ở dĩ tôi phải gọi cho ông giữa đêm hôm thế này là bởi tôi thấy cần phải gặp ông càng sớm càng tốt, - Kano Malta nói. Nghe cô ta nói, tôi có ấn tượng rằng cô đang lựa chọn và sắp xếp từng từ một thành những câu có cấu trúc chỉn chu chuẩn xác theo những nguyên tắc logic nghiêm ngặt, cô ta bao giờ cũng ăn nói như thế. - Nếu ông không phản đối, có vài câu hỏi mà tôi xin phép được hỏi ông, thưa ông Okada. Ông cho phép chứ ạ?
Cầm ống nghe trong tay, tôi ngồi xuống sofa.
- Xin mời cô, cứ hỏi gì cũng được.
- Thưa ông Okada, chẳng hay hai ngày vừa qua ông đã đi đâu? Tôi đã cố gọi điện cho ông không biết bao nhiêu lần, nhưng hình như lúc nào ông cũng đi vắng.
- Ừ, phải, tôi đi vắng. Tôi muốn đi khỏi nhà một thời gian. Tôi cần ở một mình để suy nghĩ đôi chút. Tôi có rất nhiều chuyện cần phải nghĩ.
- Vâng, thưa ông Okada, tôi rất hiểu điều đó. Tôi hiểu tâm trạng của ông. Thay đổi hoàn cảnh có thể là rất tốt những khi ta cần suy nghĩ rõ ràng, thấu đáo về một việc gì. Tuy nhiên trong trường hợp này, ông Okada ạ - tôi cũng biết hỏi thế này thì có vẻ hơi tọc mạch - ông có đi đâu xa lắm không?
- Không, không xa lắm, - tôi nói, cố tình tỏ ra mập mờ. Tôi chuyển ống nghe từ tay trái sang tay phải. - Nói thế nào nhỉ? Tôi đã ở một nơi có phần cách ly. Tuy nhiên, tôi không thể nói chi tiết được. Tôi có lý do của riêng tôi. Tôi vừa mới về thôi, tôi mệt quá nên không giải thích dài được.
- Dĩ nhiên rồi, ông Okada. Tôi hiểu. Ai cũng có lý do riêng của mình. Tôi không ép ông phải giải thích đâu. Ắt là ông phải mệt lắm. Nghe giọng ông tôi biết. Xin ông đừng băn khoăn gì về tôi. Tôi sẽ không dám hỏi quá nhiều kẻo lại phiền ông giữa đêm hôm khuya khoắt thế này. Tôi vô cùng xin lỗi. Chúng ta có thể nói về chuyện này sau, vào một lúc thích hợp hơn. Tôi biết hỏi ông một câu có tính riêng tư thế này thì khí sỗ sàng, nhưng tôi làm vậy chỉ là vì tôi rất lo nhỡ có chuyện gì chẳng lành đã xảy ra cho ông trong mấy ngày qua.
Tôi cố tìm một lời đáp thích hợp, nhưng cái âm thanh nhỏ thoát ra từ họng tôi nghe chẳng giống lời đáp mà giống tiếng ngáp ngáp của con vật sống dưới nước phải thở theo kiểu trên cạn. Chuyện chẳng lành, tôi nghĩ. Trong tất cả những gì đang xảy ra với tôi, đâu là chuyện lành và đâu là chuyện chẳng lành? Đâu là chuyện phải, đâu là không phải?
- Cám ơn cô đã lo lắng cho tôi như vậy, - tôi nói, cố chỉnh giọng cho bình thường. - Hiện giờ tôi vẫn ổn. Tôi không thể nói là đã có điều lành xảy ra với tôi, nhưng mặt khác cũng không có chuyện gì là đặc biệt chẳng lành.
- Được biết vậy tôi rất vui.
- Tôi chỉ mệt, có thế thôi, - tôi nói thêm.
Kano Malta khẽ hắng giọng một cách trang nhã.
- Nhân thể, thưa ông Okada, tôi không biết liệu ông có nhận thấy một sự thay đổi nào về vật lý xảy ra trong mấy ngày qua không?
- Thay đổi về vật lý? Với tôi?
- Vâng, ông Okada ạ. Một sự thay đổi nào đó trên cơ thể ông.
Tôi ngẩng mặt lên nhìn hình phản chiếu của mình trên tấm cửa kính trông ra sân, nhưng không nhìn ra được cái gì có thể gọi là "thay đổi về vật lý". Tôi đã tỉ mẩn kỳ cọ từng phần cơ thể trong khi tắm nhưng khi đó cũng không phát hiện thấy gì.
- Ý cô muốn nói thay đổi kiểu gì kia? - tôi hỏi.
- Chính tôi cũng không biết là cái gì, nhưng đó hẳn là một thay đổi rất rõ, bất cứ ai nhìn ông sẽ nhận thấy ngay.
Tôi duỗi bàn tay phải ra trên bàn, nhìn đăm đăm vào lòng bàn tay, nhưng đó vẫn là lòng bàn tay bình thường. Nó không hề có thay đổi gì để tôi có thể nhận ra. Nó không trở nên phủ đầy vàng lá, cũng không đâm ra có màng giữa các ngón. Nó không đẹp cũng chẳng xấu.
- Cô bảo ai nhìn vào tôi cũng sẽ nhận ra, vậy ý cô là sao? Kiểu như đôi cánh mọc trên lưng tôi ấy à?
- Cũng có thể vậy, - Kano Malta nói, vẫn bằng giọng đều đều như thường. - Dĩ nhiên, tôi chỉ nói là có khả năng như vậy.
- Dĩ nhiên, - tôi nói.
- Vậy thì ông đã nhận ra sự thay đổi nào như thế chưa?
- Chưa. Ít nhất là đến giờ. Nhưng nếu như sau lưng tôi mọc cánh thì ắt tôi phải nhận ra chứ, phải không?
- Dĩ nhiên, - Kano Malta nói. - Nhưng xin ông Okada hãy cẩn thận. Biết được tình trạng của chính mình không phải là việc đơn giản. Chẳng hạn, người ta không thể nhìn thẳng vào mặt mình bằng chính mắt mình. Người ta không có cách nào khác ngoại trừ nhìn ảnh phản chiếu ở trong gương. Qua kinh nghiệm ta đâm ra tin hình ảnh đó là chân thực, nhưng đó chỉ là niềm tin mà thôi.
- Tôi sẽ cẩn thận, - tôi nói.
- Tôi còn có một chuyện nữa xin được hỏi ông, thưa ông Okada. Ít lâu nay tôi không liên lạc được với Creta em tôi, cũng như không liên lạc được với ông vậy. Có thể chỉ là ngẫu nhiên, nhưng tôi thấy rất lạ. Tôi tự hỏi liệu ông có biết chút gì về nguyên nhân điều đó chăng.
- Kano Creta?!
- Vâng, - Kano Malta nói. - Ông có nảy ra ý gì về chuyện đó không?
- Không, tôi chẳng nảy ra được gì cả, tôi đáp. Tôi không có căn cứ rõ ràng nào để nghĩ vậy, nhưng tôi cảm thấy trong lúc này tốt nhất là không kể với Kano Malta về việc mới đây tôi đã nói chuyện trực tiếp với Kano Creta và ngay sau đó cô ta biến mất. Đó chỉ là cảm giác thôi.
- Creta đã rất lo lắng vì không liên lạc được với ông Okada. Đêm qua nó ra khỏi nhà, bảo rằng nó định đến nhà ông xem có chuyện gì không, nhưng rồi đến giờ này nó vẫn chưa về. Và chẳng hiểu vì lý do gì tôi cảm thấy nó không còn nữa.
- Tôi hiểu. Nếu như cô ấy đến đây, tôi sẽ bảo cô ấy gọi cho cô ngay.
Kano Malta im lặng một lát.
- Chẳng giấu gì ông, tôi rất lo cho Kano Creta. Ông biết đấy, công việc mà nó và tôi đang làm hoàn toàn không bình thường chút nào. Nhưng nó không thành thạo những vấn đề của cái thế giới đó như tôi. Tôi không có ý nói rằng nó không có khiếu. Thực ra nó rất có năng khiếu. Nhưng nó vẫn chưa hoàn toàn thích nghi với cái năng khiếu đó của mình.
- Tôi hiểu.
Kano Malta lại im lặng. Lần này cô im lặng lâu hơn những lần trước. Tôi có cảm giác cô đang ngần ngừ sao đó.
- Alô. Cô vẫn ở đó chứ? - tôi hỏi.
- Vâng, ông Okada. Tôi vẫn ở đây, - cô đáp.
- Nếu gặp Creta, nhất định tôi sẽ bảo cô ấy liên lạc với cô ngay, - tôi nói một lần nữa.
- Đa tạ ông, - Kano Malta nói. Thế rồi, sau khi xin lỗi vì đã gọi điện quá khuya, cô gác máy. Tôi cũng gác máy, rồi lại nhìn hình phản chiếu của mình trên cửa kính một lần nữa. Đột nhiên một ý nghĩ bật ra trong đầu tôi: tôi có thể sẽ không bao giờ nói chuyện với Kano Malta nữa. Đây có thể là lần cuối cùng tôi tiếp xúc với cô ta. Cô ta có thể sẽ biến mất vĩnh viễn khỏi cuộc đời tôi. Tôi chẳng có lý do đặc biệt nào để nghĩ như vậy, đó chỉ là một cảm giác chợt đến.
Tôi đút đèn pin vào túi, mang giày, bước xuống sân rồi lại trèo qua tường. Rồi tôi lần theo ngõ về phía căn nhà không người ở. Nhà Kasahara May vẫn tối như mực. Kim đồng hồ của tôi chỉ gần 3 giờ sáng. Tôi bước vào sân căn nhà không người ở rồi tiến thẳng về phía giếng. Thang dây vẫn buộc chắc vào gốc cây và thả xuống giếng, miệng giếng vẫn mở một nửa.
Có cái gì đó mách bảo tôi cúi nhìn xuống giếng mà gọi tên Kano Creta khe khẽ, chỉ lớn hơn thì thầm một chút. Không có tiếng trả lời. Tôi rút đèn pin soi xuống giếng. Ánh đèn không rọi đến đáy giếng, nhưng tôi nghe có tiếng gì rất nhỏ như tiếng rên. Tôi thử gọi tên cô lần nữa.
- Không sao đâu, tôi ở đây, - Kano Creta nói.
- Cô làm gì ở cái chỗ này chứ? - tôi hạ giọng hỏi.
- Tôi làm gì à? Tôi đang làm chính cái việc ông đã làm, ông Okada ạ, - cô nói, giọng rõ là bối rối. - Tôi đang suy nghĩ. Đây thực sự là một chỗ thật tuyệt cho mình suy nghĩ, phải không?
- Ừ, có thể thật, - tôi nói. - Nhưng chị cô vừa gọi đến nhà tôi, mới đây thôi. Cô ấy lo cho cô lắm. Nửa đêm rồi mà cô vẫn chưa về nhà, chị cô bảo cô ấy có cảm giác là cô không còn nữa. Cô ấy nhờ tôi nếu gặp cô thì bảo cô liên lạc cho cô ấy ngay lập tức.
- Tôi hiểu. Cám ơn ông đã mất công.
- Không có gì đâu, Kano Creta à. Cô có thể làm ơn ra khỏi đó được không? Tôi có chuyện muốn nói với cô.
Cô không trả lời.
Tôi tắt đèn pin nhét lại vào túi.
- Sao ông Okada không xuống đây? Hai ta có thể ngồi dưới này nói chuyện.
Lại xuống dưới giếng để nói chuyện với Kano Creta cũng không phải là một ý tồi, tôi nghĩ, nhưng rồi tôi nhớ tới bóng tối mốc rêu dưới đáy giếng và lại nghe nặng trĩu nơi dạ dày.
- Không, xin lỗi, tôi không xuống đó lại đâu. Mà cô cũng phải leo lên thôi. Ai đó có thể lại kéo thang lên. Không khí lại thiếu oxy nữa.
- Tôi biết. Nhưng tôi muốn ở dưới này thêm chút nữa. Đừng lo cho tôi.
Nếu Kano Creta đã không có ý định ra khỏi giếng thì tôi chẳng làm gì được.
- Hồi nãy nói chuyện với chị cô qua điện thoại, tôi không cho cô ấy biết tôi đã gặp cô ở đây. Tôi hy vọng mình làm vậy là đúng. Tôi chỉ có cảm giác tốt nhất là không nói gì.
- Ông có lý, - Kano Creta nói. - Xin đừng kể với chị tôi rằng tôi đang ở đây. - Lát sau cô nói thêm: - Tôi không muốn làm chị ấy lo lắng, nhưng đôi khi tôi cũng cần một cơ hội để suy nghĩ. Tôi sẽ ra khỏi đây ngay lúc nghĩ xong. Hiện giờ tôi muốn ở một mình, mong ông không phiền. Tôi sẽ không làm ông phải lo đâu.
Tôi quyết định tạm thời cứ để cô ta đó mà trở về nhà. Sáng ra tôi có thể quay lại xem cô ta thế nào. Nếu giữa đêm Kasahara May lại kéo thang lên, tôi vẫn có thể tìm cách giải quyết, giúp Kano Creta lên khỏi giếng bằng cách này hay cách khác. Tôi về nhà, cởi quần áo, nằm dài lên giường. Nhặt quyển sách đang đọc dở, tôi mở ra. Tưởng như hoàn cảnh hiện tại sẽ khiến tôi không thể ngủ ngay được, nhưng đọc được chưa đầy hai trang thì tôi đã díp mắt lại. Tôi gấp sách, tắt đèn, liền đó đã ngủ say như chết.
Lại bước ra con ngõ, tôi tựa vào hàng rào căn nhà hoang, quan sát nhà Kasahara May một hồi. Tôi nghĩ cô sẽ nhìn thấy tôi ở đó như mọi khi và sẽ ra, nhưng chẳng thấy cô đâu. Xung quanh hoàn toàn yên lặng, không một bóng người, không một âm thanh nào, đến cả tiếng ve sầu cũng không. Tôi cứ đứng thế, lấy mũi giày chọc chọc xuống đất. Khu nhà tôi ở hình như có cái gì đó khang khác, lạ lẫm, như thể trong mấy ngày tôi ở dưới giếng, cái thực tại cũ của nơi này đã bị thay bằng một thực tại mới, nó đã trụ chắc và chiếm lĩnh nơi này mãi mãi. Ngay từ lúc lên khỏi giếng trở về nhà tôi đã cảm thấy như vậy tận sâu trong tim.
Đi theo con ngõ về đến nhà, tôi vào buồng tắm đánh răng. Mặt tôi lởm chởm râu mấy ngày chưa cạo. Tôi trông cứ như một nạn nhân đắm tàu vừa được cứu sống. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi để râu mọc dài đến vậy. Tôi chợt nghĩ vẩn vơ không biết có nên để dài vậy không, nhưng rồi ngẫm lại tôi quyết định cạo. Chẳng hiểu vì lý do gì, tôi cảm thấy cứ để nguyên khuôn mặt như lúc Kumiko bỏ đi thì hơn.
Tôi làm mềm râu bằng khăn tắm nhúng nước ấm rồi thoa lên râu một lớp kem dày. Sau đó tôi bắt đầu cạo, chậm rãi, cẩn thận, cố tránh làm xước mặt: đầu tiên là cằm, kế đó là má trái, rồi đến má phải. Sau khi cạo xong má phải, điều tôi nhìn thấy trong gương làm tôi nghẹn thở. Trên má phải tôi có một vết xanh đen không hiểu là gì. Thoạt tiên tôi nghĩ chắc mình ngẫu nhiên bị một vết bẩn. Tôi lau sạch chỗ kem cạo râu còn sót lại rồi rửa mặt kỹ bằng xà bông và nước, đoạn lấy vải nỉ xát lấy xát để lên chỗ bẩn. Nhưng vết bẩn không chịu đi. Dường như nó đã ăn sâu vào da. Tôi đưa ngón tay miết lên. Chỗ da đó nghe như ấm hơn một chút so với những chỗ còn lại trên mặt, ngoài cái đó ra thì chẳng có cảm giác gì đặc biệt. Nó là một vết bầm. Tôi đang mang trên má một vết bầm đúng ở nơi tôi đã cảm thấy nóng khi còn ở dưới giếng.
Tôi đưa mặt sát vào gương, xem xét vết bầm hết sức cẩn thận. Nó nằm ngay gần xương hàm, kích thước bằng bàn tay đứa trẻ sơ sinh. Nó có màu xanh dương thẫm gần như đen, giống màu mực Mont Blanc xanh đen mà Kumiko luôn dùng.
Có thể giải thích rằng đây là do dị ứng da. Hẳn tôi đã tiếp xúc với một cái gì đó ở dưới giếng khiến da rộp lên. Nhưng ở dưới đáy giếng kia làm gì có một thứ nào có thể gây chuyện ấy chứ? Tôi đã dùng đèn pin kiểm tra cẩn thận từng li từng tí một dưới đáy giếng, ở đó ngoài nền đất và vách giếng ra nào có gì đâu. Vả lại, có bao giờ dị ứng hay viêm da mà lại thành một vết bầm hình thù rõ rệt như thế không?
Một cơn hoảng loạn nhẹ trùm lấy tôi. Trong khoảnh khắc tôi mất hết cảm giác về phương hướng, như một cơn sóng lớn dập lên ta trên bãi biển cuốn ta đi vậy. Khăn mặt rơi khỏi tay tôi. Tôi va phải cái sọt rác, vấp chân vào cái gì đó trên sàn, lẩm bẩm một hồi những âm tiết vô nghĩa. Nhưng rồi tôi cố trấn tĩnh, tựa người vào bồn rửa mặt, cố bình tĩnh suy nghĩ xem phải đối phó ra sao với sự kiện này.
Việc tốt nhất tôi có thể làm trước mắt là đợi xem sao. Đi bác sĩ thì lúc nào chẳng được. Có thể đây chỉ là một tình trạng nhất thời, tự nó sẽ khỏi, giống như da bị rộp vì gặp véc ni vậy. Nó chỉ mới hình thành cách đây mấy hôm, nên có khi nó cũng sẽ biến mất nhanh vậy thôi. Tôi xuống bếp pha ít cà phê. Tôi đói, nhưng cứ hễ thử ăn gì đó là cảm giác thèm ăn lại biến mất như nước trong tay vậy.
Tôi duỗi dài trên sofa, nhìn mưa bắt đầu rơi. Chốc chốc tôi lại xuống buồng tắm nhìn vào gương, nhưng chẳng thấy vết bầm có thay đổi gì. Nó đã nhuộm chỗ đó trên má tôi thành một màu xanh thẫm, gần như là đẹp.
Nghĩ lại, tôi thấy chỉ một chuyện duy nhất có thể là nguyên nhân gây ra cớ sự này, ấy là trong cơn ảo giác như giấc mơ trước bình minh khi tôi còn ở dưới giếng, lúc người đàn bà trên điện thoại đi trước dắt tay tôi, tôi đã đi xuyên qua tường. Cô ta đã kéo tôi xuyên qua tường để chúng tôi thoát khỏi kẻ nào đó nguy hiểm vừa mở cửa và đang bước vào phòng. Đúng khoảnh khắc đi qua tường, tôi đã có cảm giác rõ rệt rằng má mình nóng ran lên, ở chính nơi mà bây giờ có vết bầm. Dĩ nhiên, giữa việc tôi đi qua tường với việc hình thành vết bầm trên má tôi có mối liên hệ nhân quả nào thì chưa giải thích được.
Gã đàn ông không mặt đã nói với tôi nơi tiền sảnh khách sạn. "Đây không phải lúc," hắn đã cảnh cáo tôi. "Ông không nên có mặt ở đây". Nhưng tôi đã lờ đi lời cảnh cáo của hắn mà cứ dấn tới. Tôi đang căm giận Wataya Noboru, giận chính cơn bối rối của mình. Và có lẽ hậu quả là tôi mang vết bầm này.
Trên vết bầm này có thể có một dấu triện mà giấc mơ hay cơn ảo giác hay cái gì gì đó để lại. Đây không phải là giấc mơ, chúng nói với tôi vậy qua vết bầm. Chuyện đó thật sự đã xảy ra. Từ nay trở đi, mỗi khi nhìn vào vết bầm, mi sẽ buộc phải nhớ đến nó.
Tôi lắc đầu. Quá nhiều chuyện chưa giải thích nổi. Điều duy nhất tôi hiểu rõ, đó là tôi tuyệt không hiểu gì hết. Một cơn giần giật âm ỉ bắt đầu nổi lên trong đầu tôi. Tôi không thể nghĩ ngợi gì nữa. Tôi chẳng thấy muốn làm bất cứ việc gì. Tôi nhấp một ngụm cà phê âm ấm rồi lại nhìn ra ngoài mưa.
Khi ông cậu hỏi Kumiko dạo này thế nào, tôi nói nàng vẫn khỏe, rồi thôi. Sau đó tôi nói thêm rằng nàng đang đi công tác ngắn hạn. Thật ra tôi cũng có thể kể thật sự tình với ông, nhưng diễn đạt có đầu có đuôi cho người khác hiểu về một chuyện vừa mới xảy ra là việc bất khả thi. Chính mình cũng chưa rõ lắm thì làm sao giải thích cho người khác rõ được? Tôi quyết định tạm thời chưa nói sự thật cho ông cậu biết.
- Cậu đã từng sống trong căn nhà này phải không ạ? - tôi hỏi.
- Có chứ, - ông đáp. - Sáu bảy năm gì đó. Khoan đã nào... Cậu mua cái nhà ấy hổi cậu ba mươi lăm tuổi rồi sống ở đấy đến năm bốn mươi hai tuổi. Vậy là bảy năm. Đến khi lấy vợ thì cậu chuyển sang căn hộ bây giờ. Suốt bảy năm đó cậu sống có một mình.
- Cháu đang tự hỏi không biết có chuyện gì chẳng lành xảy ra với cậu trong thời gian sống ở đây không?
- Chuyện chẳng lành? Kiểu như chuyện gì?
- Tỉ như là cậu bị bệnh hay phải chia tay cô nào đó chẳng hạn.
Cậu tôi phá lên cười ha hả.
- Cậu đã chia tay không chỉ một cô, chuyện đó thì chắc rồi. Nhưng không phải chỉ khi cậu sống ở đó. Hà, cậu thấy chuyện đó có gì là chẳng lành đâu. Nói thật với cháu, cậu chả tiếc cô nào cả. Còn bệnh ấy à... Chà. Không, bệnh cũng không. Có chăng là cái bướu gì đó mọc sau cổ, phải mổ lấy ra, nhưng chỉ thế thôi. Cậu đi cắt tóc, thợ họ phát hiện ra và bảo phải mổ ngay cho an toàn. Thế là cậu đi bác sĩ, nhưng hóa ra chẳng có gì ghê gớm hết. Đó là lần đầu cậu đi bác sĩ trong suốt thời gian sống ở nhà đó, mà cũng là lần cuối. Có khi cậu phải đòi lại tiền bảo hiểm y tế ấy chứ!
- Vậy là cậu chẳng có ký ức không vui nào về cái nhà này phải không?
- Không, không, - cậu tôi nghĩ một chút rồi nói. - Nhưng sao bỗng dưng cháu hỏi thế?
- Không có gì đâu ạ, - tôi đáp. - Hôm nọ Kumiko có gặp một thầy bói, ông ta kể cho cô ấy chẳng biết bao nhiêu chuyện về cái này, nào là nó xui xẻo, xúi quẩy, kiểu kiểu thế, - tôi nói dối. - Cháu thì nghĩ toàn là bốc phét thôi, nhưng cháu đã hứa sẽ hỏi cậu xem sao.
- Hừm... Người ta gọi là gì nhỉ? Phong thủy hay địa mạch gì gì ấy... Cậu chả rành mấy chuyện đó đâu. Nhưng cậu đã sống ở nhà đó, thấy mọi chuyện đều ổn, chẳng có vấn đề gì. Dĩ nhiên nhà Miyawaki thì khác hẳn, nhưng cháu thì ở khá xa nhà ấy mà.
- Sau khi cậu dọn đi thì đã có những ai đến sống ở đây hở cậu? - tôi hỏi.
- Xem nào, sau cậu thì có một thầy giáo cùng gia đình ở đấy trong ba năm, sau đó thì một cặp vợ chổng trẻ ở trong năm năm. Anh chồng kinh doanh gì đó, nhưng cậu không nhớ là ngành gì. Cậu không dám chắc ai cũng sống vui vẻ hạnh phúc trong căn nhà đó, bởi cậu có một đại lý bất động sản chuyên quản lý căn nhà đó thay cho cậu mà. Cậu chẳng bao giờ gặp những người đó, cũng không biết vì sao họ dọn đi, nhưng cậu chưa bao giờ nghe có chuyện gì chẳng lành xảy ra với ai. Cậu chỉ nghĩ chắc tại nhà hơi nhỏ đối với họ nên họ muốn xây nhà riêng cho mình, thế thôi.
- Có người bảo cháu rằng dòng chảy của nơi này bị ngăn trở. Nghe thế cậu có đoán ra gì không ạ?
- Dòng chảy bị ngăn trở á?
- Cháu cũng không hiểu nói thế nghĩa là thế nào. Người ta bảo thế thôi.
Cậu tôi ngẫm nghĩ một chút.
- Không, cậu không đoán ra gì cả. Nhưng cái ngõ mà người ta rào cả hai đầu lại thì có lẽ chẳng hay gì. Đường đi mà đầu vào chẳng có đầu ra cũng không thì lạ lắm, cứ nghĩ mà xem. Nguyên lý cơ bản của đường đi hoặc sông ngòi là phải chảy. Ngăn lại là chúng sẽ ngưng trệ ngay.
- Cháu hiểu, - tôi nói. - Giờ có một chuyện nữa cháu muốn hỏi cậu. Cậu có bao giờ nghe tiếng kêu của con chim vặn dây cót trong khu này không?
- Chim vặn dây cót? - cậu tôi hỏi. - Nó là cái gì vậy?
Tôi liền giải thích cho cậu về con chim vặn dây cót, rằng nó hay đậu trên cây sau nhà mỗi ngày một lần mà kêu nghe như đang vặn dây cót.
- Cậu không biết, - ông nói. - Cậu chả bao giờ nhìn hay nghe thấy cái gì như vậy cả. Cậu vốn thích chim, lúc nào cũng luôn chú ý nghe chúng hót, nhưng đây là lần đầu tiên cậu nghe nói về cái giống chim ấy. Ý cháu là nó có liên hệ gì đó với căn nhà à?
- Không, liên hệ thì cũng không hẳn. Cháu chỉ muốn biết cậu đã bao giờ nghe tiếng nó không thôi.
- Này cháu, nếu cháu thật sự muốn biết rõ về những chuyện này - tỉ như ai đã sống ở nhà đó sau cậu hay gì gì đó - thì hãy đi hỏi già Ichikawa, đại lý bất động sản ở gần nhà ga ấy. Đó là Công ty bất động sản Setagaya Dai-ichi. Cứ bảo ông ấy là cậu giới thiệu cháu đến. Ông ấy trông coi cái nhà ấy cho cậu đã nhiều năm nay. Ông ấy sống ở khu này từ lâu lắm rồi, nên có thể kể với cháu bất cứ chuyện gì cháu muốn biết. Chính ông ấy kể cho cậu nghe chuyện nhà Miyawaki mà. Ông ấy là kiểu người già ham chuyện, cháu nên đến gặp ông ấy đi.
- Cám ơn cậu, cháu sẽ đến, - tôi nói.
- Thế chuyện tìm việc thì ra sao rồi?
- Chưa ra sao cả ạ. Thú thực với cậu, cháu cũng không cố tìm lắm. Kumiko đi làm, cháu thì lo việc nhà, tạm thời vẫn xoay xở được.
Cậu tôi hình như ngẫm nghĩ gì đó một chút. Rồi ông nói:
- Khi nào có chuyện gì cháu không giải quyết được thì cho cậu biết. Có thể cậu sẽ giúp được cháu một tay.
- Cám ơn cậu, - tôi nói. - Cháu sẽ làm thế.
Đến đây cuộc trò chuyện chấm dứt.
Tôi đã định gọi điện cho ông già làm đại lý bất động sản để hỏi về lai lịch căn nhà này và những người từng sống ở đây trước tôi, nhưng nội nghĩ đến chuyện vớ vẩn đó thôi cũng đã thấy buồn cười rồi. Tôi quyết định thôi không gọi nữa.
Mưa rơi rả rích suốt buổi chiều, làm ướt những mái nhà, ướt cây cối ngoài vườn, ướt đất. Tôi ăn trưa bằng bánh mì với xúp rồi suốt buồi chiều chỉ nằm trên sofa. Tôi muốn đi mua sắm chút đỉnh, nhưng nghĩ đến vết bầm trên má tôi lại do dự. Tôi lấy làm tiếc đã không để râu cứ mọc dài ra. Tôi vẫn còn ít rau củ trong tủ lạnh, một ít đồ hộp trong chạn. Tôi còn gạo, còn trứng. Nếu không đòi hỏi gì nhiều thì tôi vẫn đủ cái ăn trong hai ba ngày nữa.
Nằm trên sofa, tôi không nghĩ gì hết. Tôi đọc sách, nghe nhạc cổ điển, ngắm mưa rơi ngoài vườn. Khả năng tư duy của tôi hình như đã tụt xuống mức thấp chưa từng có, hẳn vì tôi đã tập trung suy nghĩ quá cao độ một thời gian dài dưới đáy giếng tối bưng. Cứ hễ tôi cố nghĩ đến điều gì đó một cách nghiêm túc là trong đầu lại đau âm ỉ, cứ như bị kẹp vào giữa một cái êtô có đệm mút vậy. Còn mỗi khi cố nhớ lại một cái gì đó là từng cơ bắp, từng dây thần kinh trên người tôi lại như kêu ken két vì phải gắng sức. Tôi cảm thấy như mình đã biến thành gã người thiếc trong truyện Phù thuỷ xứ Oz 1, các khớp tôi đang han gỉ cần phải tra dầu.
Chốc chốc tôi lại đến bồn rửa mặt kiểm tra vết bầm trên mặt, nhưng nó vẫn không thay đổi. Nó không lan ra cũng không co lại. Màu xanh đen của nó không thẫm hơn cũng không nhạt hơn. Mãi tôi mới nhận ra mình đã bỏ sót không cạo một ít râu nơi môi trên. Vì quá bối rối khi phát hiện vết bầm trên má phải, tôi đã quên cạo nốt cho xong. Tôi lại rửa mặt, phết kem rồi cạo hết chỗ râu còn lại.
Trong những lần đi soi gương như vậy, tôi nghĩ đến những gì Kano Malta đã nói qua điện thoại: rằng tôi phải cẩn thận, rằng qua kinh nghiệm ta đi đến chỗ tin rằng hình ảnh trong gương là thật. Để cho chắc, tôi vào phòng ngủ soi mặt mình trong tấm gương to bằng thân người mà Kumiko vẫn dùng mỗi khi thay đồ. Nhưng vết bầm vẫn ở đó. Vậy không phải vì gương mới thành vết bầm.
Tôi không thấy gì khác thường về vật lý ngoại trừ vết bầm. Tôi đo thân nhiệt mình, thấy vẫn bình thường. Ngoài chuyện tôi không đói lắm dù đã gần ba ngày không có gì vào bụng và ngoài chuyện thỉnh thoảng hơi buồn nôn (có lẽ chỉ là tiếp diễn triệu chứng tôi đã bị từ lúc ở dưới giếng) thì thân thể tôi hoàn toàn bình thường.
Buổi chiều thật êm ả. Điện thoại không hề reo. Chẳng có thư nào đến. Không ai bước xuống ngõ. Chẳng giọng hàng xóm nào quấy rầy sự tĩnh mịch. Chẳng con mèo nào băng qua vườn, chẳng con chim nào tới hót. Thi thoảng có con ve sầu kêu, nhưng không rền vang như mọi khi.
Chưa tới 7 giờ tôi bắt đầu thấy đói, bèn làm bữa tối gồm thức ăn đóng hộp và rau. Tôi nghe tin buổi chiều trên radio, đã lâu lắm rồi tôi không làm chuyện này, nhưng chẳng có gì đặc biệt xảy ra trên thế giới. Có vài trẻ vị thành niên nào đó chết vì tai nạn ô tô trên đường cao tốc, người lái xe của bọn họ cố vượt một xe khác nhưng không được nên đâm luôn vào tường. Giám đốc và nhân viên chi nhánh một ngân hàng lớn bị cảnh sát điều tra vì một vụ cho vay bất hợp pháp. Một bà nội trợ ba mươi sáu tuổi ở Machida bị một thanh niên dùng búa đánh chết ngoài phố. Nhưng tất cả chỉ là những sự kiện từ một thế giới khác, xa xôi. Điều duy nhất đang diễn ra trong thế giới của tôi là mưa rơi ngoài vườn. Vô thanh. Dịu nhẹ.
Khi đồng hồ chỉ 9 giờ, tôi chuyển từ sofa lên giường, đọc hết chương sách đang đọc dở rồi tắt đèn đi ngủ.
Nửa đêm tôi giật thót mình thức dậy giữa chừng một giấc mơ nào đó. Tôi không nhớ được chuyện gì đang xảy ra trong mơ, nhưng có điều chắc rằng giấc mơ đầy căng thẳng, vì tim tôi đang đập thình thịch. Phòng vẫn tối như mực. Tôi thức dậy một hồi mà không nhớ nổi mình đang ở đâu. Phải lát sau tôi mới nhận ra mình đang ở nhà mình, nằm trên giường mình. Kim đồng hồ báo thức cho thấy chỉ mới hơn 2 giờ sáng. Thói quen ngủ bất thường của tôi khi còn ở dưới giếng hẳn là nguyên nhân của cái chu kỳ ngủ rồi lại thức không sao đoán trước được này. Khi đã hết bần thần, tôi thấy buồn tiểu. Có lẽ vì uống bia. Giá như có thể thì tôi chỉ muốn ngủ lại, nhưng không cách nào ngủ lại được. Khi rốt cuộc tôi đành chấp nhận thực tế đó mà ngồi dậy trên giường, tay tôi chạm phải làn da người đang ngủ cạnh tôi. Điều đó chả làm tôi ngạc nhiên. Bao giờ Kumiko cũng ngủ ở đó. Nhưng rồi tôi sực nhớ Kumiko không còn ở với tôi nữa. Nàng bỏ đi rồi. Một người khác đang ngủ cạnh tôi.
Tôi nín thở bật đèn ngủ. Đó là Kano Creta.
--------------------------------
The Wizard of Oz, tác phẩm lừng danh viết cho thiếu nhi của L. Frank Baum, minh họa của W. W. Denslow, ấn hành lần đầu năm 1900. Chuyện kể về cuộc phiêu lưu của cô bé Dorothy ở xứ sở hư cấu Oz. Từng được dịch ra nhiều thứ tiếng, nhiều lần được dựng thành nhạc kịch và phim trong đó có bộ phim vào hàng kinh điển dựng vào thời "hoàng kim" của Hollywood (1939). ND. |