Biên hoang truyền thuyết - tập 4

Hồi 2

Docsach24.com

ến Phi tuyệt không hề hối hận vì đã bỏ lỡ cơ hội quay về địa đạo. Sau khi được thấy thực lực phòng thủ của địch bày trên quảng trường, chàng đã biến đổi hoàn toàn ấn tượng đối với Diêu Hưng, hiểu rõ nhận thức của mình về hắn trước đây là quá thô thiển.

Ngày đó chàng thấy địch nhân bố trí chiến luỹ bên ngoài Tập, tuy biết địch nhân mở rộng tuyến phòng thủ ra tận bên ngoài Tập, gây khó khăn thêm rất nhiều cho Hoang nhân khi tấn công, nhưng chàng vẫn không để trong lòng. Đến vừa rồi nhìn thấy những vũ khí hạng nặng để phòng thủ Tập thì chàng mới biết đã đánh giá địch nhân quá thấp.

Những vũ khí hạng nặng này đại bộ phận đều được chế tạo trong các công xưởng của Biên Hoang tập. Riêng nỗ tiến xa khẳng định đã được mang từ Trường An tới theo đường thuỷ. Thạch hôi chắc là được thu gom từ các địa phương ở phía bắc. Như vậy có thể thấy công tác chuẩn bị của địch nhân đầy đủ như thế nào.

Vì vậy chàng quyết định lập tức ly khai để thông báo tình hình thực sự của địch nhân cho các huynh đệ bên mình. Chàng có lưu lại cũng không có tác dụng gì bởi vì Lưu Dụ tuyệt không có khả năng đánh tới Dạ Oa tử. Đạo Nhật Phong trong tay chàng cũng khó phát huy được tác dụng xoay chuyển cục thế.

Quân địch tràn vào phòng. Nhiều người còn nói chuyện cười đùa ầm ỹ. Yến Phi cảm thấy sỹ khí địch nhân không nhỏ. Điều này có thể hiểu được vì chúng ở trong Tập có thể phòng thủ rất tốt, binh lực lại nhiều gấp ba lần Hoang nhân. Hơn nữa, chỉ cần nhìn thấy các loại vũ khí hạng nặng được bày trên quảng trường kia thì lòng tin của chúng lập tức đại tăng, hữu hiệu hơn nhiều so với bất cứ lời khích lệ nào của chủ soái.

Yến Phi đặt tay lên cán Điệp Luyến Hoa, chuẩn bị đánh giết trong lúc địch không đề phòng, chạy ra ngoài cửa, rồi bằng y phục quân Tiên Ti trên người và khẩu lệnh để xem vận khí của chàng có thể che mắt địch nhân trong lúc hỗn tạp mà thoát đi được không.

Tiếng giày nhà binh trên cầu thang truyền vào trong tai. Yến Phi trong lòng vô cùng ngạc nhiên. Sao địch nhân lại lên lầu chứ? Không phải vào đại đường điều tra sao? Chàng liền vội lưu tâm nghe ngóng. Một tên lính dùng tiếng Tiên Ti nói: “Khí trời nóng nực quá. Được đến chỗ có nước mà dầm mình còn hơn là sống dở chết dở trên mặt đất.”

Một tên khác nói: “Đừng có cao hứng sớm vậy. Ngươi không thể dầm dưới nước cả ngày được. Khi mặc thuỷ kháo° da trâu chống nước này phơi dưới ánh mặt trời chói chang ở bờ sông thì ngươi mới hiểu rõ mùi vị là thế nào.”

Yến Phi tỉnh ngộ. Bọn lính này đến đây không phải vì chàng. Địch nhân vẫn chưa phát hiện chàng đã động chân động tay vào chỗ Tây Qua Bì Pháo. Vì thuỷ kháo để trên lầu, bọn này đến thay đồ để ra Dĩnh Thuỷ tiến hành các hành động đặc biệt của ‘thuỷ binh’. Yến Phi lập tức động tâm. Nếu như muốn an toàn ly khai thì đây là cơ hội duy nhất đóng giả địch nhân để rời đi. Nghĩ tới đây, chàng vội giữ tinh thần tỉnh táo, rồi thò đầu ra nhìn.

Địch nhân đang nối đuôi nhau lên lầu, không ai thèm nhìn về phía chàng một cái. Yến Phi đợi đến khi tên cuối cùng bước vào cửa liền nhanh như chớp phóng ra, đuổi theo sau tên đó rồi bước theo lên lầu.

Mộ Dung Chiến hạ lệnh một tiếng. Năm ngàn chiến sỹ Hoang nhân lập tức biểu diễn sự biến hoá của trận thế. Thuẫn Bài trận hai bên cánh nhanh chóng di động, chuyển sang bảo vệ hai phía đông tây của Trấn Hoang Cương.

Trấn Hoang Cương hình thế hiểm yếu, ba mặt cao vút lên. Mặt hướng về Biên Hoang tập là cao nhất, vươn khỏi mặt đất hơn mười trượng, sau đó xuôi dần xuống phía nam thành một con dốc, là con đường duy nhất lên Cương. Sau khi biến trận thì trận thế của chiến sỹ Hoang nhân trở thành dựa vào Cương cố thủ, không còn lo mặt sau.

Đội ngũ binh lính đang ở hậu phương lúc này xuất ra ba trăm người phi lên rồi xuống ngựa, đi đến chỗ cao ở phía tây của Cương. Hơn trăm tiễn thủ trong số đó giương cung lắp tên. Hai trăm người còn lại người thì chuyển Hoả Thạch Độc Yên tiễn, người điểm hoả thì điểm hoả. Mọi hành động đều bình tĩnh trật tự, mau chóng mà không loạn, lộ rõ thành quả luyện binh của Mộ Dung Chiến.

Quân địch đang thi triển chiến thuật dùng toàn bộ kỵ binh xung kích. Đội quân đột kích từ phía tây tới gồm năm ngàn người tản ra thành hình rẻ quạt. Những tên đi đầu đều cầm đằng thuẫn lớn để chắn tên. Đây chính là chiến thuật mà người Hồ thành thạo nhất. Sau loạt xung phong hãm trận đầu tiên, họ sẽ tản ra quấy nhiễu các mặt khác của trận địch, rồi từ bốn phương tám hướng luân phiên công kích, tiêu hao tên nỏ, và giảm bớt sức chiến đấu của đối phương.

Chiến thuật đó vốn là vạn vô nhất thất vì Hoang nhân phải lao sư viễn chinh mệt nhọc chưa khôi phục được sức lực, trận cước chưa ổn định, sao có thể trụ được sự tấn công mạnh mẽ bằng phiêu kỵ với ưu thế binh lực hơn hẳn của chúng chứ?

Hai ngàn kỵ binh địch ở mặt bắc lại dùng một trận pháp khác, chầm chậm vững chắc tiến lên, đội hình tụ mà không phân tán. Ba hàng đầu đều dùng thuẫn bảo vệ người và ngựa. Bọn ở phía sau thì giương cung lắp tiễn, từng bước bức tới gây áp lực.

Mộ Dung Chiến đứng thẳng trên đỉnh Cương, thần khí an định giống như một thiên thần hạ phàm. Bỗng nhiên khoé miệng hắn lộ xuất một tia tiếu ý, thét lớn: “Sử dụng ‘Thốn Bộ Nan’°°.”

Hơn năm mươi chiến sỹ sớm đã cầm sẵn ‘Thốn Bộ Nan’ trong tay nghe lệnh liền đồng thanh quát lớn, ném mạnh loạt ‘Thốn Bộ Nan’ đầu tiên về phía địch nhân. Bọn họ người nào lực tay cũng mạnh mẽ, lại ném từ trên cao xuống nên điểm rơi đạt tới năm sáu trăm bộ, tạo thành một lớp phòng ngự ngăn địch.

Số ‘Thốn Bộ Nan’ này đã được gia công đặc biệt, cả hai mặt đều gắn đầy đinh nhọn hướng lên trên. Bất kể tiếp đất mặt nào thì mặt kia cũng đều có đinh nhọn hướng lên. Chiêu này nằm ngoài ý liệu của địch nhân, làm bọn chúng muốn tránh cũng không được. Tuyệt diệu nhất là chỉ có bọn địch ở phía trước mới biết đã phát sinh chuyện gì, bọn ở đằng sau vẫn giục ngựa thục mạng tiến lên làm bọn ở phía trước không thể dừng ngựa lại được.

Loạt ‘Thốn Bộ Nan’ thứ hai đã được ném ra, rồi đến loạt thứ ba.

Đám địch nhân gần nhất chỉ còn cách trận thế bọn họ bảy trăm bước.

Bảy trăm kỵ sỹ Hoang nhân đang nghiêm trận chờ đợi ở hậu phương. Chỉ cần địch nhân phát sinh hiện tượng rối loạn là sẽ theo lệnh lao ra đánh giết, vòng đến quấy nhiễu hậu phương địch nhân. Diêu Mãnh lúc này đã đi xuống hội họp với đội quân bảy trăm người này.

Mộ Dung Chiến lại quát lớn: “Châm lửa thần tiễn.”

Các chiến sỹ cứ nghe lệnh mà thi hành.

Mộ Dung Chiến hạ lệnh: “Phóng thần tiễn.”

Hơn trăm mũi Hoả Thạch Độc Yên tiễn đồng thời bắn ra, kéo theo những vệt khói bắn vào địch nhân trong tầm bắn, tạo ra một quang cảnh tráng lệ do hàng trăm vệt khói mỹ lệ tạo ra. Hoả Thạch Độc Yên tiễn vừa tiếp đất, lập tức làm bùng lên một đám khói đen, bao trùm lấy địch nhân.

Không chịu nổi trước tiên là đám ngựa. Chúng lập tức chạy tán loạn, cất tiếng hý thê thảm, đá lung tung khiến người đổ ngựa ngã. Loạt Hoả Thạch Độc Yên tiễn thứ hai được bắn ra hướng lên cao làm tầm bắn ra xa hơn, rơi thẳng vào trận địch.

Vài trăm kỵ sĩ địch vẫn từ trong đám khói mù phóng ra, nhưng bọn ngựa như đã phát điên, không chịu sự khống chế của chủ nhân nữa. Một phần địch nhân khoé miệng đã ứa máu, thần tình thống khổ. Một số bị ngựa hất ngã xuống đất.

“Phóng tiễn!”

Những chiến sỹ ở dưới Cương nhận lệnh, lập tức bắn tên ra như mưa về phía địch nhân đang không có sức phản kích. Nhất thời máu thịt tung toé, thê thảm tới mức làm người không nỡ nhìn. Quân địch từ mặt bắc đang áp tới thấy vậy vội vàng lùi lại. Kỵ binh địch ở mặt tây thương vong thảm trọng, cũng vội hoảng hốt chạy trốn.

Mộ Dung Chiến thầm hô đáng tiếc. Nếu như địch nhân mặt bắc cũng bị tổn thất thì hắn có thể phản kích toàn diện. Bây giờ thì hắn chỉ còn cách dừng công kích. Nhưng dù thế nào thì hắn đã thành công giữ vững Trấn Hoang Cương mà không chút tổn thất nào. Thành quả như thế này cũng đủ để ăn nói rồi.

Mộ Dung Chiến lệnh: “Phóng pháo hoa báo tin vui.”

Nữ binh phụ trách truyền tin nghe lệnh vội vã chấp hành.

Đồ Phụng Tam chầm chậm ruổi ngựa men theo bờ tây Dĩnh Thuỷ, dẫn bộ đội từ từ tiến về Biên Hoang tập. Hắn tịnh không lo lắng về vấn đề an toàn vì hai lộ quân của Mộ Dung Chiến và Thác Bạt Nghi đã đủ để khiến địch nhân phải vất vả ứng phó. Bọn địch tuyệt không ngu xuẩn tới mức kéo đến đây đánh đại quân Hoang nhân đang men theo bờ sông tiến lên, lại nắm trong tay quyền khống chế hạ du Dĩnh Thuỷ.

Tuy bầu không khí chiến tranh càng lúc càng tới gần, tâm thần hắn lại rời khỏi Biên Hoang, suy nghĩ về những sự biến thiên nhân sự của triều đại cách đây hơn trăm năm.

Bản thân hắn vốn tuyệt không có tầm nhìn xa trông rộng như vậy, nhưng cuộc nói chuyện với Hầu Lượng Sinh trước khi rời khỏi Giang Lăng đã khai mở hoàn toàn đại kế lập vua mà trước đây hắn chưa từng nghĩ qua. Những suy nghĩ hùng tài đại lược để làm sao đưa Lưu Dụ trở thành chủ nhân của phương Nam.

Nhân vật mà Hầu Lượng Sinh bội phục nhất chính là trí sỹ Tuân Úc thời Tam Quốc. Tuân Úc vốn là mưu thần của Viên Thiệu, là nhân vật đại biểu cho giới hào tộc thời Hán mạt. Nhưng do lão tin nhầm Viên Thiệu - một người mà “Ngoại khoan nội kị, dụng nhân nhi nghi chi, sở nhâm duy thân thích tử đệ"+ vì thế lão có tài mà không được trọng dụng. Sau đó, lão bỏ Viên Thiệu mà theo về với Tào Tháo. Trong trận chiến Quan Độ, Tào Tháo đại phá Viên Thiệu, từ đó xác lập cơ sở để tranh bá thiên hạ.

Đó chẳng phải là câu chuyện phiếm Hầu Lượng Sinh tuỳ ý nói ra. Xét hoàn cảnh hiện tại của hắn thì càng thấy rõ tại sao Hầu Lượng Sinh lại cam chịu mạo hiểm có thể mất mạng khi phản bội Hoàn Huyền bởi vì Hầu Lượng Sinh không những có lý tưởng, mà còn có kiến thức. Hầu Lượng Sinh chỉ ra rằng từ thời Hán Vũ Đế, Nho học độc tôn trở đi thì sự phân tranh chính trị quyền lực, sự hưng vong của Nguỵ Tấn thật ra là vấn đề thắng bại giữa giới hào tộc theo Nho giáo và giới hàn môn không theo Nho giáo.

Giới hào tộc theo Nho giáo thời Đông Hán hưng thịnh, tuân thủ đạo quân thần và phụ tử. Lấy Nho giáo làm môn học chính, mọi hành động đều phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức của Nho giáo, gọi là phép hiếu, hữu, lễ. Phương pháp đạo đức tu thân trị gia đó cũng được áp dụng cho việc trị quốc bình thiên hạ, định rõ danh phận quân thần, xác định người có hiếu với cha mẹ mới có thể trung với vua, dùng cách nhìn đó để tuyển dụng nhân tài, rồi dần dần thành chế độ tuyển dụng. Người có thể trở thành quan hay không đều phải dựa vào các hào tộc danh giá tiến cử cả. Quan trường biến thành chỗ vui đùa giữa các hào tộc. Nho gia hàn môn bị bài xích ra ngoài hoàn toàn. Phương pháp tuyển dụng đó phát triển đến mức cực đoan và trở thành chế độ cửu phẩm trong Tấn Thất. Sự cách trở và đối lập giữa cao môn và hàn môn ngày càng kịch liệt, mâu thuẫn càng nặng nề.

Tào Tháo xuất thân là hàn môn không theo Nho giáo. Bản thân lão kiến thức hơn người, hiểu rõ tầm quan trọng của việc phải phá bỏ sự quan trọng của giới cao môn hào tộc Nho giáo. Vì thế lão chọn người chỉ dựa vào tài năng, cho rằng người có đức chưa chắc đã có tài, đả phá tiêu chuẩn tuyển dụng nhân tài Nho giáo của nhà Hán.

Từ đó cuộc đấu tranh giữa hàn môn và cao môn bắt đầu. Sau khi Tào Tháo chết, Tư Mã Ý xuất thân từ hào tộc thừa lúc con cháu họ Tào nhu nhược hồ đồ đã đoạt hoàng quyền từ tay họ Tào và khôi phục hoàn toàn cục diện giai cấp cao môn đại tộc thống trị như thời Đông Hán. Sự đả phá của Tào Tháo đối với cao môn không được tiếp tục vì Tư Mã Ý được giới cao môn hào tộc ủng hộ soán Nguỵ thành công. Hàn môn lâm vào thế bị áp bức hơn nữa dưới chế độ cửu phẩm bất công.

Nhưng tình trạng bất công đó không duy trì được lâu. Bản thân cao môn đại tộc vô cùng hủ bại, thêm vào đại hoạ người Hồ xâm lược nên hiện giờ Tấn Thất đã đến giai đoạn thoái trào như mặt trời về tây. Những nhân vật đại biểu cho cao môn đại tộc như Hoàn Huyền, Tư Mã Đạo Tử đều sinh hoạt xa hoa và hành động độc ác. Quân dân phương Nam đều đang chờ đợi một quang cảnh mới.

Dưới tình hình đó, Lưu Dụ trở thành người có nhiều khả năng nhất để thay đổi triều đại. Chỉ cần Lưu Dụ có thể khống chế Bắc Phủ Binh là có thể có được sự ủng hộ của toàn thể hàn môn trong thiên hạ và một bộ phận cao môn có lý tưởng cải cách. Vậy thì việc không thể sẽ biến thành có thể. Chỉ còn chờ xem bản thân Lưu Dụ có thể vận dụng được những điều kiện đặc biệt của bản thân không mà thôi.

“Uỳnh!”

Tiếng pháo hoa nổ ở phía sau từ trên cao bên trái vọng đến. Đồ Phụng Tam đang trầm tư mặc tưởng tỉnh lại, quay đầu nhìn về phía sau, vừa vặn thấy ánh sáng rực rỡ của pháo hoa báo hiệu.

Yến Phi dám dũng cảm xâm nhập vào đám thuỷ binh đó vì chàng đã nhìn rõ bọn chúng là những hảo thủ giỏi thuỷ tính được tuyển chọn từ người Khương và người Tiên Ti. Đại đa số bọn họ không biết rõ nhau. Hiển nhiên đây là đội ngũ được tuyển chọn lâm thời. Ủng hộ cho dự đoán của chàng là chỉ có một số ít người trong số đó biết nhau mới cười nói với nhau. Chàng còn nghe thấy chúng nói với nhau là số thuỷ kháo này chỉ vừa mới được vận chuyển tới Biên Hoang tập hai ba ngày trước đây.

Chàng cũng nghĩ tới chuyện khi lẫn vào với chúng, khả năng xấu nhất là số trang bị chỉ đủ dùng cho đám người đó, không thừa bộ nào cho chàng. Bất quá khả năng đó có thực thì chàng sẽ nghĩ cách khác để rời Tập sau. Tuy nhiên, khả năng đó tuyệt không lớn. Nói gì thì nói, chúng cũng phải có số lượng trang bị nhiều hơn để còn thay thế hoặc bổ sung. Vừa suy nghĩ trước sau, Yến Phi vừa đi lên lầu trên, lập tức trong lòng yên tâm rất nhiều.

Từng bộ thuỷ kháo được bày chỉnh tề để trên sàn. Bên cạnh là các vũ khí dùng dưới nước như thuỷ thích bén nhọn và dùi đục chuyên dùng để đối phó với thuyền địch. Ngoài ra, còn có ống đồng dài năm xích dùng để thò lên mặt nước để thở. Trang bị đủ dùng cho hai trăm người.

Điều làm chàng an tâm nhất là không một ai chú ý đến sự tham gia của vị khách không mời là chàng. Mọi người tự cởi quần áo để mặc thuỷ kháo vào, chụp mũ trùm đầu chỉ để lộ mắt, mũi và mồm. Yến Phi cố ý trà trộn vào đám người Khương để thay đổi y phục. Nhân lúc không ai để ý, chàng giấu Điệp Luyến Hoa vào song cửa.

Sau khi thay đổi y phục xong, chàng theo đại đội rời khỏi Thái Hoa Cư, xuyên qua quảng trường trước Chung Lâu, theo Đông đại nhai đi về phía Dĩnh Thuỷ. Chàng đi sau cùng, định thần lưu ý bố trí phòng ngự của địch nhân ở Đông đại nhai, đồng thời cũng lo lắng nếu trước khi hành động, đội này lại bị xếp hàng tập huấn thì thân phận gian tế của chàng không có cách gì che giấu được.

Toàn bộ Biên Hoang tập khẩn trương như một cây cung giương hết cỡ. Từng đội kỵ binh chạy qua chạy lại. Các ụ phòng thủ tầng tầng lớp lớp. Tất cả cửa sổ của các hàng quán ở Đông đại nhai bị phá tung. Trên mái nhà và trong phòng tạm thời không có ai. Tuy nhiên, Yến Phi có thể tưởng tượng khi cuộc chiến bắt đầu thì địch nhân sẽ y theo kế hoạch bố phòng hình thế trong Biên Hoang tập, vũ khí hạng nặng sẽ được đưa vào vị trí thích hợp, thạch hôi mang lên mái nhà cao, linh hoạt ứng biến, và dùng các phương pháp hữu hiệu nhất để đối phó với sự tấn công của các huynh đệ chàng.

Sau khi đi qua Đông đại môn, mùi vị quen thuộc từ phía Dĩnh Thuỷ phả vào trong mũi. Yến Phi cẩn thận nhìn quanh một lượt, lập tức hít vào một hơi khí lạnh. Chỉ thấy rất đông địch nhân đang nghiêm trận chờ đợi trên bờ sông, tiễn lâu chi chít, máy bắn đá và xe bắn tên được bố trí ở chỗ mấy toà thạch bảo có vị trí chiến lược. Bốn chiếc phù kiều được dựng lên nối thông hai bờ. Thanh thế như vậy quả thực làm người nhìn thấy phải kinh tâm động phách.

“Xếp hàng!”

Mọi người lập tức xếp thành mấy hàng trước sau. Yến Phi suýt nữa thì muốn lập tức phóng vào Dĩnh Thuỷ lặn xuống để bỏ chạy. May là chàng phát giác mọi người chỉ tuỳ ý xếp thành hàng, tuyệt không có thứ tự định trước. Có thể là do nhóm này mới thành lập, huấn luyện chưa đủ, hoặc là do bên trái có máy bắn đá, phía trước có tiến lâu, và bên phải lại để rất nhiều nỗ tiến xa nên không gian hạn chế, không thể bày hàng như chỗ rộng rãi bình thường nên chỉ xếp hàng cho có lệ. Khó chấp nhận việc công sức khó nhọc phải đổ sông đổ bể nên Yến Phi chỉ còn cách cứng cỏi đứng vào hàng cuối cùng bên ngoài. Tên ‘đồng đội’ bên cạnh nhìn chàng một cái rồi lại quay đi. Yến Phi ngấm ngầm thở ra một hơi.

Tiếng vó ngựa vang lên.

Hơn mười kỵ mã từ bờ sông phía nam Dĩnh Thuỷ tiến lại. Vừa nhìn, Yến Phi lập tức thầm kêu không hay. Nguyên người đi đầu chính là lão bằng hữu Tông Chính Lương. Yến Phi trong lòng thầm cầu xin lão thiên gia, hy vọng Tông Chính Lương chỉ là xảo hợp đi ngang qua. Nhưng ước nguyện của chàng không thành, Tông Chính Lương được thân vệ phò tá đi đến trước đội ngũ thì dừng ngựa lại.

Yến Phi thầm thở dài. Với loại cao thủ như Tông Chánh Lương thì hắn chỉ cần đảo mắt nhìn qua khẳng định sẽ có thể thấy chàng như vàng trong cát mà nhận ra ngay. Hà huống Tông Chánh Lương còn là người có nhãn lực cao minh nhất trong số địch nhân.

Mình có nên làm thịt hắn trước khi bỏ đi không?

Yến Phi khẽ di động một chút cho người đứng trước chắn thị tuyến của Tông Chính Lương. Nhưng chỉ sợ chiêu này không có tác dụng gì vì Tông Chính Lương hiện đang ngồi trên lưng ngựa, có thể nhìn rõ tất cả mọi người.

Vào thời điểm quan trọng đó, từ chỗ xa xa bờ bên kia tiếng tù và và tiếng vó ngựa vang dậy, rõ ràng là có vài ngàn kỵ mã đang phóng tới. Toàn bộ địch nhân lộ thần sắc cảnh giác, nhìn sang phía có tiếng vó ngựa vọng đến ở bờ bên kia. Yến Phi nhìn Tông Chánh Lương, thấy hắn đang quay đầu nhìn sang bờ bên kia, hừ lạnh nói: “Hoang nhân đã đến nhận chết rồi.”

Rồi hắn quay người lại làm Yến Phi giật mình vội vàng khom mình để tránh mục quang lợi hại của hắn. Tông Chánh Lương bị tiếng vó ngựa phân tán tâm thần, không còn tâm tình kiểm tra kỹ càng đối với đội thuỷ binh này nữa, dùng tiếng Hán quát lớn: “Tất cả phải hành động theo cờ hiệu. Nhiệm vụ của các ngươi là bảo vệ hàng rào gỗ chặn ngang sông, tránh không bị địch nhân từ dưới nước phá hỏng. Rõ chưa?”

Mọi người đáp lớn: “Rõ!”

Tông Chánh Lương lại quát: “Đi đi.”

Mọi người lại dạ lớn rồi di chuyển theo phía nam, men theo Dĩnh Thuỷ chạy về phía hàng rào gỗ.

Yến Phi thầm cảm ơn trời đất, vội vàng cúi thấp đầu xuống đi theo mọi người, trong lòng suy nghĩ bờ bên kia rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Dưới thời tiết tốt như thế này mà lại cường công tuyến phòng thủ bờ đông của địch nhân thì thật chắc chết không nghi ngờ gì nữa.

Nghĩ cũng vô ích, việc khẩn cấp lúc này của chàng là phải gặp được Lưu Dụ để cho gã biết tình huống ở đây.

--------------------

Chú thích:

° Thuỷ kháo: Áo lặn

°° Thốn Bộ Nan: Cái cản chân

+ Ngoại khoan nội kị, dụng nhân nhi nghi chi, sở nhâm duy thân thích tử đệ: Bề ngoài thì có vẻ rộng rãi nhưng trong lòng luôn đố kỵ, dùng người nhưng luôn nghi ngờ chỉ dùng thân thích, đệ tử