chỉ cần cho tôi một khoảng khắc, tôi sẽ báo cho công tước nơi tôi sẽ đi”.
Trong khi vội vã rời đi, Emily nói: “Em nghĩ chị đã làm cho ngày của bà ấy được đáng giá.” [ý là khiến bà ta được vui].
“Phải, bà ấy ở một mình quá nhiều rồi. Công tước nương nương thật không thích hợp bầu bạn với bà ấy mấy, phải không nào?” Marion nhấp một ngụm trà và nhăn mặt. “Nếu có một thứ gì chị ghét, thì chính là trà nhạt nhẽo.”
Khi Bà Cutter trở lại, tách trà khó uống đã được dọn đi bởi người hầu và Marion đang nhấp một tách mới.
Bà Cutter rất thật nhộn nhịp. Nếu lúc trước bá ấy yên tĩnh một cách lạ lùng thì bây giờ lưỡi của bà ta ba hoa như một con ngựa phi nước đại. Điều này thật vinh hạnh. Lớp trẻ hiện nay không dành thời gian cho người lớn tuổi. Chúng không đi dạo chỉ vì niềm vui của nó, mà để đi mua sắm hoặc ghé thăm ai. Chúng luôn ở trong các cỗ xe. Và danh sách cứ tiếp tục.
Marion đáp lại những câu mà nàng hy vọng là sự hưởng ứng thích hợp, nhưng tâm trí của nàng lại tập trung vào con đường họ đang đi. Đây là con đường mà Clarice chắc đã đi qua vào cái đêm nàng bỏ chạy sau khi nhìn thấy bóng ma của nhà sư.
Họ vượt qua nhà kính bên tay phải, nơi nhà ăn nằm trong thời đại xa xưa. Nhà kho là nơi tử thi của ông Forrest đã được tìm thấy, mặc dù được giấu dưới bụi dâu rậm rạp. Mặt trời lên cao và không khí trở nên nóng nực. Những con nhạn biểu diễn những cú nhào lộn trong không trung, và trên những bụi hoa, ong bướm như đang nhảy nhót trong hân hoan hạnh phúc.
Thật khó để tin rằng trong thiên đường nhỏ bé này lại ẩn nấp rất nhiều tội ác đến thế.
Bước vài bước xuống con đường mòn, mọi thứ đã thay đổi.Những tia nắng thấm qua hàng cây rậm rạp, điểm lốm đốm bóng mát xuống đường. Không có nhạn, ong hay bướm. Những con nhện giăng lưới để lừa những nạn nhân bất cẩn của chúng. Những con chồn lãng vãng trong bóng râm. Những con mèo cục súc hoang dã vẫy đuôi, cơ bắp cuồn cuộn trước khi vồ con mồi.
Marion cười run rẩy. Vì thế này nên nàng và Clarice đã dọa nhau đến khiếp. Bọn họ nhất định phải là những đứa trẻ kinh khủng.
Đến một ngã ba, Bà Cutter do dự. “Đây là đường đến vườn thỏa mộc”, bà nói.
Con đường bà chỉ được phủ đá thật đẹp. Con đường đến dẫn đến Yew Cottage trải tràn với bụi tật lê và cây tầm ma.
Marion nói: “Tôi tưởng chúng ta đi đến bục giảng tại nhà ăn. Nó chỉ là một đoạn đường ngắn tờ đây thôi. Và đó là nơi Clarice và tôi thường chơi đùa khi còn thơ ấu.”
“Tôi không chắc có thể chịu được sườn dốc.” Mặt Bà Cutter tươi lên. “Hay là tôi đi đến vườn thảo mộc để chuẩn bị mọi. Khi nào cô xem xung quanh xong rồi, cô có thể đến với tôi. Chuyến đi sẽ không quá lâu với cô. Không có nhiều thứ để xem đâu.”
Marion không chắc rằng họ nên rời nhau.
Như thể đọc được tâm trí của cô, Bà Cutter nói: “Nếu tôi hét lên, cô sẽ nghe thấy tiếng tôi mà. Và cũng có những người làm vườn ở gần bênh. Nào, đừng đi quá lâu nhé.”
Trong lời chia tay đầy niềm tin ấy, bà ta vẽ đường dẫn đến khu vườn thảo mộc.
Bục giảng tại nhà ăn nằm ngay bên cạnh những tàn tích của những gì đã từng là nhà của trụ trì và các ký túc xá cho khách tham quan. Những tòa ốc được xây dựng sau này đã biến mất không một dấu vết dưới đám bụi cây và sự tàn phá bởi những thế hệ dân làng tiếp theo mà đã khuân đi từng viên gạch từ bức tường để sử dụng cho việc riêng của họ. Chỉ đến khi nhà dòng Priory vào tay của dòng họ FitzAlan thì những kẻ xâm lấn được báo phải tránh xa và những sự xâm lấn mới chấm dứt.
Bục giảng này phần lớn không bị ảnh hưởng. Marion đoán rằng người dân địa phương đã coi di tích này là quá thánh thiện để phá vỡ và bức tượng điêu khắc của sư trụ trì đã đánh dấu vị trí nơi cư trú cũ của mình đã từng đứng. Cây cối không xâm lấn đến đây, và Marion có một cái nhìn rõ ràng về bục giảng khi nàng bước vào một khoảng trống.
Bục giảng lớn hơn nhiều so với ký ức nàng, và đối với một đứa trẻ nó có vẻ trông giống như một ngọn tháp. Nàng bước lên các bậc đá và đếm mười hai-có thể là một con số linh thiêng, mỗi bước thể hiện một trong các tông đồ. Từ vị trí thuận lợi này, người diễn thuyết có thể nhìn xuống trên đầu của các nhà sư trầm lặng khi họ dùng bữa. Bất kì ai bị chứng chóng mặt khi leo lên mỏm đá này đều phải bám chặt vào gờ đá như nàng đang làm.
Khi nàng và Clarice nằm đây chờ đợi con ma của mình, tất cả mọi thứ được ẩn trong bóng tối, vì thế họ không ý thức được họ sẽ ngã lăn xa như thế nào nếu họ lỡ một bước. Hoặc có thể lúc ấy nàng lại gan dạ hơn. Có thể nàng đã trèo lên bậc thềm vào ban ngày và chứng chóng mặt không khiến nàng sợ hãi. Nàng không thể nhớ. Đấy mới là phiền phức. Không có sự khám phá điên đảo nào nảy ra với nàng đến mức nàng có thể kêu lên “Hóa ra là thế!”
Nàng muốn đến đây để diễn lại cảnh ấy, và mặc dù nàng nghĩ rằng bài tập sẽ là vô ích, ít nhất nó cũng đáng giá để thử. Hít vào thật sâu, nàng nhắm mắt lại và thử đem tâm trí mình trở lại cái đêm nàng chờ ở Yew Cottage cho cuộc tranh cãi đến kết thúc để nàng có thể trốn ra với Clarice.
Rồi dì Hannah rời khỏi nhà. Điều tiếp theo Marion nhớ là đã trèo lên con đường đến bục giảng. Nàng biết mình đã đến trễ và thắc mắc không biết Clarice có còn chờ mình chăng. Trên đường đi, nàng thông qua các tác phẩm điêu khắc của nhà sư trụ trì đầu tiên và làm dấu thánh giá. Không phải nàng là người Công giáo. Đó là một nghi lễ, một dấu hiệu của sự tôn kính mà nàng và Clarice đã nghĩ ra mà thỉnh thoảng lại giúp họ tin tưởng vào thế giới mà mình đang sống.
Làm sao nàng có thể quên điều đó?
Nó là một sự giải khuây tuyệt vời khi nàng nhìn thấy ánh sáng trong bục giảng, đung đua sang hai bên. Nàng đếm các bước đi khi nàng leo lên từng nấc một. Thì thầm những lời chào nhau, sau đó Clarice thổi tắt đèn lồng và họ gập người xuống để chờ những sự kiện.
Nàng không biết thời gian trôi qua bao lâu, không biết nàng hay Clarice nghe trước. Một con chó đang rên rỉ, rồi sủa. Họ từ từ nâng mình và nhìn qua mép của bục giảng. Ánh đèn đã được thả nổi trong không khí, di chuyển về phía họ, và một âm thanh ma quái theo sau, dường như âm hồn đang gọi con chó ấy.
Đó là khi Clarice dông triệt để.
Marion nhớ lại mình chìm người xuống và nhắm mắt lại. Nàng lạnh cứng trong khiếp sợ. Bóng ma của sư trụ trì đang tiến đến để bắt nàng, và không chỉ trụ trì, mà còn có con chó của ông ta.
Điều gì xảy ra tiếp theo?
Nàng nhớ con chó liếm mặt mình. Nó đã tìm thấy nàng ở bục giảng. Nàng có thể phát khóc với sự nhẹ nhõm. Không phải con chó của sư trụ trì, là Scruff, con chó của dì Hannah. Điều này có nghĩa là không có ma. Chỉ là dì Hannah đang đi tìm kiếm con chó của mình. Scruff là một con chó cứ đi lang thang, luôn luôn bị lạc.
Vì vậy nàng rời khỏi bục giảng và chạy về phía ánh sáng, gọi tên dì Hannah. Scruff bắt đầu rên rỉ, và dì Hannah không trả lời. Giờ bắt đầu hoảng sợ, nàng lui một bước, sau đó quay đầu và bỏ chạy. Scruff đã không chạy theo nàng.
Nàng ấy đã thấy gì?
Hai ánh sáng. Hai người. Nhưng dì Hannah không có ở đó, nếu không dì đã phải trả lời Marion.
Nàng mở mắt ra. Từ chỗ của nàng trên bục giảng, nàng có một cái nhìn không bị cản trở đến các khu vường thảo mộc. Nàng nhìn chăm chăm vào nó trong một thời gian dài, sau đó chuyển sang nhìn nhà của trụ trì đã từng một lần đứng đấy, và hơi thở vội vã thoát khỏi lòng phổi của mình. Nàng đã có ý tưởng đúng về những gì đã xảy ra với dì Hannah những năm trước, và không một nghi ngờ khi biết rằng, nơi nàng tìm thấy là một nơi an nghỉ khủng khiếp.
Đi xuống các bước bục giảng còn khó khăn hơn là khi lên. Nàng cảm thấy một cơn choáng váng, và nắm chặt vào gờ đá để từ từ đi xuống. Nàng cau mày khi nhìn thấy Bà Cutter đang chờ mình, nhưng một cơn choáng váng khác lại đến khiến nàng cảm thấy vui mừng vì đã có ai đó phía dưới để giúp mình.
“Tôi thắc mắc không biết điều gì đã xảy ra với cô,” Bà Cutter cho biết: “Vì thế tôi nghĩ rằng tôi nên đến và tìm hiểu.”
“Tôi cảm thấy chóng mặt”, Marion nói. “Mọi chuyện xảy ra thật là quá sức chịu cho tôi.”
“Nắm lấy tay tôi, cô gái đáng yêu ạ,” Bà Cutter nói, sau đó cười, một nụ cười êm dịu và thận mật, đủ kì quặc để mang đến một trận tê đến cột sống của Marion. “Đúng vậy, hãy dựa vào tôi, và tôi sẽ chăm sóc cho cô. Tôi không yếu đuối như vẻ ngoài đâu.”
Brand đưa trấn trưởng ra khỏi khu vực và trở về thư viện, nơi chú Robert và cậu Andrew đang uống café. Chàng đã trút bầu tâm sự của mình với cả hai, kể cho họ biết tất cả mà chàng biết được về Hannah từ bức thư của Edwina, và cảm thấy nhẹ nhõm hơn trong tâm trí khi chia sẻ gánh nặng ấy. Chú Robert trong có vẻ sáng sủa hơn sau một đêm ngủ kỹ, và trở lại làm chính mình hơn khi mặc vào quần áo của mình. Andrew đã mang chúng đến từ Nhà dòng Priory trước đó, nhưng không có tin nhắn từ thím Theodora.
“Em nghĩ rằng mọi thứ diễn biến khá tốt đấy”, Andrew nói.
Robert cười cụt lủn. “Nếu cháu có thể gọi theo một lời bóng dó rộng là không được rời khỏi khu vực nhà mình là ‘khá tốt’.” Một cái nhìn suy tư hiện lên trên khuôn mặt chú ta.
“Hãy nhìn vào mặt tích cực,” Brand cho biết. “Ngài Basil không biết gì về lịch sử cổ đại kia. Ông ta không biết về dì Hannah và sự tham gia của chú...” Ánh mắt của Robert đã làm thay đổi điều chàng định nói. “...vấn đề của chú với cô ta.”
“Đương nhiên là cháu nói đúng”, Robert nói, và nuốt gọn một ngụm café. “Chú không phải đang nghĩ về Ngài Basil, mà là...”
“Thím Theo?” Andrew tiếp lời khi Robert do dự.
“Không. Mẹ tôi.”
“Bà nội?” Andrew nhìn khó hiểu.”
Robert nuốt một ngụm café. “Chú luôn thắc mắc không biết bà có biết về Hannah không. Chú nghĩ bà ấy nhất định phải biết. Chú nghĩ bà ấy tin rằng chú đã ngoại tình với cô ta.”
Chú nhún vai một cách bất lực. “Chú không thể chạm chỉ định rõ ràng vào một chuyện gì, nhưng đôi chú bắt được một ánh mắt từ khuôn mặt của bà khiến cho mình cảm thấy cắn rứt lương tâm”.
Trong mắt chú đầy vẻ lo toan. “Liệu bà ấy có nghĩ là chú có liên quan đến việc dì Hannah bị mất tích chăng?”
“Không”, Andrew quả quyết. “Nhưng chú sẽ cảm thấy lương tâm cắn rứt. Bà lo lắng cho chú và mong chú sẽ chững chạc hơn. Mọi người đều lo lắng cho chú cả.”
Robert dành cho cậu bé một nụ cười ngọt ngào.
Những suy nghĩ của Brand rẽ theo một ngõ ngoặc sắc bén. Chàng nhớ lại ngày đầu tiên mình trở lại Longbury, khi chàng ghé thăm nhà dòng Priory. Chàng đã đặt câu hỏi về dì Hannah, và bà của chàng đã tỏ vẻ khó chịu. Ô, đúng rồi, chàng nghĩ. Bà công tước đã biết rõ về vụ tình yêu vụng trộm không có thật và tất nhiên cũng có những nghi ngờ của riêng mình. Bà không muốn chuyện cũ sống lại hoặc nghi ngờ ngã về Robert. Bà đã phải chịu đựng biết bao nhiêu trong bấy nhiêu năm qua.
Brand ngồi xuống, nhưng một đổi sau chàng lại đứng lên.
Thấy chàng cứ lồng lộn trong giây lát, Robert nói: “Cháu đang rất bồn chồn. Có chuyện gì thế?”
“Không có gì. Cháu đã bị nhốt tại nơi này quá lâu rồi.”
Chàng ngồi xuống một lần nữa, gác chân này qua chân kia, sau đó lại gác ngược lại.
“Cháu còn tệ hơn là bất an,” Robert nói. “Chuyện gì vậy, Brand?”
Brand nhún vai. “Vài chuyện nhỏ cứ canh cánh trong cháu, và cháu không biết liệu chúng có ý nghĩa gì không nữa.”
“Chẳng hạn là chuyện gì?”
“Cháu đang nghĩ về con chó.” Brand suy tư một lúc. “Khi chú bảo với cháu rằng đã gặp dì Hannah tối hôm đó, chú không đề cập đến một con chó.”
“Con chó của Theo,” Robert nói và gật đầu. “Không phải là nó quan tâm đến mình thuộc về ai. Tên của nó nên là Casanova. Nó luôn khám phá đó đây, và sẽ gắn mình với bất kì người phụ nữ đẹp nào mà nó thích. Đó là cách Hannah đã bắt lấy được nó ngay từ đầu. Và chú không đề cập đến nó vì nó không có ở đó. Điều đó có quan trọng không?”
“Cháu không biết. Clarice nói rằng cô ấy nghe được một vài âm thanh rên rỉ của một con thú đáng thương, và Marion nghĩ rằng cô ta đã nghe tiếng một con chó sủa. Cháu không thích những đầu mối không có kết thúc, chỉ vậy thôi.”
“Điều đó dễ dàng để giải thích thôi. Sau khi tôi trở lại ngôi nhà, con chó xổng ra ngoài. Tôi không có tâm trí đuổi theo nó. Nhưng nó đã trở lại ngày hôm sau.”
“Ai tìm thấy nó, thím Theodora?”
“Không. Bà Cutter.”
“Khi nào? Bằng cách nào?”
Robert nhún vai. “Tôi không mảy may biết. Nó cứ mãi đánh hơi xung quanh vườn thảo mộc của bà ấy, đào lên những cây cỏ quý giá của bà ta. Có lẽ đó là nơi bà ta tìm thấy nó.”
Tâm trí của Brand làm việc nhứ chớp. “Chuyện gì đã xảy ra với con chó?” Chàng hỏi.
“Sao? Ôi, con vật đáng thương nuốt phải thuốc chuột mà chúng tôi tin rằng những người làm vườn đã để ra lũ chuột bọ. Đương nhiên bọn họ chối bỏ điều đó. Bọn họ không được phép để chất độc ở nơi mà bất cứ đứa trẻ đi lạc nào cũng có thể lấy được. Đừng quên, luôn có đám trẻ ở những ngày lễ hội.”
Brand đứng dậy. “Cháu nghĩ rằng,” chàng nói: “cháu sẽ đi dạo một chút”.
Chàng đã đứng ngay tại cửa trước khi một ý nghĩ đập vào não chàng. “Chuyện này đã xảy ra lâu hay mau sau sự biến mất của dì Hannah?”
“Ý của cháu là con chó bị chết khi nào à? Ngay trước lễ Giáng sinh. Xem ra chắc khoảng sáu tháng hay sao đó. Chú nhớ bởi vì Bà Cutter muốn tặng cho Theo một con chó con dịp Giáng sinh, nhưng chú phải nói với bà ấy rằng đó không phải là một ý tưởng hay. Theo không bao giờ muốn một con chó khác sau chuyện đó.”
“Cảm ơn”. Brand rời phòng. Andrew hỏi: “Tất cả việc này là sao?”
“Chú nghĩ rằng”, Robert nói một cách thú vị: “Brand biết ai là hung thủ.”