Bức Thư Tình Cuối

Chương 3

‘Chân dung. Của một nhà công nghiệp.’ Chiếc bụng phệ của Don Franklin dường như sắp bật ra khỏi khuy quần. Những chiếc khuy áo, ở phía trên đai quần, bị bật nút do sức ép quá lớn, để lộ khoảng da tái trắng bên trong. Ông tựa lưng vào ghế và nghiêng ly nước tì vào trán. ‘Đó là “mệnh lênh” của ban Biên tập, O’Hare ạ. Ông ấy muốn một bài phóng sự bốn trang về những mỏ khoáng sản kỳ diệu để đổi lấy quảng cáo.’

‘Tôi có biết quái quỷ gì về mỏ khoáng sản và nhà máy đâu? Lạy Chúa, tôi là phóng viên ban đối ngoại mà.’

‘Cậu đã từng là phóng viên đối ngoại,’ Don sửa lại. “Nhưng chúng tôi không thể để cậu làm ở vị trí đó nữa, Anthony, cậu biết điều đó mà. Tôi cần một ai đó làm cho ra làm. Cậu không thể chỉ suốt ngày ngồi đây bày bừa một đống giấy lộn trên bàn.”

Anthony thả phịch người xuống chiếc ghế đối diện bên kia bàn và rút ra một điếu thuốc.

Đằng sau bàn của biên tập viên chính, người anh vừa thoáng thấy qua vách ngăn bằng kính của văn phòng, là Phipps, phóng viên tập sự. Anh ta đang xé từ chiếc máy tính ra ba trang giấy anh ta vừa đánh máy, mặt đầy bối rối, và đặt vào giữa chúng hai tờ giấy than.

‘Tôi đã từng thấy cậu viết về đề tài này. Cậu có thể làm chúng hấp dẫn.’

‘Vậy là, không phải viết về chân dung. Một bài báo khuếch trương. Một bài quảng cáo lố bịch.’

‘Ông ta hiện làm việc ở Congo. Cậu biết đất nước này mà.’

‘Tôi biết thể loại người sở hữu những mỏ khoáng sản ở Congo.’

Don giơ tay xin một điếu thuốc. Anthony đưa cho anh ta một điếu và châm lửa. ‘Cũng không tồi tệ như cậu nghĩ.’

‘Không?’

‘Cậu nên tìm cách tiếp cận ông ta tại dinh thự nghỉ dưỡng mùa hè của ông ta ở miền Nam nước Pháp. Riviera. Những ngày nắng đẹp, ăn tôm hùm miễn phí, biết đâu còn được gặp cô nàng Bridget Bardot… Cậu phải cảm ơn tôi mới đúng.’

‘Cử Peterson đi. Anh chàng đó thích những thứ như vậy.’

‘Peterson đang phải làm phóng sự về tay sát thủ chuyên giết trẻ em người Nauy.’

‘Vậy thì Murfett. Anh ta vốn thích lê la.’

‘Murfett đã đi Ghana để viết về bất ổn chính trị ở Ashanti rồi.’

‘Anh ta ư?’ Anthony hỏi đầy hoài nghi. ‘Anh chàng đó còn chẳng viết nổi câu chuyện về hai thằng con trai đánh nhau trong buồng điện thoại. Thứ chết tiệt nào lại cử anh ta đi Ghana?’ Anh hạ giọng năn nỉ. ‘Hãy cử tôi tới đó, Don.’

‘Không.’

‘Có thể thỉnh thoảng tôi hơi mất trí và say rượu nhưng tôi vẫn còn làm tốt gấp mấy lần Murfett. Anh biết rõ điều đó mà.’

‘Vấn đề của cậu, O’Hare, là cậu không biết khi nào mình tỉnh táo.’ Don khom người về phía trước và hạ giọng. ‘Nghe đây – đừng có lảm nhảm nữa và hãy nghe lời tôi. Sau chuyến đi Châu Phi của cậu, sẽ còn nhiều chuyện để nói với cậu đấy’ – ông ta làm dấu ra hiệu về phía phòng trưởng ban biên tập – ‘về việc có nên để cậu ở lại hay không. Vụ xảy ra vừa rồi… Họ lo lắng cho cậu đấy. Họ cũng xem xét hoàn cảnh của cậu và đã quyết định vẫn trả lương cho cậu. Ngay cả khi cậu ở trong tình cảnh…’ ông lại làm một cử chỉ khó hiểu ‘… cậu biết đấy.’

Anthony không hề tỏ ra bối rối.

‘Thực ra họ không muốn cậu làm nhiệm vụ gì quá… căng thẳng. Vậy nên cố gắng kiềm chế, chuẩn bị sẵn sàng tới Pháp và phải thấy là cậu rất may mắn được giao công việc này vì chẳng mấy khi có cơ hội được ăn tối dưới chân đồi thành Monte Carlo hào nhoáng đâu. Có khi cậu lại còn gặp ngôi sao nào đó ý chứ. Biết đâu đấy.’

Một khoảnh khắc im lặng kéo dài.

Khi thấy Anthony dường như chẳng có vẻ gì hào hứng, Don dụi điếu thuốc. ‘Cậu thực sự không muốn làm à?’

‘Không, Don. Anh biết tôi không hề thích. Bắt đầu bằng mấy thứ này, chẳng mấy chốc nữa là anh bắt tôi viết về sinh đẻ, cưới xin về chết chóc đâu.’

‘Lạy Chúa. Cậu là thằng khùng ngang bướng O’Hare ạ.’ Ông với tay lấy một mẩu giấy có mấy dòng chữ đánh máy trên đó. ‘Vậy thì cầm lấy cái này. Vivien Leigh sắp bay qua Đại Tây Dương và cắm trại ngay ngoài nhà hát mà anh chàng Oliver đang diễn. Chắc chắn là anh ta sẽ không nói chuyện với cô nàng và cô nàng kể với chuyên mục chuyện phiếm là không biết vì sao. Tìm hiểu hộ tôi liệu họ có ly dị không? Viết thêm cho tôi một bài tả cảnh xem cô nàng mặc gì lúc anh ở đó.’

Lại một khoảnh khắc im lặng kéo dài. Ở bên ngoài, Phipps đã đánh xong ba trang giấy, vỗ vỗ trán, thỉnh thoảng thốt ra vài từ tục tĩu.

Anthony dụi điếu thuốc và nhìn sếp mình một cách vô cảm. ‘Được rồi, tôi đi sắp xếp hành lý đây.’

Có điều gì đó ở đám người cực giàu khiến anh luôn cảm thấy muốn chỉ trích thật cay độc, vừa mặc quần áo cho bữa ăn tối Anthony vừa nghĩ. Có lẽ là do vẻ ngoài cố hữu của những người hiếm khi thể hiện sự mâu thuẫn, sự khoa trương của họ khi mà những lời lẽ dù rất buồn tẻ của họ cũng khiến những người xung quanh phải kiêng nể.

Lúc đầu anh nghĩ Laurence Stirling không khó chịu như anh tưởng: ông ta tỏ ra lịch sự, nghe chăm chú những câu hỏi của anh, cách nhìn nhận của ông ta về nhân viên cũng khá thông thoáng. Nhưng dần dần, Anthony phát hiện ra ông là một người luôn đặt khả năng kiểm soát sự việc xung quanh lên đầu. Ông chỉ đơn giản là nói cho mọi người nghe, chứ không phải cần thông tin từ phía họ. Ông ta hầu như chẳng quan tâm tới bất kỳ điều gì khác ngoài cuộc sống và công việc trong giới của ông. Ông ta tẻ nhạt, nhưng giàu có và thành đạt đủ để không muốn thử làm một người khác.

Anthony vuốt cho phẳng chiếc áo khoác, tự hỏi sao mình nhận lời tới dự bữa tối, Stirling mời anh khi kết thúc buổi phỏng vấn, và trừ người gác cổng ra, anh buộc phải thừa nhận là anh không biết một ai khác ở Antibes và anh cũng chẳng có kế hoạch gì ngoài việc trở về khách sạn ăn qua loa gì đó. Sau đó khi nghĩ lại anh ngờ rằng Stirling mời anh ăn tối để anh viết về ông một cách trung dung. Cho dù anh nhận lời một cách miễn cưỡng, Stirling ra lệnh cho tài xế tới tận khách sạn Cap đón anh lúc bảy giờ rưỡi tối. ‘Cậu không thể tìm thấy nhà tôi đâu,’ ông nói. ‘Nó nằm khá khuất nẻo sau đoạn dốc.’

Chắc hẳn thế, Anthony nghĩ thầm. Stirling có vẻ là một người không thích những cuộc xã giao tầm thường.

Phục vụ cửa khách sạn bật dậy như tên bắn khi thấy chiếc limousine đến đón anh đỗ ngoài cửa. Anh ta phóng như bay về phía cửa, khuôn mặt lúc trước gặp anh còn lạnh như tiền giờ nhìn anh rạng rỡ với một nụ cười.

Anthony không thèm để ý tới anh ta. Anh vẫy tay chào tài xế và bước vào ngồi ngay ghế trước – có vẻ như, sau này anh nhớ lại, người tài xế không thoải mái với việc đó – nhưng ngồi băng ghế sau khiến anh cảm thấy mình như một kẻ cướp xe vậy. Anh hạ cửa kính xe xuống để những cơn gió ấm áp miền Địa Trung Hải mơn trớn trên da trong khi chiếc xe thấp và dài chậm rãi trườn theo cond đường uốn lượn ven biển với hương hoa hồng và cỏ xạ hương thoang thoảng. Anh ngước nhìn những ngọn đồi tím biếc đằng xa. Đã lâu rồi anh chỉ biết những khung cảnh hoang dại ở Châu Phi và gần như quên hẳn Châu u đẹp như thế này.

Anh trao đổi vài câu xã giao với người tài xế – đây là khu vực nào, anh còn lái xe cho ai nữa không, là một người bình thường anh thấy sống ở nơi chỉ dành cho giới nhà giàu này thế nào. Anh luôn hiểu rằng: kiến thức có thể tới từ mọi nguồn. Những thông tin hay nhất mà anh có được đôi khi lại tới từ chính những người lái xe và giúp việc cho những người nổi tiếng.

‘Ngài Stirling có phải là một ông chủ tốt không?’ Anh hỏi.

Người tài xế ném cái nhìn sắc nhọn về phía anh với thái độ không được thoải mái. ‘Phải,’ anh ta trả lời theo cái cách là cuộc hội thoại tới đây chấm dứt.

‘Rất vui khi biết điều đó,’ Anthony trả lời và thầm nhắc nhở phải boa cho anh ta kha khá khi tới nơi. Anh nhìn theo chiếc ô tô đi về phía sau nhà, chắc hẳn nhà để xe ô tô ở đó, anh cảm thấy một chiếc nuối tiếc. Với tính cách ít nói như anh, anh thà ngồi gặm một chiếc bánh mì kẹp và chơi vài ván bài với người tài xế còn hơn phải giả lả nói cười với giới nhà giàu tẻ nhạt của Riviera.

Ngôi nhà từ thế kỷ thứ 18 đúng kiểu ngôi nhà của một chủ nhân giàu có, hoành tráng và đẹp thuần khiết, nhìn mặt tiền bóng loáng cũng đủ biết rõ nó được bao nhiêu nhân viên chăm sóc hàng ngày. Lối dẫn vào nhà trải sỏi mịn bề thế và gọn gàng, hai bên lối đi là những phiến đá được dựng lên để ngăn không cho bất kỳ một cây cỏ lạ nào chắn đường. Những ô cửa sổ thanh lịch đón nắng qua cánh cửa chớp sơn trắng. Một chiếc cầu thang lát đá uốn lượn đưa khách lên sảnh chính rộng lớn, nơi vọng lại tiếng ồn ào nói chuyện từ những vị khách tới từ trước. Dọc lối dẫn lên là những cột đá được trang trí bằng những chậu hoa tươi. Anh chậm rãi bước từng bậc, cảm thấy những phiến đá dưới chân như vẫn còn ấm hơi nóng của cả một ngày đọng lại.

Bữa tiệc còn có bảy người khách nữa: gia đình nhà Moncrieffs, những người bạn của Stirling tới từ Luân Đôn – cô vợ với cái nhìn xoi mói; thị trưởng thành phố, Ngài Lafayette, với vợ và con gái, một cô bé da ngăm với đôi mắt được trang điểm kỹ lưỡng và ánh nhìn ranh mãnh; đôi vợ chồng già Demarcier sống ở biệt thự bên cạnh. Vợ của Stirling có mái tóc vàng óng được cắt tỉa duyên dáng theo kiểu của Grace Kelly; kiểu người đàn bà không có vẻ gì đặc sắc nhưng luôn được ngưỡng mộ bởi vẻ đẹp bên ngoài. Anh hy vọng được ngồi cạnh bà Moncrieff. Anh chẳng ngại khi bị cô ta soi xét. Điều đó thậm chí còn kích thích anh.

‘Vậy là anh làm cho một tờ báo, anh O"Hare?’ Người phụ nữ Pháp đứng tuổi ngó sang anh.

‘Đúng vậy. Ở bên Anh.’ Phục vụ bàn tới mang theo một khay đồ uống. ‘Anh có thứ gì nhẹ nhàng hơn không? Nước khoáng chẳng hạn?’ Anh ta gật đầu và biến mất.

‘Tờ báo đó gọi là gì?’ Bà tiếp tục câu chuyện.

‘Tờ Nation.’

‘Nation.’ Bà nhắc lại, theo kiểu khiến người khác cụt hứng. ‘Tôi chưa nghe tên bao giờ. Tôi chỉ biết tờ The Times. Đó là tờ báo tốt nhất đúng không?’

‘Tôi nghe mọi người nói thế.’

Ôi, lạy Chúa, anh nghĩ. Cầu mong thức ăn không quá tệ.

Khay đồ uống bằng bạc được mang tới với một ly nước khoáng có đá. Anthony lảng tránh không nhìn những ly rượu trắng và rượu màu những người khác đang uống. Anh cố nhớ lại vốn tiếng Pháp ít ỏi từ thời học phổ thông để nói chuyện với cô con gái ngài thị trưởng. Cô bé trả lời bằng thứ tiếng Anh rất chuẩn với âm điệu du dương và duyên dáng của người Pháp. Cô bé còn quá trẻ, anh nghĩ, và nhận thấy cái cau mày của ngài thị trưởng. Anh hài lòng vì cuối cùng khi ngồi vào bàn ăn anh được xếp cạnh Yvonne Moncrieff. Cô nàng lịch sự, vui vẻ và chẳng hề gây phiền hà. Quỷ tha ma bắt mấy bà có chồng hơn hớn kia. Jennifer Stirling ngồi bên trái anh và đang mải mê trò chuyện với người ngồi cạnh phía bên kia.

‘Anh ở đây có được lâu không, anh O"Hare?’ Francis Moncrieff có khổ người cao gầy, khá tương xứng với bà vợ.

‘Không.’

‘Anh chủ yếu làm ở Thành phố Luân Đôn à?’

‘Không. Tôi không viết một chút gì ở đó.’

‘Vậy anh không phải phóng viên tài chính à?’

‘Tôi phụ trách thị trường nước ngoài. Tôi viết về… những bất ổn ở các nước khác.’

‘Larry chính là người gây ra chuyện đó.’ Moncrieff cười phá lên. ‘Thế anh viết về chủ đề gì?’

‘Ồ, chiến tranh, đói khát, bệnh tật. Toàn những chuyện thú vị.’

‘Tôi thấy chẳng có gì vui vẻ ở đây cả.’ Người đàn bà Pháp đứng tuổi nhấp một ngụm rượu.

‘Cả năm ngoái tôi ở Congo để viết về cuộc khủng hoảng ở đó.’

‘Lumumba là kẻ gây rắc rối,’ Stirling chen vào, ‘còn những người Bỉ là những kẻ ngốc nghếch và hèn nhát nếu họ vẫn tiếp tục nghĩ rằng đất nước đó sẽ tan nát nếu không có họ.’

‘Ông nghĩ rằng những người Châu Phi không đủ độ tin cậy để có thể định đoạt chính cuộc sống của họ ư?’

‘Năm phút trước đây Lumumba chỉ là một kẻ giao liên chân đất mắt toét. Cả nước Congo không có lấy một nền giáo dục chuyên nghiệp.’ Ông châm một điếu thuốc và phả ra một làn khói. ‘Làm sao họ có thể tiếp quản và điều hành nhà băng khi những người Bỉ không ở đó, và cả các bệnh viện nữa? Cả đất nước ấy sẽ là một bãi chiến trường. Mỏ quặng của tôi nằm ngay trên biên giới Zimbabwe và Congo và tôi đã phải huy động thêm an ninh. Đội an ninh người Zimbabwe, chứ người Congo không còn thể tin tưởng được nữa.’

Một sự im lặng bao trùm. Xương quai hàm của Anthony bạnh ra khi anh nghiến chặt răng cố gắng kiềm chế. Stirling dụi điếu thuốc. ‘Vậy anh ở khu vực nào của Congo, ông O"Hare?’

‘Chủ yếu ở Leopoldville. Brazzaville.’

‘Vậy thì anh phải biết rõ là quân đội Congo không thể kiểm soát nổi.’

‘Tôi biết độc lập tự do là bài toán không dành riêng cho bất kì nước nào. Và rằng nếu Trung tướng Jassens khôn khéo hơn một chút chắc hẳn nhiều người đã không phải chết.’

Stirling nhìn anh chằm chằm qua làn khói thuốc. Anthony cảm thấy anh như đang bị dò xét. ‘Vậy là anh cũng bị tên Lumumba đó mê hoặc rồi. Một đảng viên tự do ngây thơ?’ Ông cười lạnh lùng.

‘Thật không thể tin điều kiện sống của rất nhiều người dân Châu Phi không thể tồi tệ hơn được nữa.’

‘Vậy thì anh và tôi khác nhau,’ Stirling tỏ ra cứng rắn. ‘Tôi cho rằng có những người mà nếu trao tự do cho họ có thể sẽ là một món quà nguy hiểm.’

Cả căn phòng bỗng im phăng phắc. Từ xa vọng lại tiếng xe mô-tô leo lên sườn dốc. Bà Lafayette bối rối đưa tay vuốt tóc.

‘Ồ, tôi không thể nói tôi biết chút gì về tình hình ở đó,’ Jennifer Stirling vẫn theo dõi từ nãy tới giờ, chiếc khăn ăn để gọn gàng trên đùi.

‘Rất đau lòng,’ Yvonne Moncrieff đồng tình. ‘Có những lúc tớ không dám đọc báo buổi sáng. Francis đọc chuyên mục thể thao và điểm tin trong Thành phố, còn tớ đọc tạp chí. Thường tin tức về cuộc chiến đó không ai buồn đọc.’

‘Vợ tôi cho rằng bất kỳ tin tức nào không có trong tờ Vogue không phải là một tin tức nên đọc,’ Moncrieff nói.

Sự căng thẳng đã trùng xuống. Cuộc chuyện trò được tiếp tục, người phục vụ rót tiếp rượu vào ly. Những người đàn ông trên bàn quay sang bàn chuyện thị trường chứng khoán và những sự kiện nổi bật ở Riviera – ngày càng nhiều người cắm trại đổ về đây khiến những ông bà già không ngớt than phiền, những công trình đang xây hối hả và dường như không bao giờ ngừng, và về những thành viên mới gia nhập Câu lạc bộ Những người Anh chơi bài brit.

‘Tôi thấy không nên quá lo lắng,’ Moncrieff nói. ‘Năm nay thuê một túp lều bên bãi biển ở Monte Carlo mất tới năm mươi bảng một tuần. Sẽ không có nhiều người Anh sẵn lòng trả mức đó đâu.’

‘Tôi nghe nói Elsa Maxwell kiến nghị phủ cao su bọt lên sỏi để đi dạo chân trần trên bãi biển sẽ dễ chịu hơn.’

‘Thật kinh khủng khi cứ phải ngồi đây và nghe nói nhảm,’ Anthony tự nhủ. Anh muốn rời khỏi chỗ này ngay lập tức, nhưng anh không thể vì đang giữa bữa ăn. Khung cảnh ở đây, không khí ở đây thật khác với cuộc sống của anh – như thể anh bị lạc vào một hành tinh khác. Làm sao họ có thể thờ ơ với chiến sự và những nỗi kinh hoàng đang xảy ra ở Châu Phi, khi mà sự giàu sang của họ có được là nhờ chính mảnh đất ấy.

Anh lưỡng lự một chút rồi ra hiệu cho phục vụ mang tới cho anh một ly rượu. Không ai ngồi cùng bàn nhận ra điều này.

‘Vậy là… anh sẽ viết những điều tuyệt vời về chồng tôi, đúng không?’ Bà Stirling quay sang nhìn anh. Món ăn thứ hai – một đĩa hải sản tươi – được mang tới và đặt trước mặt anh. Anh chỉnh lại khăn ăn để trên đùi. ‘Tôi không biết. Tôi có nên làm thế không? Ông ấy là một người tuyệt vời à?’

‘Ông ấy là ngọn đuốc sáng trong ngành kỹ nghệ thương mại, người bạn thân thiết Moncrieff của chúng tôi đã nói thế. Những nhà máy của ông được xây dựng với tiêu chuẩn cao nhất có thể. Doanh số mà các nhà máy của ông mang lại tăng đều đặn hàng năm.’

‘Tôi không hỏi bà điều đó.’

‘Không?’

‘Tôi chỉ hỏi chồng bà có phải là người tuyệt vời không.’ Anh biết anh đang cư xử rất khó chịu, nhưng rượu đã khiến anh chẳng còn sợ sệt.

‘Tôi không nghĩ anh nên hỏi tôi, ông O"Hare. Một người vợ khó có thể tránh khỏi sự thiên vị khi nói về những điều đó.’

‘Ồ, theo kinh nghiệm của tôi thì không ai ngoài vợ có đánh giá khách quan nhất về chồng mình…’

‘Tiếp tục đi.’

‘Ai là người biết về tất cả những tật xấu của chồng cô ta chỉ sau vài tuần lấy nhau và có thể bới móc chúng hàng ngày, kể cả khi chúng đã xảy ra từ rất lâu rồi – với sự chính xác như một quan tòa?’

‘Vợ anh có vẻ như rất ghê gớm.’

‘Thực ra cô ấy là một người cực kỳ thông minh.’ Anh nhìn sang Jennifer, lúc này đang đưa một con tôm lên miệng.

‘Thật ư?’

‘Đúng vậy. Đủ thông minh để ly dị tôi nhiều năm trước đây.’

Cô đưa anh lọ may-ô-naise. Thấy anh không đưa tay ra đỡ, cô xúc một thìa nhỏ để lên đĩa của anh. ‘Điều đó có nghĩa là ông không phải người tuyệt vời, đúng không ông O"Hare?’

‘Trong chuyện gia đình? Không. Tôi không nghĩ là tôi được như thế. Còn trong tất cả những lĩnh vực khác, tất nhiên không ai đọ nổi với tôi. Và làm ơn gọi tôi là Anthony.’ Anh cố tình thể hiện sự công kích trước cách nói kiểu cách, hãnh tiến của những người ở đây.

‘Được rồi, Anthony, tôi tin chắc anh và chồng tôi rất hòa hợp với nhau vì ông ấy cũng có kiểu suy nghĩ giống anh.’ Cô chăm chú nhìn Stirling, rồi quay sang anh. Mắt cô dừng lại ở anh đủ lâu để anh thấy cô không phải là người nông cạn và chán ngắt như anh nghĩ.

Trong suốt bữa ăn chính – với thịt bò cuộn, ăn cùng kem và nấm rừng – anh đã kịp tìm hiểu Jennifer Stirling, tên thời con gái là Verrinder, cưới chồng được bốn năm. Cô chủ yếu sống ở Luân Đôn, còn chồng cô thường xuyên đi ra nước ngoài nơi có những mỏ quặng. Họ chỉ tới Riviera vào mùa đông, thỉnh thoảng vào mùa hè và vào những dịp lễ mà ở Luân Đôn quá chán. Ở đây lúc nào cũng đông đúc, vừa nói cô vừa để ý nhìn phu nhân của ông thị trưởng ngồi đối diện. Anh chắc chắn sẽ không thích ở đây luôn, một ao cá nhỏ xíu.

Đó là những điều cô tâm sự với anh, những điều dễ khiến mọi người nhận ra cô là một người vợ được nuông chiều của một người đàn ông giàu có. Nhưng anh cũng đồng thời nhận ra một điều: Jennifer Stirling dường như thông minh và xuề xòa hơn so với địa vị của cô và cô vẫn chưa nhận thức được cô sẽ như thế nào trong vòng một hai năm tới. Còn hiện tại, duy nhất ánh mắt buồn toát ra từ đôi mắt cô đã nói lên một chút gì đó con người thực của cô. Cô bị mắc kẹt trong vòng quay vô nghĩa không bao giờ kết thúc của cái xã hội cô đang sống.

Họ vẫn chưa có con. ‘Tôi thấy mọi người bảo hai vợ chống phải sống cùng nhau ít nhất một thời gian thì mới hy vọng có con.’ Khi cô nói ra điều ấy, anh tự hỏi cô có đang định ám chỉ điều gì đó với anh không. Nhưng cô có vẻ rất vô tư, và thích thú trước hoàn cảnh đó chứ không có vẻ gì buồn bã cả. ‘Anh có con chưa, Anthony?’ Cô hỏi.

‘Tôi – tôi dường như đã có nhưng đã mất. Thằng bé sống với vợ cũ của tôi, cô ấy luôn cố gắng để đảm bảo thằng bé không bị tôi làm hư hỏng.’ Nói xong câu đó anh biết chắc là mình đã say. Nếu không say rượu, anh đã không bao giờ nhắc tới thằng bé.

Lần này anh nhận thấy có gì đó thực sự chân thành ẩn sau nụ cười của cô, như thể cô đang tự hỏi có nên thương hại anh không. Xin đừng, anh thầm nói. Anh rót thêm cho mình một ly rượu nữa để giấu sự lúng túng. ‘Cũng không có gì. Nó –’

‘Anh có thể làm hư hỏng thằng bé bằng cách nào nhỉ, ông O"Hare?’ Mariette, con gái ngài thị trưởng với qua bàn hỏi anh.

‘Thưa cô, tôi ngờ là chính tôi đang bị làm cho hư hỏng,’ anh trả lời. ‘Nếu tôi không quyết định viết một bài phóng sự tâng bốc ngài Stirling đây, tôi chắc hẳn đã bị thức ăn và những người ở trên bàn tiệc này lôi kéo rồi.’ Anh dừng lại một lúc. ‘Thế điều gì có thể làm bà hư hỏng hả bà Moncrieff?’ anh hỏi – dường như đây là người an toàn nhất mà anh có thể bắn câu hỏi sang.

‘Ồ, tôi cũng là người bình thường như tất cả những người khác. Không ai là hoàn hảo cả,’ bà trả lời.

‘Vớ vẩn,’ chồng bà đáp lời, đầy tự hào. ‘Phải mất hàng tháng trời tôi mới mua chuộc được bà ấy.’

‘Tất nhiên rồi, riêng anh thì phải thế. Anh hoàn toàn không đẹp trai và quyến rũ như ông O"Hare đây.’ Bà gửi chồng một nụ hôn gió. ‘Còn Jenny thì không thể mua chuộc bằng bất kỳ giá nào. Anh không thấy ở cô ấy toát ra sự thánh thiện thuần khiết nhất ư?’

‘Không, Francis. Ngài Lafayette mới thực sự là biểu tượng của sự chính trực,’ Jennifer nói, khóe miệng hơi nhếch lên một cách tinh nghịch. Cô cũng có vẻ hơi chuếnh choáng. ‘Suy cho cùng, chẳng thể tìm thấy cái gọi là nạn hối lộ trên chính trường Pháp.’

‘Em yêu, anh không nghĩ em đủ hiểu biết để bàn luận về chính trường Pháp,’ Laurence Stirling xen vào. Anthony nhận thấy mặt cô thoáng tái đi.

‘Em chỉ định nói –’

‘Đừng, đừng làm thế,’ ông hạ giọng. Cô chớp mắt và nhìn xuống đĩa thức ăn.

Bàn ăn đột ngột im lặng.

‘Tôi nghĩ là bà nói đúng,’ ngài Lafayette lịch sự trả lời Jennifer và đặt ly rượu xuống. ‘Tuy nhiên, tôi có thể kể cho bà tên đối thủ vô lại của tôi ở tòa thị chính đã gian dối như thế nào… tất nhiên với một cái giá hợp lý.’

Có tiếng cười rì rầm. Dưới gầm bàn, Mariette dẫm nhẹ chân lên chân Anthony. Ở bên cạnh anh, Jennifer Stirling ra hiệu cho phục vụ tới dọn đĩa trên bàn. Nhà Moncrieff bận tiếp chuyện ngài Demarcier.

Lạy Chúa, anh nghĩ. Mình phải làm gì với đám người này đây? Mình không thuộc về nơi đây, Laurence Stirling đang say sưa nói gì đó với người ngồi cạnh. Một kẻ ngốc nghếch, Anthony nghĩ về bản thân. Một kẻ không có gia đình, sự nghiệp không có gì nổi trội, nghèo rớt mùng tơi, anh đích thị là một kẻ như thế. Hình ảnh đứa con trai không còn thuộc về anh, Jennifer Stirling bị mất mặt và những ly rượu khiến tâm trạng anh càng thêm u uất. Chỉ có một cách duy nhất thoát khỏi tình trạng này: anh ra hiệu cho người phục vụ mang thêm rượu.

Nhà Demarcier ra về lúc mười một giờ, nhà Lafayette về vài phút sau đó – sáng hôm sau có cuộc họp hội đồng thành phố – ngài thị trưởng giải thích. ‘Chúng tôi thường bắt đầu làm việc sớm hơn người Anh các cậu.’ Ông bắt tay anh ở ngoài mái hiên lớn nơi họ uống cà phê và rượu brandy sau bữa tối. ‘Tôi rất mong chờ được đọc bài của anh, ông O"Hare.’

‘Thật là vinh hạnh cho tôi. Hãy tin tôi,’ Anthony lắc lư khi phải đứng. ‘Chuyện chính trường chưa bao giờ khiến tôi thích thú cả.’ Anh đang rất say. Những từ ngữ cứ tự dưng bật ra khỏi miệng anh trước khi anh kịp hiểu anh định nói gì. Anh làm ngơ bởi anh hiểu rằng lúc này anh chẳng thể kiểm soát nổi mình nữa. Anh cũng không còn nhớ mình đã huyên thuyên gì vài tiếng trước đây. Ngài thị trưởng nhìn anh một lúc rồi ông thả tay anh ra và quay đi.

‘Bố, con sẽ ở lại thêm một lúc nữa nếu bố không phản đối. Con chắc chắn một trong những quý ngài ở đây có thể đưa con về.’ Mariette liếc mắt đầy chủ ý về phía Anthony, anh gật đầu không ngần ngại.

‘Có khi tôi lại cần đến sự trợ giúp của cô ấy chứ. Tôi thực sự không hề biết mình đang đứng ở đâu,’ anh trả lời.

Jennifer Stirling hôn tạm biệt nhà Lafayette. ‘Ông bà yên tâm, tôi sẽ đảm bảo cô bé về nhà an toàn,’ cô nói. ‘Cám ơn vì đã tới tối nay.’ Rồi cô nói điều gì đó bằng tiếng Pháp mà anh không hiểu.

Màn đêm trở nên buốt giá hơn, nhưng Anthony hầu như không nhận ra điều ấy. Anh chỉ nghe thấy tiếng sóng vỗ nhẹ vào bờ ở phía xa, tiếng lách cách của những chiếc ly, tiếng Moncrieff và Stirling tranh thủ bàn tiếp về thị trường chứng khoán và cơ hội đầu tư ra nước ngoài và anh cũng chẳng còn quan tâm đến những điều đó nữa khi nốc cạn ly cô-nhắc ai đó vừa để vào tay anh. Khi tới một miền đất lạ, anh chỉ quen ở một mình và anh thấy thoải mái, vì vậy đêm nay anh thấy thật mất cân bằng và dễ cáu kỉnh. Anh liếc nhìn ba người phụ nữ trước mặt, hai người tóc nâu sẫm và một người tóc vàng. Jennifer Stirling đưa một tay lên làm dáng, có lẽ cô muốn khoe mấy món đồ trang sức. Hai người còn lại thì thầm và thỉnh thoảng phá lên cười. Mariette không quên liếc nhìn anh và mỉm cười. Có ý đồ gì trong nụ cười đó không nhỉ? Mười bảy tuổi, anh tự nhắc nhở. Còn quá trẻ.

Anh nghe tiếng đánh cricker, tiếng phụ nữ cười, tiếng nhạc jazz vọng từ trong nhà. Anh nhắm mắt và rồi mở mắt, nhìn đồng hồ. Một tiếng đã trôi qua. Anh có cảm giác muốn chợp mắt một lúc. Dù gì thì cũng đã tới giờ phải về. ‘Tôi nghĩ đã tới giờ tôi phải quay lại khách sạn rồi,’ anh nói với mọi người và đứng dậy khỏi ghế.

Laurence Stirling cũng đứng dậy một cách lịch sự. Ông hút một điếu xì gà to quá khổ. ‘Để tôi gọi tài xế.’ Ông quay vào trong nhà.

‘Không, không,’ Anthony từ chối. ‘Không khí trong lành sẽ có ích cho tôi lúc này. Cám ơn ông rất nhiều vì một buổi tối cực kỳ thú vị.’

‘Nếu cần thêm thông tin gì anh cứ gọi tới văn phòng của tôi trong sáng mai. Tôi sẽ ở đó tới buổi trưa. Sau đó tôi sẽ đi Châu Phi. Hay anh có muốn đi cùng tôi và tận mắt nhìn những mỏ quặng trước khi viết bài? Chúng tôi luôn có thể thu xếp…’

‘Chắc để lúc khác,’ Anthony nói.

Stirling đưa tay ra bắt, một cái bắt tay rất chặt và nhanh. Moncrieff cũng đứng dậy, đưa một ngón tay lên đầu ra hiệu chào anh từ xa.

Anthony quay người và đi về phía cổng vườn. Con đường mòn được thắp sáng bởi những chiếc đèn lồng nhỏ đặt trên những luống hoa. Xa xa phía trước là ánh đèn hắt ra từ những chiếc tàu lớn đang neo mình trong bóng đêm đen kịt của biển đêm. Một tiếng thì thầm nhỏ theo gió vọng lại từ khu hàng hiên.

‘Một chàng trai thú vị,’ Moncrieff nói theo kiểu dễ khiến người khác nghĩ ngược lại.

‘Còn hơn là một kẻ hợm hĩnh tự mãn,’ Anthony lẩm bẩm phụ họa.

‘Ông O"Hare? Ông có phiền nếu tôi dạo bộ cùng ông không?’

Anh lảo đảo quay lại. Mariette đứng ngay sau anh, với một chiếc túi nhỏ và chiếc áo len khoác hờ hững trên vai. ‘Tôi biết đường về trung tâm thành phố – chúng ta có thể đi theo lối mòn theo triền đá. Tôi chắc chắn ông sẽ lạc nếu đi một mình.’ Anh đứng không vững trên những viên sỏi nhỏ. Cô gái vội đưa cánh tay mỏng manh khoác vào tay anh. ‘Thật may là có ánh trăng. Ít nhất chúng ta vẫn nhìn thấy bàn chân mình,’ cô nói.

Họ đi bên nhau trong im lặng. Anthony nghe rõ tiếng sỏi lạo xạo dưới gót giầy, thi thoảng bật ra tiếng kêu khẽ khi tình cờ dẫm phải những bụi oải hương dại ven đường. Một không gian thật êm ả, với một cô gái đẹp đi bên cạnh, dù vậy trong anh vẫn tràn ngập cảm giác nhớ nhà vì một lý do mơ hồ nào đó.

‘Ông thật kiệm lời, ông O"Hare. Có chắc chắn là ông không bị ngủ gật nữa không đấy?’

‘Hãy cho tôi biết,’ anh hỏi. ‘Cô có thích những buổi tiệc như thế không?’

Cô gái nhún vai. ‘Đó là một ngôi biệt thự đẹp.’

‘Một ngôi biệt thự đẹp. Đó là tiêu chí để cô đánh giá một buổi tối tuyệt vời ư thưa cô?’

Cô bé nhướn mày, chẳng mảy may bận tâm tới lời nhận xét sắc nhọn đó. ‘Mariette. Làm ơn cho tôi biết. Có đúng là cô chẳng hề thích thú đúng không?’

‘Những người đó,’ anh nói tiếp, biết rằng mình đã quá say và hằn học, ‘chỉ khiến tôi muốn chĩa súng vào miệng mình và bóp cò.’

Cô gái cười khúc khích, và trước sự đồng lõa ra mặt của cô, anh tiếp tục cao giọng: ‘Những người đàn ông chỉ nói về mỗi việc họ có gì, họ sở hữu điều gì. Còn những người đàn bà không thể nhìn xa hơn đống đồ trang sức họ đang đeo trên người. Tất cả bọn họ đều là những người có tiền, có cơ hội, để làm bất kỳ điều gì họ muốn, nhưng không ai nhìn ra ngoài và hiểu về cuộc sống bên ngoài cái thế giới cỏn con của chính họ.’ Anh lại nhảy dựng lên khi vấp vào bụi cây và Mariette vội nắm chặt cánh tay anh.

‘Tôi thà đứng ngoài tán gẫu với mấy ông nhà nghèo bên ngoài khách sạn Cap còn hơn. Mà tất nhiên những người như Stirling chắc hẳn sẽ bắt mấy ông đó ăn vận tử tế và giấu họ đi đâu đó…’

‘Tôi nghĩ ông chắc sẽ rất thích bà Stirling,’ giọng cô hờn dỗi, ‘Nửa số đàn ông ở Riviera này yêu bà ấy.’

‘Đó chỉ là một quý bà giàu có được nuông chiều. Cô có thể thấy loại người đó ở bất kỳ thành phố nào, tiểu thư Mariette. Xinh xắn như một trái đào nhưng chẳng có thể có nổi một chính kiến của riêng mình.’

Anh tiếp tục bài diễn văn đả kích của mình cho tới khi nhận ra cô gái đã dừng lại không bước tiếp nữa. Cảm thấy có gì đó thay đổi, anh liếc nhìn lại phía sau và ngay lập tức anh nhận ra Jennifer Stirling đang đứng cách anh chỉ vài bước chân. Cô cầm trên tay chiếc áo khoác bằng vải lanh của anh, mái tóc vàng óng của cô ánh lên trong đêm.

‘Anh để quên cái này,’ cô đưa tay về phía anh. Miệng cô mím chặt, đôi mắt long lanh trong ánh sáng xanh.

Anh bước về phía trước và đưa tay đỡ lấy áo.

Cô cất tiếng lạnh lùng: ‘Xin lỗi là chúng tôi đã làm ông thất vọng, ông O"Hare, không ngờ cách sống của chúng tôi lại gây phản cảm cho ông thế. Chắc hẳn ông sẽ thấy thoải mái hơn nếu chúng tôi là những người da màu với cuộc sống khốn cùng.’

‘Lạy Chúa,’ anh nuốt khan và thì thào. ‘Tôi xin lỗi. Tôi đã – tôi đã quá say.’

‘Rõ ràng rồi. Tôi chỉ mong muốn một điều, cho dù anh có nghĩ gì về tôi và cuộc sống được nuông chiều của tôi như thế nào, xin anh đừng chỉ trích Laurence như thế trên mặt báo.’ Nói rồi cô quay bước trở lại phía đồi.

Anh cau mày và thầm chửi thề khi nghe tiếng cô vọng lại theo gió khi cô bước đi: ‘Có lẽ lần sau khi gặp những tình huống như thế, khi phải chịu đựng những người tẻ nhạt như thế, tốt hơn hết anh nên nói ”Không, cảm ơn.”’

Em đã không để anh nắm tay em, dù chỉ một ngón út, cây đào nhỏ bé của anh.

Thư một người đàn ông gửi một người đàn bà.