êu Hưng, Mộ Dung Lân, Địch Bá Hữu, Tông Chính Lương và hơn hai mươi danh tướng Khương tộc và Tiên Ti tộc tụ tập ở ngoài cửa thành bên bờ Dĩnh Thuỷ, ai nấy thần sắc ngưng trọng.
Sương mù che lấp cả đất trời. Bên bờ sông có đốt đuốc lớn, nhưng ánh sáng chỉ soi tỏ trong một không gian nhỏ hẹp. Không gian ngoài trăm bước chỉ là một khoảng mênh mông hư ảo.
Chỗ xa xa bên kia bờ sương khói mênh mông, thấp thoáng thấy ánh sáng màu xanh, vàng và hồng di động ở những chỗ cao, cho thấy Hoang nhân đã sớm chuẩn bị, lợi dụng sào trúc để treo một loại đèn sương mù đặc biệt nào đó, dùng ánh đèn chỉ huy quân đội tiến thoái. Họ đang bày binh bố trận, chuẩn bị cường công các phòng tuyến sát bờ.
Tình hình trước mắt làm bọn chúng cảm thấy hoảng hốt. Chẳng lẽ việc mưa to gió lớn và sương mù dày đặc đã sớm nằm trong tính toán của Hoang nhân nên mới có thể phối hợp với thiên thời, phát động phản công Biên Hoang tập?
Diêu Hưng trầm giọng: “Bọn ta không thể giữ được bờ sông nữa rồi, chỉ còn trơ mắt nhìn Hoang nhân hiển lộ uy phong ở bờ bên kia mà thôi. Tốt nhất là phá huỷ toàn bộ tiễn lâu rồi triệt hồi toàn bộ nhân mã về bờ bên này.”
Mộ Dung Lân nhíu mày: “Giờ là lúc địch nhân phát động. Bọn ta mới chặt được có hơn chục cây gỗ, liệu có kịp không?”
Diêu Hưng miễn cưỡng phấn khởi tinh thần: “Trước tiên cứ cho người triệt hồi, những trang bị không mang theo được thì đẩy hết xuống sông.”
Hắn quay sang Địch Bá Hữu nói: “Bá Hữu! việc này giao cho ngươi phụ trách.”
Địch Bá Hữu nhìn ra mặt sông đang cuồn cuộn sóng, mặt lộ vẻ khó khăn, định nói lại thôi, cuối cùng cũng lĩnh mệnh rời đi.
Mộ Dung Lân nói: “Khi mới chiến đấu tuy chúng ta liên tiếp gặp bất lợi nhưng thật ra tổn thất không lớn. Bất kể trang bị và nhân thủ vẫn hơn xa địch nhân nên bây giờ chỉ cần bọn ta ổn định được quân tâm, giữ vững trận cước, toàn bộ y theo kế hoạch đã định. Nếu như giữ được qua đêm nay, thắng lợi tất sẽ thuộc về bọn ta.”
Chúng tướng hò reo hưởng ứng.
Diêu Hưng gật đầu: “Hiện tại Hoang nhân rõ ràng đột phá phòng tuyến của bọn ta từ khu bến thuyền. Bọn ta sẽ cho chúng toại nguyện, lùi tuyến phòng thủ về phía sau, tăng cường sức phòng ngự của Tiểu Kiến Khang và Đông môn. Hoang nhân nếu từ chiến thuyền lên bờ đánh vào thì bọn ta có thể đánh cho chúng không còn một mảnh giáp.”
Tông Chính Lương nói: “Trong tình hình hiện nay, Tây Qua Bì Pháo có thể đại triển thần uy. Chỉ cần dùng máy bắn đá bắn vào đám Hoang nhân men theo bờ Dĩnh Thuỷ từ phía Nam đánh tới là có thể tạo thành thương vong lớn cho đối phương, làm Hoang nhân tránh cũng không được. Đến ngày mai, bọn ta có thể tiến quân như sấm sét, thu thập đám Hoang nhân đó đầu tiên. Ta không tin là Hoang nhân có thể chống cự được.”
Mộ Dung Lân nói: “Chủ ý tốt, lập tức mang Tây Qua Bì Pháo vận chuyển đến đây.”
Một viên tướng bên cạnh lĩnh mệnh rời đi.
Diêu Hưng nói: “Hiện tại vấn đề lớn nhất của bọn ta là tầm nhìn hạn chế, không thể nắm được tình hình điều động của địch nhân, lại không thể phát huy chiến thuật chỉ huy từ đài cao, chỉ còn cách phòng thủ chiến tuyến càng lâu càng tốt. Ta thấy nên đưa trọng binh tập trung tại Dạ Oa Tử và khu vực bờ sông. Như thế có thể cùng Hoang nhân đánh một trận, không để binh lực phân tán quá độ cho địch thừa cơ.”
Mộ Dung Lân nói: “Đồng ý! Trận này ta vẫn mười phần tin tưởng sẽ nắm chắc thắng lợi. Hiện tại, Hoang nhân khí thế lên cao nhưng thật ra như cung cứng đã giương hết cỡ. Cả hoả khí, cung tên đều không đủ để duy trì chiến đấu một ngày một đêm. Hà! Những vũ khí hạng nặng của bọn ta ở quảng trường đã đến lúc xuất động, cho Hoang nhân thưởng thức tư vị của chúng rồi.”
Diêu Hưng đang định phát lệnh thì viên tướng lĩnh mệnh vận chuyển Tây Qua Bì Pháo hoảng hốt chạy về, kinh hoàng bẩm báo: “Tây Qua Bì Pháo bị người nào đó cắt hết dây dẫn hoả rồi, không thể châm ngòi được.”
Không ai không biến sắc, ngây người nhìn nhau.
Tông Chánh Lương buột mồm quát lớn: “Yến Phi!”
Diêu Hưng vô cùng tức giận nói: “Đúng! Yến Phi khẳng định vẫn ở trong Tập.”
“Boong!” Tiếng chuông truyền tới.
Tất cả mọi người và toàn bộ binh lính phòng thủ khu vực bờ sông ai nấy đều dừng tay, không nói chuyện nữa, nghểnh cổ nhìn về phía Chung lâu, nhưng chỉ thấy một làn sương mờ mịt.
“Boong!”
Chiếc chuông cổ thánh vật của Hoang nhân ngân vang tiếng thứ hai, đánh thẳng vào tận tâm can mỗi binh sĩ phòng thủ, làm chấn động cả hồn phách của chúng.
Nhất thời, tất cả tướng soái kể cả Diêu Hưng đều không ai hiểu chuyện gì đã xảy ra.
Bỗng nhiên tiếng hô giết từ phía bờ bên kia và hạ du bờ tây Dĩnh Thuỷ nổi lên ầm ầm.
Tiếng chuông đã thay thế cho tiếng trống xung trận của Hoang nhân, lại làm khích lệ sĩ khí Hoang nhân hơn bất kỳ tiếng trống trận nào, đồng thời làm dao động ý chí và lòng tin của quân phòng thủ.
Yến Phi từ Quan Viễn đài ném ra hộp "Đạo Nhật Phong" cuối cùng. Khói độc hoà vào sương mù làm toàn bộ khoảng không gian hơn tám trăm bước xung quanh Chung lâu hoàn toàn bị khói độc bao phủ.
Toàn bộ địch nhân trong lâu đã bị tiêu diệt, cả toà thạch bảo cũng đã nằm trong vòng khống chế của họ. Trong lâu vẫn tràn đầy khí độc. Bọn họ giương cung đáp tiễn, dùng nóc thạch bảo, Chung lâu và Quan Viễn đài bố trí tuyến phòng ngự cố thủ. Kể cả khi địch nhân có thể vượt qua khói độc đến đánh thì cũng sẽ phải ôm hận vì tên cứng của họ từ trên cao bắn xuống.
Tuyệt nhất là quân địch phòng thủ Dạ Oa Tử đến lúc này vẫn chưa biết đã phát sinh chuyện gì, lập tức thành một lũ rối loạn, không thể tổ chức thế công hữu hiệu. Hơn nữa, sự tấn công của quân lính Hoang nhân bên ngoài Tập càng làm dao động quân tâm của địch.
Boong!
Trác Cuồng Sinh phụ trách việc đánh chuông hướng lên phía Quan Viễn đài thét lớn: “Tiếng chuông thứ bảy rồi đó! Hô Lôi Phương chuẩn bị.”
Hô Lôi Phương đang đứng trên Quan Viễn đài lấy tù và ra, đi đến bên tường bao, khẩn trương chờ đợi.
Trình Thương Cổ đứng bên cạnh hắn nói: “Cứ thoải mái chút đi, giống như khi ngươi đến thanh lâu rồi hốt nhiên nổi hứng thổi vài hơi giúp vui là được.”
Hô Lôi Phương than: “Tất cả các ngươi không cần trừng trừng nhìn ta như thế được không?”
Hồng Tử Xuân bật cười: “Đừng quên ngươi là long đầu của một đại bang ở Biên Hoang tập nên cũng cần phải có chút uy phong đó.”
Phí Nhị Phiết cười nói: “Ngươi khẩn trương là cũng có đạo lý đó. Hiện giờ không nhìn xa được, căn bản chúng ta không biết thế giới bên ngoài khu vực khói độc bao phủ đã phát sinh sự việc gì.”
Boong!
Tiếng chuông thứ tám ngân lên.
Hồng Tử Xuân nói “May là lão Trác điên không có ở đây. Nếu để lão nhìn thấy, tả bộ dạng lúc này của ngươi vào bộ Thiên thư của lão thì ngươi sẽ lưu lại một điểm ô nhục đến thiên thu vạn thế. Ha ha!”
Yến Phi mỉm cười: “Việc đó thì Hô Lôi đương gia có thể yên tâm. Ta dám bảo đảm lão Trác sẽ miêu tả ngươi uy mãnh không ai địch nổi, tiếng tù và thổi lên chấn động đến từng ngóc ngách của Biên Hoang. Địch nhân nghe thấy liền hồn phi phách tán, lập tức tan vỡ.”
Trong tiếng cười lớn, tiếng chuông thứ chín lồng lộng vang khắp Biên Hoang tập.
Hô Lôi Phương đưa tù và lên môi, thổi lên một tràng “Tu Tu Tu”. Tiếng tù và cao vút xuyên qua đám khói độc và sương mù, truyền mãi ra xa phía sông nước sương khói mịt mù.
Vạn Hoả Phi Sa Thần Pháo từ ba mươi cỗ máy bắn đá liên tiếp bắn ra, rơi vào khu vực trận địa phòng thủ bờ Đông của địch. Đạn rơi xuống đất lập tức nổ tung, làm bùng lên hàng trăm ngàn đám lửa. Mỗi đám cháy rộng tới hơn hai mươi bước. Sau đó khói độc tấn công địch nhân. Địch nhân vốn đã nhìn không rõ, không thể tránh né, xe chắn tên cũng không phát huy tác dụng chắn đạn, lập tức quân địch đại loạn. Quân chẳng ra quân.
Thật ra, binh lực địch ở phòng tuyến bờ Đông vẫn hơn gấp bội Hoang nhân. Nhưng sương mù đã che lấp hết mắt địch, chúng lại bị tiếng chuông làm rối loạn quân tâm nên bọn phòng thủ mất hết đấu chí.
Trong lúc dư âm của tiếng chuông vẫn còn vang vọng thì từ trên Chung lâu truyền đến tiếng tù và ra lệnh lui binh của Khương quân. Quân phòng thủ không còn lòng mà chiến đấu nữa. Lúc đầu thì chỉ hơn chục người nhảy vào dòng sông, mạo hiểm bơi sang bờ bên kia chạy trốn. Tiếp đó rất nhiều người từ bờ Dĩnh Thuỷ bỏ chạy lên phía bắc. Loạn thế một khi đã nổ ra thì không thể thu thập được nữa, địch nhân bỏ cả căn cứ tiễn lâu chạy về phía bắc.
Lưu Dụ hạ lệnh một tiếng, Hoang nhân toàn lực tiến đến Dĩnh Thuỷ.
Lưu Dụ và Cơ Biệt phóng ngựa đi đầu. Lưu Dụ liếc Cơ Biệt một cái, ngạc nhiên: “Trên mặt ngươi rốt cuộc là nước mắt hay là nước mưa vậy?”
Cơ Biệt kích động đến nỗi nước mắt lưng tròng nói: “Ta vốn cho rằng không thể nào trở lại Biên Hoang tập được nữa. Ài! Con mẹ nó! Đã nên dùng đèn hiệu triệu hạm đội vô địch của bọn ta về chưa?”
Lưu Dụ ung dung nói: “Vẫn còn hơi sớm. Khi dùng hết Vạn Hoả Phi Sa Thần Pháo thì có thể gọi họ về.”
Trước khi Hô Lôi Phương dùng tù và tấu lên khúc “đoạn hồn lệnh” khiến địch nhân lui binh, Đồ Phụng Tam và Mộ Dung Chiến đã áp tới đánh chúng. Đầu tiên họ dùng Vạn Hoả Phi Sa Thần Pháo, Hoả Thạch Độc Yên Tiễn đánh tan đấu chí địch nhân, rồi tấn công điên cuồng khu bờ sông và Nam môn. Khi quân phòng thủ của địch liên tục lùi lại, họ áp sát, dùng tên cứng sát thương địch.
Trong tình huống sương mù dày đặc, quân phòng thủ không nhìn rõ hư thực cuộc tấn công của Hoang nhân. Chúng chỉ đành cố thủ trận địa, trở thành mục tiêu rõ ràng cho cung tên. Hơn nữa, những tiếng chuông từng bước tước bỏ đấu chí của chúng. Dưới sự uy hiếp nghiêm trọng về mặt tâm lý do nỗi kinh hoàng Dạ Oa Tử thất thủ khiến quân phòng thủ mất hết cả năng lực chống đối ngoan cường.
Đến khi tiếng tù và ra lệnh lui binh nổi lên, Khương quân phụ trách phòng thủ Nam môn không cần biết là thật hay giả, hoảng sợ tranh nhau tháo chạy về phía bắc. Tuyến phòng ngự kiên cố vốn không thể phá vỡ của địch lập tức xuất hiện chỗ hở. Năm ngàn kỵ binh của Mộ Dung Chiến liền như nước lũ phá đê, ầm ầm tràn vào Nam môn, phá huỷ công sự phòng thủ, thâm nhập sâu vào trong.
Quân Tiên Ti phòng thủ khu vực bờ sông thấy thế bất diệu cũng lùi lại. Đồ Phụng Tam nắm vững thời cơ, tăng cường áp lực lên địch nhân, từng bước chắc chắn đánh về phía Đông môn, san bằng mọi chướng ngại trên đường tiến quân.
Lúc này, quân Hoang nhân của Lưu Dụ đã chiếm được trận địa bờ Đông, lại xoay máy bắn đá sang bên bờ bên kia, dùng Vạn Hoả Phi Sa Thần Pháo bắn phá trận địa phòng thủ của địch nhân bên bờ Tây. Nhất thời khói độc mù mịt, bức địch nhân phải lùi về tuyến phòng ngự thứ nhì ở trong tập.
Diêu Hưng và Mộ Dung Lân không còn biện pháp nào hữu hiệu để khống chế quân đội. Trong cuộc chiến tấn công – phòng thủ thành Tập thì chỉ cần bị địch nhân đánh phá ra một chỗ hở sẽ lập tức chấn động toàn thể, dẫn tới đại hỗn loạn. Hơn nữa chiến tuyến mặt Nam đã toàn quân tan rã.
Quân đội ở phòng tuyến phía nam bại trận lùi lại đã gây ảnh hưởng dây chuyền lên quân phòng thủ toàn Tập. Tiểu hỗn loạn biến thành đại hỗn loạn, binh bại như núi đổ. Địch nhân phòng thủ tập càng chần chừ không tiến lên, lại càng không dám xung phong đánh trận. Chỉ có vài tướng lĩnh cá biệt chỉ huy thủ hạ dốc sức đốc thúc nhằm vãn hồi cục diện thất bại.
Tiếng trống trận động trời từ xa tiến lại.
Thì ra mười hai chiếc Song Đầu thuyền từng đại hiển uy phong đã quay lại. Những người đánh trống trên mười hai chiến thuyền tận lực đánh trống. Các chiến thuyền chở Thác Bạt Nghi và ba ngàn chiến sỹ thuận dòng tiến lại, đỗ ở bến thuyền ngoài Tiểu Kiến Khang. Dưới sự yểm hộ của tên nỏ từ trên thuyền liên tục bắn ra, các chiến sỹ rời thuyền lên bộ đánh thẳng vào Tiểu Kiến Khang.
Quân phòng thủ đã tới lúc toàn diện thất bại. Kể cả Diêu Hưng và Mộ Dung Lân, ai nấy tranh nhau bỏ chạy, vứt cả binh khí giáp trụ chạy thục mạng về phương Bắc.
Biên Hoang tập cuối cùng lại trở về tay Hoang nhân.
Hoàn Huyền giục ngựa chạy men theo bờ Đại Giang. Bám theo phía sau là mấy chục thân binh. Sáng sớm hôm nay, hắn bỗng nổi hứng đến Bát Lĩnh Sơn săn bắn. Lúc quay về thành thì mặt trời đã lặn, trời bắt đầu tối.
Thành Giang Lăng xuất hiện phía trước.
Giang Lăng không chỉ là một thành trì hùng vỹ nhất ở bình nguyên Giang Hán xinh đẹp phì nhiêu, mà còn là trọng trấn quân sự quan trọng nhất ở trung du Trường Giang. Ở bất kỳ phương diện nào cũng đẹp không kém gì Kiến Khang. Nó lại nằm ở vị trí địa lý ưu việt phía thượng du Kiến Khang nên càng làm nó chiếm ưu thế về quân sự.
Trong cuộc chiến tranh giành Kinh Dương sau khi Tấn thất dời về phương Nam, chỉ có quân Kinh Châu đánh phá Kiến Khang quân. Kiến Khang quân không hề một lần đánh ngược lại Kinh Châu quân.
Hoàn Huyền có cảm tình rất sâu sắc đối với Giang Lăng.
Giang Lăng là nơi hắn sinh ra, cũng là nơi sinh sống nhiều đời của họ Hoàn. Thời niên thiếu của hắn phần lớn trôi qua ở đó. Vì thế hắn rất mê say nền văn hoá Kinh Sở.
Nhớ lại thời Xuân Thu Chiến Quốc, Sở Vương vì để thưởng lãm hết thắng cảnh của Trường Giang nên đã xây dựng biệt cung ở đó. Chỉ cần tưởng tượng tình hình hưng thịnh thời đó, dòng nước cuồn cuộn hung hãn chảy về phía đông trước mặt biệt cung là Hoàn Huyền đã thấy mê say rồi.
Người Sở cuối cùng cũng mất nước. Trong quá trình đấu tranh, thủ đô không giữ được, đến thời Sở Khoảnh Tương Vương bị tướng Tần là Bạch Khởi lấy được Dĩnh thành, kinh đô nước Sở bị bức phải dời sang phía đông. Biệt cung trở thành đơn vị hành chính quận huyện. Nhà Tần thiết lập Nam Quận, tên gọi của huyện Giang Lăng. Thành Giang Lăng có từ thời đó.
Mấy hôm nay tâm tình hắn đặc biệt không yên, càng lúc càng cảm xúc. Sớm nay hắn bỗng cảm thấy có nhu cầu phải ly khai Giang Lăng một lần. Nhưng khi quay về, nhìn thấy thành Giang Lăng thì trong lòng hắn lại nổi lên một mối tâm sự mà rốt cuộc bản thân hắn cũng không hiểu rõ là thế nào.
Chẳng lẽ là do Vương Đạm Chân?
Ôi!
Với tác phong nhất quán của hắn thì bất kể là mỹ nữ xinh đẹp động lòng người thế nào, qua vài ngày chung sống là hắn lại cảm thấy chán. Vấn đề là Vương Đạm Chân lại tự kết liễu sinh mệnh nàng vào đúng lúc mà hắn hứng thú nhất. Một đoá danh hoa diễm lệ nhất của cao môn đại tộc lại ra đi không lời giã biệt vào lúc đang rực rỡ nhất làm hắn dù tâm can sắt đá cũng không thể chịu nổi.
Chưa từng có một nữ nhân nào làm hắn động lòng như Vương Đạm Chân.
Nếu Vương Đạm Chân là mỹ nữ làm hắn động lòng nhất thì Nhậm Thanh Thị lại là nữ nhân mà hắn khó lường nhất trong số những nữ nhân từng gặp.
Nữ nhân này làm hắn cảm thấy mê ly điên đảo.
Hắn có thể cùng Lưỡng Hồ bang kết minh toàn là do ả đại biểu cho Tiêu Diêu giáo trung gian xe chỉ luồn kim. Hắn đương nhiên biết ả đang lợi dụng hắn, mục đích là để hô phong hoán vũ tại phương Nam. Nhưng hắn không tự chủ được bị ả hấp dẫn. Hắn thấy hình bóng mình trên thân thể ả.
Sau khi Tiêu Diêu giáo tan vỡ vì cái chết của Nhậm Dao, ả bỗng nhiên đến tìm hắn gây quan hệ, hiến cho hắn quỷ kế hành thích Tư Mã Diệu, làm hắn giảm bớt lo lắng.
Nhưng hắn vẫn không hiểu rõ ả.
Hắn biết nữ nhân này không ngừng dẫn dụ mình. Nhưng cho đến giờ, ả vẫn chưa từng chủ động quyến rũ hắn, vẫn kiên trì giữ tấm thân xử nữ thật làm người ta khó hiểu. Ả chẳng phải là nữ nhân của Nhậm Dao sao? Rốt cuộc ả có quan hệ như thế nào với Nhậm Dao?
Sau khi Vương Đạm Chân tới Giang Lăng, ả liền biến mất tung tích. Phải chăng nữ nhân đó vì đố kỵ mà sinh hận, rời bỏ mình?
Hoàn Huyền giảm bớt tốc độ ngựa, gọi Can Quy lại.
Can Quy cung kính hỏi: “Nam Quận Công có phân phó gì?”
Hoàn Huyền làm như vô sự hỏi: “Ngươi từng nghe qua cố sự ’khinh địch mất Kinh Châu‘ chưa?"
Luận võ công, Can Quy là cao thủ nhất đẳng, nhưng nói đến lịch sử thì không phải sở trường của y, không thể sánh được với Hoàn Huyền văn võ toàn tài. Y khiêm cung nói: “Thuộc hạ tuyệt không biết chuyện đó.”
Hoàn Huyền nói: “Vào thời Tam quốc, Lưu Bị mượn Kinh Châu của Tôn Quyền, lại lấy Kinh Châu làm căn cứ, phát triển ra phía Tây, lập nên nước Thục, hình thành thế chân vạc Nguỵ, Thục, Ngô tam quốc. Nhưng ông ta không những không đem Kinh Châu trả lại cho Đông Ngô mà còn phái đại tướng Quan Vũ trấn thủ thành Giang Lăng.”
Can Quy gật đầu nói: “Quan Vũ quả là anh hùng hảo hán vô địch thời đó.”
Hoàn Huyền cười lạnh: “Quan Vân Trường đúng là một đại danh tướng, kiêu ngạo tự phụ, không coi ai ra gì lại khinh địch, căn bản không để quân Đông Ngô vào trong mắt. Khi ông tấn công quân Ngụy bị Đông Ngô thừa cơ đoạt mất thành Giang Lăng. Cuối cùng lại trúng mai phục, bị quân Đông Ngô bắt rồi giết đi.”
Can Quy vì được sủng ái quá sinh khiếp sợ, nghĩ không ra tại sao Hoàn Huyền lại thổ lộ tâm sự với mình. Y cũng hiểu Hoàn Huyền mượn chuyện đó để nói cho y rõ tình cảnh và sách lược của hắn.
Kiến Khang quân có thể so sánh với Đông Ngô quân, hình thế của Hoàn Huyền giống như của nước Thục. Nên Hoàn Huyền tạm thời bao dung nhẫn nhịn Ân Trọng Kham và Dương Toàn Kỳ vì sợ Kiến Khang quân thừa cơ xâm nhập.
Hoàn Huyền đang chờ đợi cơ hội.
Hoàn Huyền lại trầm mặc một lát, hỏi: “Ngươi có nghe qua lời dao ngôn đang lưu truyền rộng rãi ở phương Nam gần đây không?”
Can Quy đáp: “Nam Quận Công phải chăng ám chỉ việc liên quan đến Lưu Dụ? Đây là dao ngôn do Hoang nhân cố ý tung ra, Nam Quận Công không cần để trong lòng.”
Song mục Hoàn Huyền sát cơ đại thịnh, trầm giọng nói: “Nhưng việc đó làm tổn hại thanh danh ta rất nhiều. Chỉ một việc đó, Hoang nhân đã đáng tội chết vạn lần rồi. Ta tuyệt không dung tha cho Lưu Dụ sống sót, đến chỗ nào cũng dùng thân phận người kế thừa của Tạ Huyền mà kêu gọi lừa gạt. Ngươi thừa kế cái quái gì. Tạ Huyền chưa hề làm Hoàng đế, có tư cách gì mà đưa ra người thừa kế.”
Can Quy nói: “Chỉ cần Nam Quận Công gật đầu, bất luận Lưu Dụ trốn ở chỗ nào thuộc hạ cũng có biện pháp làm hắn phơi xác giữa đường.”
Hoàn Huyền nói: “Lưu Dụ không khó thu thập. Vấn đề ở chỗ Yến Phi. Gần đây hắn từng đến Lưỡng Hồ bang đại náo một trận. Với sự gian trá của Nhiếp Thiên Hoàn mà cũng không làm gì được hắn.”
Can Quy tựa hồ không để Yến Phi trong lòng, nói: “Xin Nam Quận Công giao việc này cho thuộc hạ toàn quyền xử lý.”
Hoàn Huyền gật đầu: “Cứ quyết định thế đi. Nhất thiết không được cẩu thả khinh địch như Quan Vũ đó.”
Nói đoạn, hắn thúc mạnh vào bụng ngựa, dẫn đầu vượt qua điếu kiều tiến vào Giang Lăng thành.