“May mà chim bố mẹ không ở quanh đây.” Anh ta nói. “Những con vật ấy có thể xé xác một người nếu con chúng gặp nguy hiểm.”
“Nó làm tôi nhớ đến Achren,” Eilonwy nói, “nhất là cái quầng quanh mắt ấy, vào những hôm mụ ta đang bực mình.”
Doli rút cây rìu ở thắt lưng ra.
“Ông định làm gì vậy?” Taran hỏi.
Người chiến binh lùn ngạc nhiên nhìn cậu.
“Định làm gì ấy à? Mi còn câu hỏi nào ngu ngốc hơn nữa không? Mi không nghĩ là ta chỉ đơn giản để mặc nó nằm đấy chứ? Trước tiên ta phải chặt đầu nó cái đã.”
“Không!” Taran kêu lên, chộp lấy cánh tay ông ta. “Nó đang bị thương nặng mà.”
“Càng tốt,” Doli cáu bẳn nói, “nếu không thì cả ta lẫn mi, hay bất kỳ ai khác trong số bọn ta chẳng còn đứng đây được nữa đâu.”
“Tôi không để ông giết nó đâu.” Taran tuyên bố. “Nó đang bị đau và cần được giúp đỡ.”
“Đúng thế,” Eilonwy nói, “trông nó không thoải mái chút nào. Thật ra trông nó còn tệ hơn cả Achren nữa.”
Ông lùn ném cây rìu xuống đất và đưa tay lên chống nạnh.
“Ta không thể biến mình thành vô hình,” ông khịt mũi vẻ khinh bỉ, “nhưng ít ra ta cũng không phải thằng ngốc. Đấy, làm đi. Đỡ lấy con vật xấu xa ấy đi. Cho nó uống nước đi. Vuốt ve đầu nó đi. Rồi các người sẽ thấy chuyện gì sẽ xảy ra. Chừng nào nó đủ mạnh, điều đầu tiên nó làm là xé xác các người ra thành từng mảnh. Và sau đó nó sẽ bay thẳng về với Arawn. Đến lúc đó thì chúng ta sẽ rơi vào cảnh hay ho lắm đấy.”
“Doli nói đúng đấy.” Fflewddur nói thêm. “Bản thân tôi cũng chẳng thích thú gì chuyện đâm chém. Con chim trông cũng hay hay, theo một cách khó chịu nào đó. Nhưng chúng ta đã gặp may cho tới tận bây giờ rồi, ít ra là không gặp rắc rối gì với bọn Quái Điểu. Tôi thấy không có lợi ích gì trong việc cứu giúp một tên “do thám của Arawn cả”, như cậu nói đấy. Một người họ Fflam luôn tốt bụng, nhưng tôi thấy thế này là hơi quá rồi.”
“Medwyn sẽ không nói vậy đâu.” Taran đáp. “Ở trên ngọn đồi, ông ấy đã nói phải tử tế với tất cả các loài vật; và ông ấy đã kể cho tôi nghe rất nhiều về loài Quái Điểu. Tôi nghĩ đem con vật này đến Caer Dathyl là một việc rất quan trọng. Theo tôi biết thì chưa từng có ai bắt sống được một con Quái Điểu cả. Ai biết được nó sẽ có giá trị gì?”
Chàng ca sĩ gãi đầu.
“Ờ, phải, tôi đoán là nếu nó có chút giá trị nào đó thì nó còn sống sẽ tốt hơn đã chết. Nhưng dù thế nào thì lời đề nghị ấy cũng thật liều lĩnh.”
Taran ra hiệu cho những người khác đứng cách xa bụi cây. Cậu thấy rằng con Quái Điểu không chỉ bị thương vì gai; có lẽ một con đại bàng đã tấn công nó, vì máu đọng trên lưng nó và một đám lông đã trụi hết. Cậu thận trọng thò tay vào. Con Quái Điểu lại rít lên, một tiếng khò khè vang trong họng. Taran sợ là con chim sắp chết mất rồi. Cậu luồn một tay xuống dưới cơ thể nóng rực của nó. Con Quái Điểu giương vuốt và mỏ ra mổ, nhưng sức lực của nó đã cạn. Taran nhấc nó ra khỏi bụi gai.
“Nếu tìm được đúng loại thảo mộc thì tôi sẽ làm một lá cao.” Taran bảo với Eilonwy. “Nhưng tôi cần nước nóng để ngâm chúng.”
Trong khi cô bé lót một cái ổ bằng cỏ và lá khô, Taran nhờ Gurgi nhóm lửa và nung mấy viên đá để thả vào hâm nóng một cốc nước. Sau đó, với Hen Wen theo sát gót, cậu nhanh chóng đi tìm cây thuốc.
“Chúng ta sẽ phải ở lại đây trong bao lâu nữa?” Doli hét lên gọi với theo cậu. “Không phải vì nó làm ta bận tâm đâu đấy. Các ngươi mới đang vội chứ không phải ta! Hừm!” Ông giắt cây rìu vào thắt lưng, chụp chiếc mũ lên đầu và lại nín hơi một cách nóng nảy.
Một lần nữa, Taran lại lấy làm biết ơn bác Coll đã dạy cậu về các loại thảo mộc. Cậu tìm được phần lớn những gì cậu cần mọc quanh đó. Hen Wen cũng nhiệt tình tham gia tìm kiếm, ủn ỉn vẻ vui sướng khi đào giũi bên dưới đám lá cây và các hòn đá. Chính cô lợn đã tìm thấy một loại cây mà Taran bỏ sót.
Con Quái Điểu không chống cự khi Taran đắp cao cho nó; rồi nhúng một dải vải xé ra từ áo mình vào một thứ thuốc khác, cậu vắt từng giọt thuốc vào mỏ con chim.
“Hay lắm,” Doli nói, lòng hiếu kỳ của ông ta đã chiến thắng và ông cũng mon men đến gần xem cậu chữa bệnh. “Thế mi định đem con vật kinh tởm ấy theo bằng cách nào? Cho nó đậu trên vai chắc?”
“Tôi không biết,” Taran nói. “Tôi nghĩ có thể bọc nó vào áo choàng.”
Doli khịt mũi.
“Vấn đề của bọn cục mịch các ngươi là thế đấy, các người không nhìn được xa quá đầu mũi. Nhưng nếu mi trông đợi ta đan cho một cái lồng thì mi nhầm to rồi đấy.”
“Đúng là tôi cần một cái lồng.” Taran đồng ý. “Không, tôi sẽ không làm phiền ông đâu. Tôi sẽ tự làm lấy một cái.”
Ông lùn khinh khỉnh ngắm Taran đi nhặt về một nắm cây non và cố đan chúng vào với nhau.
“Ôi, thôi đi!” rốt cuộc Doli hét lên. “Ta không thể chịu được khi nhìn cách làm việc lóng ngóng như thế. Đây, tránh ra.”
Ông dùng vai huých Taran sang một bên, ngồi xổm cuống và nhặt những cành cây non lên. Ông thành thạo dùng con dao của mình cắt tỉa chúng, buộc chúng bằng những dây leo bện lại, và chỉ trong nháy mắt đã giơ lên một chiếc lồng tiện lợi.
“Quả là thiết thực hơn cố biến mình thành vô hình nhiều.” Eilonwy nói.
Ông lùn không đáp lại, chỉ ném cho cô một cái nhìn giận dữ. Taran lót đáy lồng bằng lá cây, nhẹ nhàng đặt con Quái Điểu vào trong và họ lại lên đường. Giờ Doli còn đi nhanh hơn trước để bù lại quãng thời gian họ đã bỏ mất. Ông đều bước xuống dốc mà chẳng thèm quay lại xem Taran và những người khác có theo kịp không. Nhưng Taran nhận thấy là tốc độ này cũng chẳng có tác dụng gì mấy, vì bây giờ họ phải dừng lại nhiều hơn. Nhưng cậu nghĩ sẽ khôn ngoan hơn nếu không nhắc đến điều này với ông lùn.
Trong ngày hôm ấy, con Quái Điểu nhanh chóng lại sức. Mỗi lần dừng lại, Taran lại cho nó ăn và đổ thuốc cho nó. Gurgi vẫn quá sợ hãi không dám lại gần; chỉ một mình Taran dám săn sóc cho con vật. Khi Fflewddur cố tìm cách làm quen và thò ngón tay qua nan lồng, con Quái Điểu bật dậy và giương mỏ mổ anh ta.
“Ta đã báo trước rồi đấy,” Doli cáu kỉnh nói, “nó sẽ chẳng đem lại điều gì tốt đẹp đâu. Nhưng đừng có để ý đến những gì ta nói. Cứ làm đi. Tự cắt cổ mình đi. Rồi sau đó lại trở về kêu ca than vãn. Ta chỉ là người dẫn đường; ta làm những gì đã được ra lệnh, có vậy thôi.”
Khi đêm xuống, họ dựng trại và bàn bạc kế hoạch cho ngày mai. Con Quái Điểu đã hoàn toàn bình phục và luôn miệng đòi ăn. Nó kêu quang quác vẻ tức tối khi Taran không kịp mang thức ăn đến cho nó và quẹt mỏ lách cách vào nan lồng. Nó nuốt chửng những mẩu thức ăn mà Taran đút cho rồi nhìn quanh xem còn thêm không. Sau khi ăn xong, con Quái Điểu nằm xuống đáy lồng, đầu nghiêng sang một bên lắng nghe, mắt dõi theo mọi cử động. Cuối cùng Taran đánh liều thò một ngón tay qua nan lồng và gãi gãi đầu Quái Điểu. Con vật không rít lên nữa, và không hề tìm cách mổ cậu. Nó thậm chí c ò n để Eilonwy đút thức ăn cho, nhưng mọi cố gắng của chàng ca sĩ đều thất bại.
“Nó thừa biết ông đã đồng ý với việc chặt đầu nó,” Eilonwy bảo Fflewddur, “nên ông cũng không thể trách con vật tội nghiệp vì đã tỏ ra khó chịu với ông. Nếu có ai đó muốn chặt đầu tôi rồi sau đó lại đến tìm cách tỏ ra thân thiện thì tôi cũng sẽ mổ họ.”
“Gwydion bảo tôi rằng những con chim này được huấn luyện ngay khi còn nhỏ.” Taran nói. “Ước gì ông ấy có ở đây. Hẳn ông ấy sẽ biết cách tốt nhất để điều khiển con vật. Chắc nó có thể được dạy khác đi. Nhưng chắc chắn ở Caer Dathyl phải có một người nuôi chim giỏi, và chúng ta sẽ xem ông ta có thể làm được gì.”
Nhưng đến sáng hôm sau, chiếc lồng rỗng không. Doli, vốn luôn thức dậy rất lâu trước những người khác, là người đầu tiên phát hiện ra nó. Ông giận dữ dúi chiếc lồng vào dưới mũi Taran. Những nan lồng bằng cây non đã bị chiếc mỏ của con Quái Điểu bẻ gãy vụn.
“Thấy chưa!” Doli hét lên. “Ta đã bảo mà! Đừng có nói là ta không báo trước nhé. Con vật bội phản ấy giờ chắc đã bay được nửa đường đến Annuvin rồi, sau khi nghe hết những lời chúng ta nói. Nếu Arawn chưa biết chúng ta đang ở đâu thì giờ hắn sẽ sớm biết được thôi. Các người quả là giỏi, ồ, giỏi lắm.” Doli khịt mũi. “Xin miễn cho ta khỏi phải dây dưa với những tên ngốc và những thằng Phụ - Chăn lợn nữa!”
Taran không giấu nổi sự thất vọng và nỗi sợ của mình. Fflewddur không nói gì, nhưng gương mặt chàng ca sĩ tối sầm lại.
“Tôi lại làm sai rồi, vẫn như mọi khi.” Taran tức tối nói. “Doli đã đúng. Giữa một tên ngốc và một thằng Phụ - Chăn lợn chẳng có khác biệt nào cả.”
“Có lẽ đúng như vậy,” Eilonwy nói, nhận xét của cô chẳng làm Taran vui lên chút nào. “Nhưng,” cô nói tiếp, “tôi không thể chịu nổi những người cứ suốt ngày lảm nhảm “đã bảo mà không chịu nghe”. Thật còn tệ hơn cả bị người khác chén mất bữa tối trước khi kịp ngồi xuống. Nhưng dù thế,” cô nói thêm, “Doli cũng có ý tốt. Ông ấy không khó chịu bằng nửa bề ngoài đâu, và tôi dám chắc là ông ấy có lo lắng cho chúng ta. Ông ấy giống như một con nhím ấy, ở ngoài thì đầy gai nhọn nhưng lật bụng lên thì lại rất mềm mại. Giá mà ông ấy thôi cái trò cố biến thành vô hình đi thì tôi nghĩ tính khí của ông ấy sẽ cải thiện nhiều đấy.”
Không còn thời gian để hối tiếc nữa. Doli dẫn họ đi còn nhanh hơn. Họ vẫn men theo rặng đồi dọc thung lũng Ystrad, nhưng đến quãng trưa thì ông lùn rẽ sang hướng Tây và lại bắt đầu xuống núi. Bầu trời đã trở nên xám xịt và nặng như chì. Những luồng gió dữ dội quất vào mặt họ. Vầng mặt trời nhợt nhạt chẳng toả ra chút hơi ấm nào. Melyngar bồn chồn hí vang; Hen Wen, từ trước đến giờ vẫn tỏ ra điềm tĩnh và ngoan ngoãn, giờ cũng bắt đầu trợn tròn mắt và càu nhàu một mình. Khi nhóm bạn dừng lại nghỉ một lát, Doli đi lên trước để do thám địa hình. Chỉ một chốc sau, ông đã quay lại. Ông dẫn họ lên một đỉnh đồi, ra hiệu cho họ cúi thấp xuống sát đất và chỉ về phía dòng Ystrad phía dưới.
Trên cánh đồng đầy chiến binh, cả bộ binh lẫn kỵ mã. Những dải cờ đen bay phần phật trong gió. Ngay từ khoảng cách này, Taran vẫn có thể nghe thấy tiếng vũ khí gõ leng keng, tiếng chân hành quân đều đều, rầm rập. Cưỡi ngựa đi đầu đội quân là Vua Sừng. Hình dáng to lớn của hắn cao vượt lên hẳn các chiến binh đang phi ngựa phía sau. Cặp gạc uốn lượn vươn lên như móng đại bàng. Trong khi Taran nhìn theo, kinh hãi nhưng không thể quay đi hướng khác, Vua Sừng chậm rãi quay đầu về phía ngọn đồi. Taran vội ép mình nằm sát xuống đất. Cậu dám chắc tên tướng của Arawn không thể nhìn thấy cậu; đó chẳng qua là đầu óc đang đánh lừa cậu, phản chiếu lại nỗi sợ trong lòng cậu, nhưng cậu cảm thấy dường như cặp mắt của Vua Sừng đang nhằm vào cậu và xuyên qua cậu như một mũi dao.
“Chúng đã vượt trước chúng ta rồi.” Taran chán nản nói.
“Nhanh lên.” ông lùn quát, “Phải đi ngay, đừng có la cà ở đây mà than vãn nữa. Chúng ta chỉ còn cách Caer Dathyl một ngày đường và chúng cũng vậy. Chúng ta vẫn có thể đi nhanh hơn. Nếu các người không dừng lại vì con chim do thám vô ơn của Annuvin thì giờ chúng ta đã có thể đi trước chúng một đoạn xa rồi. Đừng có bảo là ta không báo trước đấy.”
“Chúng ta nên tự vũ trang tốt hơn.” Chàng ca sĩ nói. “Vua Sừng hẳn sẽ cho kỵ sĩ mở đường ở cả hai bên thung lũng.”
Taran tháo chỗ vũ khí trên lưng Melyngar xuống và trao cho mỗi người bạn đồng hành một cây cung, một ống tên và thêm một cây giáo ngắn nữa. Vua Eiddileg đã cho họ cả những tấm khiên tròn bằng đồng; nhưng chúng lại là cỡ dành cho các chiến binh lùn và sau khi nhìn đội quân đang tiến tới, Taran thấy chúng nhỏ bé đến thảm hại. Gurgi đeo một thanh gươm ngắn lên lưng. Trong cả nhóm thì nó tỏ ra phấn khích hơn cả.
“Phải, phải!” nó reo lên. “Giờ thì Gurgi dũng cảm, gan dạ cũng trở thành một chiến binh mạnh mẽ rồi! Nó có một thanh gươm sắc bén và một mũi giáo nhọn hoắt! Nó đã sẵn sàng cho trận chiến vĩ đại!”
“Và ta cũng vậy!” Fflewddur tuyên bố. “Không gì có thể chống lại sự tấn công của một người họ Fflam đang trong cơn thịnh nộ!”
Ông lùn chụp tay lên đầu và nghiến răng.
“Đừng có lảm nhảm nữa, đi ngay!” ông lắp bắp, lần này giận dữ đến độ quên cả nín thở.
Taran xốc tấm khiên lên vai. Hen Wen lùi lại và sợ sệt ủn ỉn.
“Tao biết mày sợ,” Taran thì thầm dỗ dành, “nhưng ở Caer Dathyl mày sẽ được an toàn.”
Cô lợn miễn cưỡng đi theo; nhưng khi Doli bước tới thì nó tụt lại sau và Taran phải cố hết sức để đẩy nó lên. Chiếc mõm hồng hồng của nó run rẩy; mắt đảo từ bên này sang bên kia lối đi. Khi họ phải dừng lại một lần nữa, Doli gọi Taran đến.
“Nếu cứ tiếp tục thế này,” ông hét lên, “thì mi sẽ chẳng còn cơ hội nào đâu. Đầu tiên thì bị một con Quái Điểu cản chân, giờ lại đến một con lợn!”
“Nó đang hoảng sợ.” Taran cố giải thích với ông lùn đang cáu giận. “Nó biết Vua Sừng đang ở gần đây.”
“Thế thì trói nó lại,” Doli nói, “đặt nó lên lưng ngựa.”
Taran gật đầu. “Được thôi, nó sẽ không thích như thế đâu, nhưng chúng ta không thể làm gì khác được.”
Một phút trước, cô lợn đang núp sau một gốc cây, giờ thì chẳng thấy bóng dáng nó đâu hết.
“Hen?” Taran gọi. Cậu quay sang chàng ca sĩ. “Nó chạy đâu mất rồi?” cậu hoảng hốt nói.
Chàng ca sĩ lắc đầu. Cả anh ta lẫn Eilonwy đều không thấy nó chạy đi đâu; Gurgi thì đang bận cho Melyngar uống nước và không hề chú ý tới cô lợn.
“Nó không thể lại chạy mất được.” Taran rên lên. Cậu chạy trở lại khu rừng. Khi quay lại, mặt cậu tái nhợt.
“Nó biến mất rồi.” cậu hổn hển, “Nó đang trốn ở đâu đó, tôi biết mà.” Cậu ngồi phịch xuống đất và vùi mặt vào hai bàn tay. “Lẽ ra tôi không được để nó ra khỏi tầm mắt, cho dù chỉ trong chốc lát.” cậu cay đắng nói. “Tôi đã lơ là nó những hai lần.”
“Hãy để những người khác đi trước,” Eilonwy nói, “chúng ta sẽ đi tìm nó và bắt kịp họ sau.”
Taran chưa kịp trả lời thì đã nghe thấy một âm thanh khiến máu cậu đông lại. Từ rặng đồi vẳng lại tiếng sủa ầm ĩ của bầy chó săn và tiếng tù và kéo dài. Cả nhóm bạn đứng sững người khiếp hãi. Như có một cục băng kinh hoàng chặn trong họng, Taran nhìn những gương mặt cứng đờ quanh cậu. Âm thanh độc ác ấy run rẩy trong không trung; một bóng đen thoáng hiện lên trên bầu trời đang tối sầm lại.
“Nơi nào Gwyn Thợ Săn đi tới,” Fflewddur lẩm bẩm, “cái chết liền kề theo sau.”