ống Bi Phong đến bên Lưu Dụ, thấp giọng hỏi: “Ngươi đang nghĩ gì vậy?”
Lưu Dụ đang đắm chìm trong trầm tư liền quay trở lại thế giới hiện tại. Song Đầu thuyền đang chạy hết tốc lực trên sông, ngược dòng tiến về Biên Hoang tập. Trời không một gợn mây, trong xanh sâu thẳm, thời tiết nóng nực khác thường, làm người ta phải phiền muộn nóng nảy.
Gã hiểu rõ tính cách Tống Bi Phong. Không có việc thì lão đã không đến tìm mình nói chuyện chơi, bèn đáp: “Tiểu điệt chỉ đang suy nghĩ lung tung thôi mà! Nói không khẩn trương chỉ là dối Tống thúc thôi.”
Tống Bi Phong nói: “Ta có một yêu cầu là lúc trên chiến trường được ở bên tả hữu, theo bên mình ngươi. Ài! Con người ta chẳng có bản lĩnh gì đặc biệt, chỉ có một việc vẫn thường làm là gia tướng bảo phiêu° thôi.”
Lưu Dụ bất chợt nhớ tới Tạ An. Tống Bi Phong bây giờ đề nghị như vậy chính là đã coi gã như Tạ An nên lão mới sẵn lòng ở sát cạnh bảo vệ cho gã. Tống Bi Phong tuyệt đối là một cao thủ nhất lưu, kể cả thích khách là loại Tôn Ân, Nhiếp Thiên Hoàn thì lão cũng có năng lực hoàn kích tưng bừng. Nếu quả thực lão chịu chỉ huy thân binh đoàn tương lai của gã thì có thể giải quyết ổn thoả vấn đề an ninh của bản thân.
Lưu Dụ đáp: “Đó thật là vinh hạnh của tiểu điệt. Chỉ ngại là uỷ khuất thúc quá nhiều rồi.”
Tống Bi Phong lộ thần sắc thương cảm, không nhịn được nói: “Bất kể là An công hay là nhị thiếu gia, trong mắt người ngoài, người thì tiêu sái phiêu dật, người thì bát diện uy phong. Nhưng thật ra, trong lòng họ cũng có những lúc thống khổ và tư lự. Ta vẫn nhớ trước trận chiến Phì Thuỷ, ta theo An công đến Vũ Bình đài gặp Thiên Thiên tiểu thư, An công lúc đó tràn đầy cảm xúc hỏi ta phải chăng đã già rồi. Đối với chuyện sống chết của mình, An công tự biết rõ hơn người khác nhiều.”
Lưu Dụ trong lòng chợt động, hỏi: “Trong lòng tiểu điệt vẫn luôn có một nghi vấn là với trí tuệ siêu phàm của An Công, tại sao lại để Huyền soái biết sẽ mất trong lúc còn tráng niên như thế? Đó là một gánh nặng tâm lý mà không một người nào có thể chịu đựng nổi.”
Tống Bi Phong trả lời: “Ngươi hỏi đúng người rồi. Việc đó, trừ An công, đại thiếu gia và ta ra, không có người thứ tư biết rõ. An công tuyệt không hề đề cập việc đó với đại thiếu gia, chỉ giữ chặt trong lòng. Cho đến một hôm, đại thiếu gia thỉnh giáo An công về mệnh cục của mình thì An công mới không có cách nào giấu được nữa.”
Lưu Dụ ngạc nhiên: “Mệnh cục?”
Tống Bi Phong đáp: “Đó là bản mệnh dựa trên ngày tháng năm sinh°°. Đại thiếu gia bản mệnh Bính Hỏa, sinh vào tháng Ngọ, là Càn dương chí tôn gặp Vương Thủy tọa lạc tại địa chi bản mệnh. Mệnh cục như thế là vô cùng hãn hữu. Người giải mệnh gọi là: “Dương nhận giá sát”. Bất luận là Bính Hoả hay Nhâm Thuỷ đều ở mức tối cao. Nhâm Thuỷ là khắc tinh của Bính Hoả. Thuỷ hoả giao chiến, luôn luôn ở trạng thái đánh nhau làm cho mệnh cục ở vào tình huống cực đoan. Nhân sinh như thế, người bình thường không thể chịu nổi. Khi thân thế bản thân thịnh vượng, uy quyền áp đảo thiên hạ cũng là lúc sát thế chuyển thịnh rồi sẽ bị chết dưới đao kiếm.”
Lưu Dụ hít một hơi khí lạnh hỏi: “Quả thật có chuyện vận mệnh như vậy thật sao?”
Tống Bi Phong cười khổ: “Chỉ sợ An công cũng không thể trả lời được câu hỏi này của ngươi. Trong cuộc sống con người, rốt cuộc người ta tự quyết được bao nhiêu việc? Còn bao nhiêu việc khác đã được định sẵn trong vận mệnh? Hay là tất cả đều do mệnh vận bày bố? Ai có thể hiểu rõ được?”
Lưu Dụ nghĩ lại những tao ngộ của Tạ Huyền rồi so với mệnh cục cực đoan “Dương nhận giá sát” của ngài, trong lòng cảm khái muôn vàn.
Nếu như quả thật tất cả đều do thiên định thì ông trời đã quá độc ác đối với Vương Đạm Chân. Vận mệnh của gã sẽ ra sao? Nếu quả thực gã có thể lựa chọn thì sẽ chọn làm một người bình thường, trà nhạt cơm rau sống cho hết đời. Còn như bây giờ, tính toán thế nào đây? Tương lai dù có thống nhất được thiên hạ nhưng bản thân gã còn có gì là khoái lạc nữa không?
Nhưng gã thực sự không còn đường khác để đi, chỉ còn cách tiếp tục kiên trì tiến lên cho tới lúc Hoàn Huyền thảm tử dưới đao của gã. Đó có thể chính là vận mệnh của gã.
Sau khi Mộ Dung Thuỳ tiễn Kỷ Thiên Thiên về trướng, Phong Nương đến bên hắn nói: “Thần đã thử điều tra bọn họ.”
Mộ Dung Thuỳ hỏi: “Kết quả thế nào?”
Phong Nương đáp: “Yến Phi chưa từng gặp qua Thiên Thiên tiểu thư vì phản ứng của Tiểu Thi cho thấy nàng ta không hề biết gì. Nếu như Yến Phi đã gặp Thiên Thiên tiểu thư rồi thì Tiểu Thi đương nhiên phải biết.”
Mộ Dung Thuỳ đình bộ trước doanh trướng, nhíu mày nói: “Hoặc là Yến Phi cố ý không kinh động Tiểu Thi. Với tính cách của Yến Phi tuyệt sẽ không tự thổi phồng mình lên bằng những việc không thể làm được. Hoang nhân cũng không có tính cách đó.”
Phong Nương nói: “Có lẽ đó là do người hữu tâm trong Hoang nhân cố ý phao truyền để khích lệ sỹ khí của bọn chúng. Lòng yêu mến và bao bọc của Thiên Thiên tiểu thư đối với Tiểu Thi là không thể nghi ngờ. Nếu như Yến Phi quả thực đã gặp nàng thì tin tức tốt lành đó sao nàng lại phải giấu Tiểu Thi?”
Rõ ràng Mộ Dung Thuỳ vô cùng tôn trọng ý kiến của Phong Nương. Hắn gật đầu nói: “Có đạo lý.”
Rồi hắn lại cười khổ: “Ôi! Tin tức tốt.”
Phong Nương tỉnh ngộ, vội nói: “Xin Hoàng thượng thứ cho Phong Nương lỡ lời.”
Mộ Dung Thuỳ ngửa mặt nhìn trời, mặt lộ vẻ buồn bã bất lực nói: “Ngươi không hề lỡ lời, chỉ là nói thật mà thôi. Nếu vì thế mà trẫm quở trách ngươi thì làm sao xứng với trách nhiệm của bậc Quân vương bình định xã tắc được.”
Phong Nương cúi đầu, nhẹ giọng nói: “Có những việc không thể miễn cưỡng. Chim muốn bay, cá muốn được vùng vẫy, đó chính là bản tính của chúng. Hoàng thượng hiểu ý tứ Phong Nương chứ?”
Mộ Dung Thuỳ nhạt giọng hỏi: “Ngươi đã từng trải qua tư vị bụng dạ nôn nao, mộng mỵ luẩn quẩn thần hồn vương vấn bao giờ chưa?”
Sắc mặt Phong Nương ảm đạm nói: “Phong Nương có thể không trả lời Hoàng thượng vấn đề này được không?”
Mộ Dung Thuỳ ngạc nhiên nhìn bà, tựa hồ chưa từng nghĩ bà ta cũng có một đoạn thương tâm vãng sự.
Kể từ khi còn bé, hắn đã biết rõ Phong Nương luôn tuyệt đối tín nhiệm hắn và khâm phục hắn. Bây giờ trong số những tâm phúc thân cận, chỉ có bà ta mới có đảm lượng uyển chuyển khuyên hắn tha cho Kỷ Thiên Thiên.
Ngây người nhìn Phong Nương một lát, Mộ Dung Thuỳ nói: “Ta chưa từng trải qua cảm giác đó cho tới khi gặp được Thiên Thiên.”
Tiếp đó mục quang hắn lấp loáng, lộ thần sắc kiên quyết không thay đổi, từng chữ từng chữ từ từ nói: “Đối với Thiên Thiên, ta vĩnh viễn không bao giờ buông bỏ nàng. Nàng phải thuộc về ta. Mất nàng, sinh mệnh ta sẽ mất hết ý nghĩa, không có thứ gì có thể bổ khuyết được khoảng trống mà nàng lưu lại, bao gồm cả việc thống nhất được thiên hạ. Ta tình nguyện tự tay mình huỷ diệt nàng, chứ tuyệt không cho nàng ở trong vòng tay của bất cứ nam nhân nào khác.”
Nói xong, hắn phất tay áo đi vào trong trướng.
Yến Phi đang nghĩ tới Kỷ Thiên Thiên. Chàng không hề tịch mịch. Bồi bạn với chàng là Điệp Luyến Hoa. Từ lần đầu tiên Điệp Luyến Hoa cảnh báo chàng tại sông Tần Hoài, cho thấy linh tính của nó thì chàng cảm thấy giữa chàng và nó đã phát sinh quan hệ gắn bó máu thịt với nhau.
Chàng không có cách nào điều tra tình hình Đông môn đại nhai từ cửa ra của Thịnh Phong Hải Vị. Chỉ còn cách nấp ở dưới cửa ra Thái Hoa Cư của Dạ Oa Tử này, tai nghe tiếng các vật nặng liên miên di động. Chàng không thể không tập trung tinh thần lưu tâm tới những hoạt động càng lúc càng nhộn nhịp của địch nhân vì chỉ cần địch nhân mở thùng phát hiện đã có người động thủ động cước vào Tây Qua Bì Pháo thì mũi mâu sẽ nhanh chóng tiến vào chỗ địa đạo mà chàng đang ẩn nấp.
Trong hoàn cảnh địa đạo ẩm mốc vô cùng khó chịu, chỉ có nghĩ về Kỷ Thiên Thiên thì mới có thể cảm nhận được sắc thái mỹ lệ của không gian đen tối này. Khi Hồng Tử Xuân kiến tạo đường bí đạo này, khẳng định lão chưa từng nấp một thời gian dài ở đây, chỉ dùng nó khi đào tẩu nên không hề có thiết bị thông khí. Tình hình này giống như ở dưới nước, Thai Tức pháp của chàng không có cách gì kéo dài. Trong lúc đầu óc mê man, chỉ có thể mượn độc môn tâm pháp là nghĩ tới Kỷ Thiên Thiên chàng mới giữ được đầu óc thanh tĩnh, tránh không bị hôn mê rồi chết ngạt.
Nhưng chàng cũng không thể chịu đựng được lâu hơn nữa. Đúng lúc đó, tiếng động phía trên ngừng lại, rồi có tiếng đóng cửa. Yến Phi ngầm kêu tạ ơn trời đất, vội mở cửa địa đạo chạy lên trên.
Thác Bạt Nghi đứng ở bìa rừng, mục quang đảo qua khu vực hoang dã bên ngoài. Đinh Tuyên đứng cạnh nói: “Hôm nay quả không bình thường, nóng nực đến nỗi làm người ta khó chịu. Lão Hồng quả có thủ đoạn xem sắc trời.”
Khu rừng mà họ đang đứng nằm ở bờ đông Dĩnh Thuỷ, phía đông bắc dãy Bạch Vân Sơn, cách Biên Hoang tập chỉ chừng năm dặm. Ba nghìn kỵ binh đang ẩn trong rừng nghỉ ngơi, di dưỡng tinh thần, chờ đợi thời gian hành động. Thác Bạt Nghi thở ra một hơi cho tỉnh táo tinh thần, trầm giọng hỏi: “Ngươi đang lo lắng sao?”
Đinh Tuyên than: “Không thể không lo lắng được. Kế hoạch của bọn ta tầng tầng lớp lớp, rất can đảm lại xảo diệu. Tuy nhiên có một nhược điểm trí mệnh là nếu có bất kỳ chỗ nào sai sót thì sẽ ảnh hưởng đến toàn cục, dẫn tới thất bại. Nguy hiểm nhất là bọn ta căn bản không có năng lực tổ chức lại một chiến dịch công kích khác, nên phải tập trung toàn bộ vào lần này, không thành công cũng thành nhân.”
Thác Bạt Nghi phục hồi vẻ lạnh lùng nói: “Đó chính là đánh bạc trên chiến trường. Bọn ta chỉ đủ tiền để đổ một ván. Ồ! Đến rồi!”
Một điểm đen xuất hiện trên khu đất bằng bên ngoài, rồi mau chóng tiến lại gần.
Đinh Tuyên vui mừng: “Khinh công của tên tiểu tử này tiến bộ không ít.”
Thác Bạt Nghi cười nhẹ: “Cao tiểu tử là một thám tử siêu cấp mà bất kỳ chủ soái nào cũng mơ có được. Hắn tựa hồ có xúc giác mẫn tiệp bản năng từ khi sinh ra vậy, khiến hắn có thể vượt lên trên tất cả những tay phong mai đông đảo trong Biên Hoang tập mà trở thành một thủ tịch phong mai không ai dám hoài nghi khả năng. Phán đoán của hắn rất ít khi sai lầm. Hy vọng lần này cũng không ngoại lệ.”
Chớp mắt, Cao Ngạn đã đến trước hai người, thở hổn hển thốt: “Con bà nó! Lần này không tốt rồi.”
Thác Bạt Nghi, Đinh Tuyên và hơn mười chiến sỹ tuỳ tùng nghe thế liền biến sắc. Cao Ngạn ha ha cười rộ một tràng, thở hổn hển nói: “Ta nói không tốt tức là không tốt cho địch nhân thôi.”
Mọi người đồng thanh chửi lớn.
Thác Bạt Nghi nổi giận đùng đùng quát: “Tên ngu ngốc nhà ngươi, giờ phút này mà còn tâm tình nói đùa nữa ư.”
Cao Ngạn chỉnh lại bộ dạng nói: “Suýt nữa mệt chết lão tử rồi. Nếu không nói cười một tý để giải toả bớt thì sao chịu nổi. Báo cáo Nghi soái, Âm đại tướng và năm trăm huynh đệ đã thành công mai phục tại thượng du Biên Hoang Tập. Vị trí phục binh của địch nhân hoàn toàn nằm trong bàn tay lão tử. Bọn chúng đang ngoan ngoãn nằm đợi chúng ta đến làm thịt. Ta đảm bảo đám dê non đó sẽ chui vào miệng hùm của bọn ta.”
Tiếp đó gã lấy trong bọc ra một quyển địa đồ, trải rộng ra trên mặt đất. Mọi người xúm lại quanh gã, vừa xem bản đồ vừa nghe gã giải thích. Ngón tay Cao Ngạn chỉ vào điểm hồng giữa bản đồ nói: “Đây là Biên Hoang Tập. Bên cạnh là Dĩnh Thuỷ chảy từ bắc xuống nam qua Biên Hoang tập”.
Thác Bạt Nghi nhíu mày: “Bọn ta biết rồi! Không cần ngươi giải thích. Nói ít lời thừa đi được không?”
Vài người nói: “Cái bản đồ này của lão Trác bọn ta ít nhất đã xem đến một trăm lần rồi.”
Cao Ngạn cười hi hi đáp: “Đó là ta cố ý nói những lời thừa đó cho các ngươi có cơ hội chửi ta, tiết bớt khí tức trong lòng ra, để mọi người khỏi khẩn trương như là cây cung căng hết cỡ. Con bà nó! Địch nhân ở hai bờ Dĩnh Thuỷ không ngừng tăng cường sức phòng ngự. Chỉ riêng bờ đông đã có hai mươi lăm toà tiễn lâu, tám toà địa luỹ, lại đào năm hố lớn. Địch nhân phòng thủ chiến tuyến ở bờ đông đạt tới hai nghìn. Có thể thấy địch nhân đã đoán bọn ta sẽ hạ thủ từ nơi đó.”
Mọi người nghe thấy trong lòng bất an. Phòng thủ ở bờ đông đã nghiêm mật như thế thì khu vực bến cảng Đông môn phía tây Biên Hoang tập càng không cần phải nói. Cao Ngạn nói tiếp: “Địch nhân lại dựng lên bốn chiếc cầu nối liên tiếp nối liền hai bờ, tuỳ thời có thể tăng viện cho bờ đông. Âm đại tướng nhận thấy chỉ bằng năm trăm người bọn ta thì không có cách gì đánh chiếm bờ đông. Đương nhiên điều đó là dưới tình hình bình thường thôi. Hắc! Ví dụ như dưới thời tiết tốt như bây giờ.”
Thác Bạt Nghi trầm giọng hỏi: “Phục binh ở đâu?”
Ngón tay Cao Ngạn di chuyển trên bản đồ đến chỗ cách Dĩnh Thuỷ năm, sáu dặm, đến một khu sơn dã phía đông Dĩnh Thuỷ nói: “Một cánh khoảng năm nghìn quân, phân bố trên hơn mười chỗ cao của khu đồi núi. Tất cả là kỵ binh, không lập doanh trại mà nghỉ ngơi chờ thời, có thể xuất kích bất cứ lúc nào.”
Đinh Tuyên nói: “Đồ Phụng Tam đoán thật chuẩn.”
Thác Bạt Nghi hỏi: “Phía Mộ Dung Chiến tình hình thế nào?”
Cao Ngạn đáp: “Một giờ trước, bộ đội của Mộ Dung Chiến đã đến Trấn Hoang Cương. Địch nhân nghe tiếng liền phái hai nghìn quân bày trận cách phía nam thành hai dặm, thể hiện chúng không sợ bọn ta. Con mẹ nó! Chúng ta sẽ dạy cho Diêu Hưng và Mộ Dung Lân phải hối hận.”
Đinh Tuyên nhíu mày: “Nếu như địch nhân rời Tập nghênh kích bộ đội tiên phong của Mộ Dung Chiến thì sẽ là một việc rất đau đầu đó.”
Thác Bạt Nghi nói: “Ngươi sợ ta, ta sợ ngươi, đó là thường tình của con người. Địch nhân chính là đang hư trương thanh thế. Ta cho rằng bọn chúng cũng không dám khinh cử vọng động vì ai dám khẳng định việc bọn ta tiến chiếm Trấn Hoang Cương không phải là kế dụ địch? Địch nhân chỉ xuất tập nghênh chiến dưới một tình huống duy nhất. Đó là sau khi chúng hiểu rõ bố trí của bọn ta. Dưới tình hình bình thường thì việc đó có thể làm được, nhưng nếu trời đổ mưa lớn, rồi sương mù dày đặc buông xuống thì địch nhân sẽ mất cơ hội nắm quyền chủ động. Đó là chỗ tinh tế nhất trong kế hoạch của bọn ta.”
Đinh Tuyên đồng ý: “Như bố trí hiện tại của địch nhân chắc chắn là chúng dùng chiến lược trước hết là giữ vững, sau đó mới đột kích.”
Cao Ngạn cười: “Trong tình huống này thì đó đúng là sách lược tốt nhất. Hà! Tiếp theo nên làm thế nào? Xin Nghi soái chỉ thị. Ta còn phải về báo cho Âm đại tướng.”
Thác Bạt Nghi hỏi: “Ngươi khẳng định Âm Kỳ và thủ hạ của hắn có thể qua được tai mắt địch nhân không?”
Cao Ngạn vỗ ngực bảo chứng: “Việc đó ngươi có thể yên tâm. Tối qua do người quen thuộc Biên Hoang nhất là lão tử đây tự thân dẫn đường, đi trọn một đêm, vòng một vòng lớn, toàn đi trong rừng rậm hoang dã, chuyên tìm những lối mòn, suối nhỏ mà đi. Ngươi càng có thể yên tâm hơn vì thám tử giám sát địch nhân của bọn ta báo cáo về là tình hình không có gì bất thường. Nếu như địch nhân lại có thể giả vờ cao minh đến mức như thế thì Hoang nhân bọn ta chỉ còn cách oán hận mình mệnh khổ mà thôi.”
Thác Bạt Nghi trầm ngâm một lúc rồi nói: “Giả sử ngươi là Diêu Hưng và Mộ Dung Lân, đột nhiên phát giác ba ngàn nhân mã của bọn ta xuất hiện ở bờ đông, ra vẻ sẽ tấn công chiến tuyến của địch nhân ở Dĩnh Thuỷ thì ngươi sẽ làm gì?”
Cao Ngạn không suy nghĩ trả lời ngay: “Ta sẽ cho là các ngươi đã phát điên, không muốn sống nữa.”
Đinh Tuyên gật đầu nói: “Nhưng địch nhân đương nhiên biết bọn ta không phải là những kẻ ngu không muốn sống nữa. Chúng sẽ cho rằng đó là bước đầu của cuộc tấn công toàn diện của bọn ta. Một mặt chúng sẽ nghiêm trận chờ đợi, mặt khác điều động phục binh, đem ba ngàn quân đơn độc của bọn ta tiêu diệt toàn thể để tăng quân công của chúng.”
Thác Bạt Nghi nhìn Cao Ngạn hỏi: “Nghe thấy chưa? Thành bại của bọn ta là dựa vào ngươi đó.”
Cao Ngạn nhảy dựng lên thốt: “Không cần nói đến mức nghiêm trọng thế chứ? Lão tử tuy rằng dũng mãnh hơn người, tài cao như trời, nhưng vẫn sợ không gánh vác nổi trọng trách đó.”
Thác Bạt Nghi không thèm để ý đến lời hồ ngôn loạn ngữ của gã, trầm ngâm nói: “Giả sử bọn ta làm đúng như Lưu gia phân phó, ruổi ngựa qua bờ đông, Diêu Hưng và Mộ Dung Lân sẽ khẳng định là bọn ta biết phía đông có phục binh, càng làm tăng khả năng làm thất bại kế dụ địch. Đúng không?”
Cao Ngạn cuối cùng cũng hiểu rõ suy nghĩ của hắn, biến sắc nói: “Ta sớm lúc nãy hãy còn làm cho ngươi sợ mà. Ngươi không thật sự muốn tấn công địch nhân ở phòng tuyến Dĩnh Thuỷ đấy chứ?”
Đinh Tuyên trả lời: “Tấn công giả thì sao?”
Thác Bạt Nghi cười nhẹ: “Nói về thuật thám tử nếu Cao thiếu gia ngươi nhận là đệ nhị thì không ai dám nhận đệ nhất. Nhưng nếu nói về hành động quân sự trên chiến trường thì ngươi chỉ là một người ngồi nghe mà thôi. Lưu gia giao nhiệm vụ cho ta, ta phải nghiên cứu tình hình thực tế, linh hoạt biến hoá mới có thể hoàn thành mục tiêu quân sự đã định. Chỉ cần bọn ta nắm vững được thời gian, chỗ nào có địch thì có thể thành công thi triển kế dụ địch, rồi đánh cho quân địch truy theo một trận con bà nó lạc hoa lưu thuỷ. Ta tuyệt không phải tham công, mà dưới tình hình biết hết động tĩnh địch nhân thì bọn ta đã chiếm được rất nhiều tiện nghi. Nếu không thì đi sai một quân là hỏng cả bàn. Không dám mạo hiểm thì làm sao ba ngàn người có thể đánh bại phục binh của địch lên tới năm ngàn? Nếu như có mỗi một cánh quân mai phục cũng không thể giải quyết thì trận này không cần phải đánh nữa.”
Cao Ngạn căng thẳng hít vài hơi, không có cách gì khác đành phải đồng ý, hỏi: “Ta có thể làm gì?”
Thác Bạt Nghi hỏi: “Địch nhân mai phục ở đó là Khương nhân hay là người Mộ Dung Tiên Ti tộc vậy?”
Cao Ngạn đáp: “Tất cả là Khương binh.”
Thác Bạt Nghi hỏi: “Ngươi có hiểu cờ hiệu Khương nhân không?”
Cao Ngạn kiêu ngạo trả lời: “Rõ như lòng bàn tay. Bọn chúng chỉ cần đánh rắm một cái là ta cũng biết chúng định làm gì.”
Thác Bạt Nghi nói: “Thế thì được rồi. Bây giờ ngươi lập tức đi báo cho Âm Kỳ biết kế ứng biến của bọn ta.”
Cao Ngạn gãi đầu hỏi: “Kế ứng biến thế nào?”
Mọi người cười phá lên. Họ là những người đã theo Thác Bạt Nghi nhiều năm, là những mã tặc có tập quán đi lại như gió. Họ đã biết rõ tình hình, lại hoàn toàn tin tưởng Thác Bạt Nghi. Chỉ cần ngồi trên chiến mã thì dù gặp tình hình hung hiểm thế nào cũng có thể ứng phó được.
Thác Bạt Nghi cười nói: “Ngươi lưu ý nghe cho rõ đây! Nghe thiếu một câu cũng không được. Hiểu không?”
Cao Ngạn cười khổ: “Ngươi cứ yên tâm. Ta không nghĩ cho các ngươi thì cũng phải nghĩ cho cái mạng nhỏ của mình. Ài! Ta còn phải đến Lưỡng Hồ đón Tiểu Bạch Nhạn của ta nữa chứ.”
Mọi người lại cười lớn, sỹ khí dâng cao đến cực điểm.