ừ đoạn cuối mùa hè kỳ lạ ấy cho tới mùa đông, cuộc sống của tôi không có gì thay đổi. Ngày nào cũng khởi đầu bình lặng, chấm dứt cũng bình lặng như khi nó khởi đầu. Tháng chín trời nhiều mưa. Tháng mười có vài ngày ấm sực đến toát cả mồ hôi. Ngoài khí hậu ra thì hầu như chẳng có gì phân biệt ngày này với ngày kia. Tôi cố gắng tập trung vào những gì thực tế và hữu ích. Ngày nào tôi cũng đi bơi thật lâu, đi dạo, tự nấu ăn ba bữa.
Nhưng dẫu vậy đi nữa, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy cô đơn đến nhói lòng. Ngay cả nước tôi uống, không khí tôi thở dường như cũng tua tủa những chiếc kim dài, bén ngót. Những trang sách trên tay tôi lấp lánh ánh kim loại đầy đe doạ như những lưỡi dao lam. Lúc 4 giờ sáng, chung quanh lặng tờ đến độ tôi như nghe thấy tiếng nỗi cô đơn đâm rễ vào thân tôi mỗi lúc một sâu.
Cuối cùng cha của Kumiko gọi điện cho tôi.
- Con không nói rằng con cương quyết không ly dị, - tôi nói. - Nhưng trước hết con muốn gặp Kumiko nói chuyện tay đôi. Nếu Kumiko thuyết phục được con rằng quả thật cô ấy cần ly dị thì con sẽ cho ly dị. Không thì sẽ chẳng ly dị gì hết.
Tôi ngoái lại cửa sổ nhà bếp nhìn bầu trời xám xịt trĩu mưa trải dài tít đằng xa. Trời mưa đã bốn ngày dòng. Cả thế gian biến thành đen kịt, ướt sũng.
- Kumiko và con đã bàn bạc với nhau mọi chuyện trước khi quyết định cưới nhau, thành thử nếu chấm dứt cuộc hôn nhân đó thì con cũng muốn làm đúng như vậy.
Cha của Kumiko và tôi tiếp tục đối đáp qua lại một hồi mà chẳng đi tới đâu, ít nhất là chẳng đi tới kết quả tích cực nào.
Nhưng điều đó tôi lại không tin được. Từ nhỏ Kumiko đã không có cái gọi là tình yêu thương đối với cha mẹ và anh. Đã bao năm nay nàng đấu tranh để không bị lệ thuộc vào họ. Rất có thể Kumiko bỏ tôi vì nàng có nhân tình. Cho dù tôi không sao chấp nhận được lời giải thích nàng đưa ra trong thư, nhưng tôi biết không thể loại trừ hoàn toàn khả năng đó. Song, điều tôi không thể chấp nhận là Kumiko bỏ tôi để đến thẳng nhà cha mẹ hay một chỗ nào đó họ đã chuẩn bị sẵn sàng cho nàng và thông qua họ mà giữ liên lạc với tôi.
Càng nghĩ, tôi càng không hiểu. Có một khả năng là Kumiko bị suy sụp thần kinh và không sao qua được cơn chấn động đó. Một khả năng khác là nàng đang bị ai đó dùng vũ lực giam giữ. Suốt mấy ngày tôi xếp lui xếp tới trong đầu chuỗi sự kiện, lời nói và ký ức, để rồi rốt cuộc đành chịu thua không nghĩ nữa. Đoán già đoán non chẳng đi tới đâu.
Tôi tự hỏi nên cất giữ quần áo mùa hè của Kumiko bằng cách nào hay nhất. Tôi có thể làm như nàng đã viết trong thư là tống khứ chúng đi. Nhưng tôi nhớ lại, nàng đã từng chăm chút nâng niu từng thứ một đến thế nào. Mà đâu phải tôi không có chỗ nào để giữ. Thế nên tôi quyết định tạm thời quần áo đang treo đâu thì cứ để nguyên ở đấy.
Dẫu vậy, mỗi khi mở tủ, tôi lại va phải sự vắng mặt của Kumiko. Những bộ áo váy treo kia là cái vỏ còn lại của một cái gì không còn tồn tại nữa. Tôi biết rõ nàng trông ra sao khi mặc những bộ đồ đó, một số cái còn gắn liền với những kỷ niệm cụ thể. Nhiều khi tôi cứ ngồi thừ trên mép giường, nhìn đăm đăm những dãy áo dài, áo cánh hoặc váy kia. Tôi không biết mình ngồi đó bao lâu. Có thể mười phút, cũng có thể một tiếng.
Đôi khi, ngắm một bộ áo váy, tôi lại hình dung một người đàn ông mà tôi không quen biết đang giúp Kumiko cởi nó ra. Bàn tay hắn trút áo váy khỏi người nàng, rồi cởi nốt đồ lót bên trong. Bàn tay hắn ve vuốt cặp vú nàng, banh háng nàng ra. Tôi thấy rõ đôi vú và cặp đùi mềm mại trắng nõn của nàng, thấy hai bàn tay gã đàn ông kia đang sờ mó chúng. Tôi không muốn nghĩ về những chuyện như vậy, nhưng không thể nào không nghĩ. Có lẽ những chuyện đó đã diễn ra trong thực tế. Tôi phải cố quen với những hình ảnh đó. Tôi không thể gạt phắt thực tại như thế được.
Thi thoảng tôi lại nhớ đến cái đêm ngủ với Kano Creta, song ký ức về nó khá mơ hồ. Đêm đó tôi ôm cô ta trong vòng tay, nhập thân thể mình vào thân thể cô không biết mấy lần, đó là một sự kiện không thể phủ nhận. Nhưng tuần nối tuần qua, cảm giác chắc chắn kia dần dần biến mất. Tôi không còn phục hồi lại được hình ảnh rõ nét về thân thể cô ta, hay cách mà thân thể đó đã hoà làm một với thân tôi. Có chăng là ký ức về những gì tôi đã làm với cô ta từ trước nữa, trong tâm khảm tôi - trong cõi phi thực - còn sống động hơn nhiều so với ký ức về cái đêm đó. Hình ảnh cô ta chồng chất lên tôi, mặc chiếc áo váy màu xanh biển của Kumiko, trong căn phòng khách sạn xa lạ, trở đi trở lại mãi với tôi, rõ ràng đến kinh ngạc.
Tôi đọc được tin đó trong tờ báo ở thư viện, và ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu tôi là: từ nay trở đi nhà Wataya Noboru sẽ vô cùng bận rộn, chẳng hơi đâu bận tâm đến chuyện ly hôn của Kumiko nữa.
Có cả thảy bốn người lên tiếng bày tỏ mối quan tâm đối với vết bầm tự dưng xuất hiện trên má tôi: chủ hiệu giặt là gần nhà ga, tay thợ cắt tóc, gã thanh niên ở quán rượu Omura, và chị thủ thư ngồi ở quầy thư viện địa phương. Mỗi lần bị hỏi, tôi đều tỏ vẻ bực bội và nói một câu gì đó mơ hồ đại loại như "tôi bị một tai nạn nhỏ". Thế là họ lẩm bẩm "Ồ, ồ, à, à" hay "Xui cho anh quá", như thể xin lỗi vì đã nhắc tới nó.
Càng ngày dường như tôi lại càng xa cách chính mình hơn. Mỗi khi ngắm bàn tay mình hồi lâu, tôi bắt đầu cảm thấy mình đang nhìn xuyên qua nó. Hầu như tôi không nói chuyện với ai. Chẳng ai viết thư hay gọi điện cho tôi. Trong hòm thư tôi chỉ thấy rặt những hoá đơn và thư quảng cáo linh tinh, hầu hết là các catalogue thiết kế và thời trang gửi cho Kumiko, đầy những ảnh màu các kiểu áo váy xuân. Mùa đông năm nay lạnh, nhưng thỉnh thoảng tôi lại quên bật lò sưởi, vì không chắc đấy là lạnh thật hay là lạnh ở bên trong mình. Tôi thường chỉ bật công tắc lò sưởi sau khi đã nhìn nhiệt kế mà tự nhủ "Ờ, lạnh thật", nhưng ngay cả khi đó, cái lạnh mà tôi cảm thấy vẫn không hề giảm bớt.
Một tuần sau Trung uý Mamiya gửi thư phúc đáp cho tôi.
Nói thật, từ khi ta gặp nhau lần trước ông luôn luôn hiện diện một cách lạ lùng trong suy nghĩ của tôi. Tôi rời khỏi nhà ông mà cảm thấy thực ra hai ta cần phải tiếp tục trò chuyện, phải "rút gan rút ruột" cho nhau, có thể nói vậy, và tôi vô cùng ân hận rằng hai ta đã không làm vậy. Thế nhưng, thật không may, tôi có việc đột xuất phải quay về Hiroshima ngay đêm đó. Vì vậy, theo nghĩa nào đó, tôi rất vui khi nhận được thư ông. Tôi tự hỏi phải chăng tất cả là do ông Honda đã có ý định đưa hai ta đến với nhau. Có lẽ ông ấy tin rằng nếu tôi gặp ông và ông gặp tôi thì sẽ rất tốt. Việc trao di vật chỉ là một cái cớ để tôi đến thăm ông. Có thể vì vậy mà món di vật nọ chỉ là một cái hộp rỗng. Bản thân việc tôi đến thăm ông mới là món quà mà ông Honda để lại cho ông.
Tôi sửng sốt khi được biết ông đã chui xuống giếng, bới chính tôi cũng luôn luôn cảm thấy mình bị những cái giếng lôi cuốn mãnh liệt. Một khi đã biết trường hợp cận kề cái chết của tôi, người ta sẽ cho rằng tôi hẳn sẽ không bao giờ muốn thấy một cái giếng nào nữa, nhưng không, hoàn toàn ngược lại: cho tới tận giờ đây, bất cứ khi nào thấy một cái giếng, tôi không thể không dòm xuống. Và nếu hoá ra đó là giếng cạn, tôi cảm thấy nôn nao muốn trèo xuống. Có lẽ vì tôi vẫn nuôi hy vọng gặp một cái gì đó dưới kia, rằng nếu trèo xuống dưới rồi cứ đợi, có thể tôi sẽ gặp một cái gì đó. Chẳng phải vì tôi trông đợi nó sẽ phục hồi cuộc đời cho tôi đâu. Tôi già rồi, không còn ở cái tuổi trông mong những điều như vậy. Cái mà tôi hy vọng tìm thấy được là ý nghĩa của cuộc sống mà tôi đã đánh mất. Cái gì đã tước nó khỏi tôi? Vì sao? Tôi muốn biết lời đáp tuyệt đối chắc chắn cho những câu hỏi đó. Thậm chí tôi có thể nói rằng, nếu như biết được những lời đáp đó, tôi sẽ chẳng kể gì cho dẫu còn đánh mất chính mình một cách sâu xa hơn cả bây giờ. Tôi sẽ vui lòng chấp nhận cái gánh nặng đó dù đời tôi còn lại bao năm đi nữa.
Thực lòng tôi rất lấy làm tiếc khi hay tin bà nhà đã bỏ ông, nhưng về việc này tôi không thể khuyên nhủ gì ông được. Tôi đã sống quá lâu mà không hề biết tới tình yêu thương hay mái ấm gia đình nên không có tư cách gì để nói về những chuyện đó. Tuy nhiên, tôi tin rằng nếu ông có dù chỉ chút lòng mong muốn đợi thêm ít lâu may ra bà ấy quay về thì hẳn ông cứ đợi như ông đang đợi. Đó là ý kiến của tôi, nếu như ý kiến của tôi có chút giá trị gì. Tôi hiểu lắm, phải sống mãi một mình ở nơi mà có kẻ đã bỏ rơi mình thì khó đến nhường nào, song trên đời này chẳng có gì tàn nhẫn bằng không còn gì để hy vọng nữa.
Nếu có thể, tôi muốn đến Tokyo nay mai để gặp lại ông, nhưng thật không may, tôi đang bị đau một bên chân, phải mất ít lâu mới chữa lành. Xin ông bảo trọng.
Đôi khi tôi trèo qua bức tường sau vườn rồi đi dọc cái ngõ quanh co đến nơi từng toạ lạc căn nhà bỏ trống của gia đình Miyawaki. Mặc áo khoác dài đến giữa đùi, khăn quàng quấn kỹ dưới cằm, tôi giẫm lên lớp lá rụng mùa đông trên con ngõ. Gió mùa đông lạnh buốt giật từng cơn, rít qua những hàng dây điện ở trên đầu. Căn nhà đã bị đập bỏ hoàn toàn, mảnh sân giờ đây bị quấn kín bởi một hàng rào cao bằng ván. Tôi có thể nhìn vào trong qua khe hở giữa những tấm ván, nhưng chẳng có gì để nhìn - không còn nhà, không còn những hòn đá lát lối đi, không giếng, không cây, không ăng-ten, không bức tượng chim; chỉ là một khoảnh đất bằng phẳng, đen đúa trông lạnh lẽo, chằng chịt vết xe ủi đất, dăm ba cụm cỏ dại lơ thơ. Thật khó tin rằng từng có một cái giếng sâu trong khoảnh sân này và tôi đã từng chui xuống đáy giếng đó.
Tôi tựa vào hàng rào, nhìn lên ngôi nhà của Kasahara May, nơi từng có căn phòng của cô, trên tầng hai. Nhưng cô không còn ở đó. Cô sẽ không còn bước ra mà nói: "Chào Chim vặn dây cót".
Tôi tự giới thiệu là cháu của cậu tôi, hiện đang sống ở một trong các căn nhà thuộc sở hữu của ông cậu.
- À, tôi hiểu rồi, - ông già vừa nói vừa đặt tờ báo xuống. - Vậy ông là cháu của ông Tsuruta! - Ông gấp cặp kính đọc sách lại rồi nhìn tôi từ đầu đến chân. Tôi không biết mình gây ra ấn tượng thế nào với ông ta. - Vào đây, vào đây. Ông dùng trà nhé?
Tôi bảo ông xin đừng bận tâm, nhưng ông hoặc không nghe thấy hoặc không thèm đếm xỉa đến lời từ chối của tôi. Ông bảo người tiếp tân pha trà. Chẳng mấy chốc bà ta đã mang trà tới, nhưng khi hai chúng tôi ngồi đối diện nhau uống trà, lò sưởi tắt, căn phòng đâm ra mát lạnh. Trên tường treo một tấm bản đồ chi tiết tất cả các căn nhà trong khu vực, đây đó được đánh dầu bằng bút chì hay bút dạ. Gần tấm bản đồ là tấm lịch của ngân hàng nào đó, có in bức tranh nổi tiếng của Van Gogh vẽ cây cầu.
- Đã khá lâu tôi không gặp cậu của anh. Ông ấy dạo này thế nào? - ông già hỏi sau khi nhấp một ngụm trà.
- Cậu tôi chắc vẫn khoẻ, lúc nào cũng bận rộn. Bản thân tôi cũng chẳng mấy khi gặp cậu, - tôi nói.
- Được thế thì tôi mừng. Từ lần cuối tôi gặp ông ấy đến giờ đã mấy năm rồi nhỉ? Thấy như đã hàng bao nhiêu năm trời không gặp lại nhau. - Ông lấy một điếu thuốc từ trong túi áo khoác, cẩn thận ướm thử rồi quẹt diêm châm thuốc bằng một cử chỉ đầy quyết đoán. - Tôi chính là người đã khuyên cậu anh mua căn nhà đó, sau đó cũng lại là tôi quản lý nó cho ông ấy suốt một thời gian dài. Dù sao, được biết ông ấy vẫn bận rộn thì tôi cũng vui.
Bản thân ông Ichikawa xem ra chẳng lấy gì làm bận rộn. Tôi đoán ông ta hẳn đã về hưu một nửa, chỉ thi thoảng tạt vào cơ quan để trông nom các khách hàng lâu năm thôi.
- Vậy anh có thích căn nhà không? Không có vấn đề gì chứ?
- Không, hoàn toàn không có gì ạ, - tôi đáp.
Ông lão gật đầu.
- Vậy thì tốt. Chỗ đó đẹp lắm. Có thể nhà hơi nhỏ, nhưng sống ở đó rất tốt. Ai sống ở đó thì mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái. Anh cũng vậy phải không?
- Tàm tạm ạ, - tôi nói. Ít nhất là mình vẫn còn sống, tôi tự nhủ. - Tuy nhiên, tôi có đôi điều muốn hỏi ông. Cậu tôi nói ông rành khu này hơn bất cứ ai.
Ông già tủm tỉm cười.
- Nếu bảo là rành thì khu này tôi hơi bị rành đấy. Tôi kinh doanh nhà đất ở khu này đã gần bốn mươi năm rồi còn gì.
- Tôi muốn hỏi ông là hỏi về nhà của gia đình Miyawaki, phía sau nhà chúng tôi. Nhà ấy bị san phẳng rồi, như ông biết đấy.
- Phải, tôi biết, - ông lão nói, môi mím lại như thể đang lục qua các ngăn kéo trong trí nhớ. - Nhà ấy người ta bán hồi cuối tháng Tám. Rốt cuộc họ cũng trả được hết nợ, lo liệu xong quyền sở hữu và các vấn đề pháp lý để đưa nhà ra bán. Một nhà đầu cơ mua lại, phá nhà đi để bán đất. Một căn nhà dù tốt đến mấy mà để trống lâu như vậy thì cũng sẽ khó bán. Dĩ nhiên, những người mua căn nhà đó không phải người ở đây. Nếu là dân khu này thì chẳng ai đụng tới chỗ đó. Anh có nghe vài chuyện về căn nhà ấy chưa?
- Có, tôi có nghe cậu tôi kể.
- Thế thì anh hiểu ý tôi nói gì rồi. Nếu là người biết sự tình thì đã không mua. Lẽ ra chúng tôi cũng có thể cứ mua rồi tìm một ai đó chẳng biết gì để bán lại, nhưng chúng tôi không làm vậy. Thối lắm. Chúng tôi không làm ăn kiểu đó.
Tôi gật đầu đồng tình.
- Vậy thì ai đã mua?
Ông lão nhíu mày lắc đầu, rồi cho tôi biết tên của một công ty bất động sản có tiếng.
- Chắc là họ chẳng nghiên cứu gì hết, vừa thấy vị trí căn nhà và giá bán là chộp ngay, chắc mẩm phen này lãi nhanh. Nhưng đâu có dễ.
- Đến giờ họ vẫn chưa bán được sao?
- Mấy lần cũng suýt bán được rồi, - ông lão vừa nói vừa khoanh tay lại. - Mua một mảnh đất đâu có rẻ. Đầu tư cả đời chứ có ít gì. Ai người ta cũng cẩn thận lắm. Trước khi quyết định mua, người ta bắt đầu tìm hiểu kỹ hơn, thế là mới biết hàng bao nhiêu chuyện xung quanh cái nhà ấy, mà chẳng chuyện nào tốt lành cả. Anh đã nghe mấy chuyện như vậy rồi, người bình thường mà nghe thấy thì đời nào dám mua. Hầu hết những ai sống quanh đây đều biết mấy chuyện đồn đại về nơi đó.
- Họ đòi bao nhiêu?
- Đòi gì kia?
- Giá mảnh đất nơi nhà của Miyawaki trước kia ấy.
Ông Ichikawa nhìn tôi, xét theo cách ông nhìn, tôi đã gây sự tò mò ở ông.
- Để xem nào. Khu ấy rộng hơn ba ngàn năm trăm bộ vuông một chút. Chưa tới một trăm tsubo 1. Giá thị trường là một triệu rưỡi Yên một tsubo. Ý tôi là khu đất ấy thuộc hạng nhất đấy - vị trí tuyệt vời, hướng Nam. Tuy thị trường hiện đang eo sèo nhưng giá một triệu rưỡi là chắc. Dĩ nhiên có thể đợi thêm ít lâu, rồi giá cũng sẽ lên khoảng đó. Nhưng đấy là nói về đất bình thường. Nhưng đất của nhà Miyawaki thì đâu có thường. Có đợi lâu đến mấy giá cũng không tăng nữa đâu. Giảm thì có. Hiện nay đã giảm còn một triệu mốt Yên một tsubo, nhưng nếu mặc cả chút ít thì có thể mua trọn khu đất với giá một triệu Yên tròn.
- Ông có cho rằng giá sẽ tiếp tục hạ nữa không?
Ông lão gật đầu cả quyết.
- Dĩ nhiên còn hạ nữa. Xuống còn chín trăm ngàn một tsubo, dễ không. Đó chính là cái giá mà họ đã trả để mua. Giờ thì họ đang lo sốt vó lên. Chỉ cần hoà vốn là họ vui lắm rồi. Tôi không biết liệu họ có giảm xuống nữa không. Nếu cần tiền quá thì có khi họ cũng đành chịu lỗ. Nếu không thì họ có thể đợi. Tôi chẳng biết tình hình công ty ấy thế nào. Nhưng tôi biết chắc rằng họ hối tiếc đã mua chỗ đó. Tốt nhất là chớ dây vào mảnh đất đó, chỉ rách việc.
Ông gạt tro vào tàn thuốc.
- Mảnh đất ấy có một cái giếng phải không ạ? - tôi hỏi. - Ông có biết gì về cái giếng ấy không?
- Hừm, đúng là có một cái giếng. Giếng sâu. Nhưng chắc họ lấp rồi. Đằng nào cũng là giếng cạn mà. Đâu có dùng được.
- Ông có biết vì sao nó bị cạn không?
Ông lão khoanh tay nhìn lên trần một lát.
- Từ lâu lắm rồi. Thực tình tôi không nhớ, nhưng nghe nói hồi trước chiến tranh thì nó từng có nước. Chắc nó đã bị cạn sau chiến tranh. Chính xác khi nào thì tôi không biết. Nhưng tôi biết khi bà diễn viên dọn vào ở thì nó đã cạn rồi. Lúc đó người ta bàn cãi nhau rất ghê xem có nên lấp giếng lại không. Nhưng rồi chẳng ai làm gì cả. Chắc là vì nhiêu khê quá.
- Tôi nghe nói giếng ở sân nhà Kasahara phía bên kia ngõ thì lại nhiều nước, mà nước rất ngon là khác.
- Có thể, có thể. Tất cả giếng ở khu này luôn luôn có nước, ngon, ngọt. Chuyện này chắc có liên quan đến đất. Anh biết đó, chuyện mạch nước này nọ thì phức tạp lắm. Một chỗ có nước mà ngay bên cạnh lại không thì chẳng bình thường đâu. Nhưng có gì khiến anh quan tâm tới cái giếng ấy vậy?
- Thú thật với ông, tôi muốn mua mảnh đất đó.
Ông lão ngước lên chăm chú nhìn vào tôi. Đoạn ông nâng tách trà lên lặng lẽ nhấp một ngụm.
- Anh muốn mua mảnh đất ấy?
Tôi chỉ im lặng gật đầu.
Ông lão rút từ trong bao ra một điếu thuốc nữa rồi bập bập lên mặt bàn. Nhưng rồi, thay vì châm lửa, ông lại kẹp nó giữa mấy ngón tay, tặc tặc lưỡi giữa hai môi.
- Hay để tôi nói thêm lần nữa rằng chỗ đất đó có lắm chuyện không ổn. Không ai - tôi xin nói rõ là không một ai - sống ở đó mà gặp điều lành cả. Anh có hiểu không? Dù có rẻ cách mấy thì cũng chớ mừng là được món hời. Biết vậy mà anh vẫn muốn mua sao?
- Vâng, tôi vẫn muốn mua. Nhưng cho tôi nói rõ điều này: hiện tôi không có đủ tiền để mua chỗ đó dù giá có hạ đến mấy so với giá thị trường đi nữa. Nhưng tôi định sẽ lo chạy tiền, dù phải mất một thời gian. Vì vậy tôi muốn rằng trong thời gian đó vẫn theo dõi được tình hình mảnh đất, giá cả lên xuống thế nào, có người nào muốn mua không. Ông có thể giúp tôi chuyện đó không?
Ông lão nhìn đăm đăm điếu thuốc chưa châm lửa, đắm mình suy nghĩ. Rồi ông khẽ ho để hắng giọng và nói:
- Đừng lo, anh còn thời gian; chỗ ấy không bán nhanh được đâu, đảm bảo với anh thế. Chỉ khi nào họ bán với giá gần như cho không thì may ra mới có nhúc nhích gì, mà chuyện đó thì còn lâu. Thành thử anh cứ thủng thẳng gom góp tiền, cần bao nhiêu thời gian cũng được. Nếu anh thực sự muốn mua.
Tôi cho ông ta số điện thoại. Ông lão ghi vào một cuốn sổ bìa đen ố mồ hôi. Nhét cuốn sổ vào túi áo khoác xong, ông nhìn thẳng vào mắt tôi một lát rồi nhìn vết bầm trên má tôi.
- Tôi đã bảo anh rằng chẳng một sớm một chiều mà được đâu, - ông nói thêm, giọng nhuốm vẻ tự hào. - Đừng lo, từ giờ trở đi sẽ càng ngày càng rẻ hơn thôi. Mà này, công việc của anh thế nào rồi? Tiền gom góp được chứ?
Ta phải có cái giếng đó. Dẫu có chuyện gì đi nữa, ta phải có cái giếng đó.
Tôi đã kết luận như vậy.
--------------------------------
Tsubo: đơn vị đo diện tích đất, ruộng... của Nhật, tương đương với khoảng 33 mét vuông - ND |