Yến Phi và Cao Ngạn cụng ly, nâng lên dốc cạn không còn một giọt, hai người đã có chút ngà ngà, cả thế gian mau chóng thay đổi. Bảy người bọn họ chia thành hai nhóm trải chiếu ngồi trong một góc nhấm nháp chuốc chén. Cao, Yến hai người nói cười cực hoan hỉ, đám Lương Định Đô thì ngồi im lìm rầu rĩ uống.
Yến Phi thấy Cao Ngạn buông chén, ngu ngơ nhìn mình liền cười: “Nhìn cái gì? Ài! Nếu ta mạo hiểm phản hồi Biên Hoang Tập, thì nhất định là vì Tuyết Giản Hương của Bàng Nghĩa thôi”.
Cao Ngạn nói: “Ta sợ ngươi bụng rỗng cả trăm ngày uống rượu vào rồi chịu không được mửa ra đấy”.
Yến Phi cảm thấy rượu vào hơi oải, giận nói: “Tửu lực của ta vẫn vậy, làm gì đến nỗi mất mặt như thế được”.
Cao Ngạn thấy chàng thần sắc khoan khoái, yên tâm cười nói: “Ngươi có thể biết, nếu tỉnh lại sớm mười ngày, thì khả năng giờ này không có rượu đâu mà dỗ dành con sâu rượu trong bụng, trước đó chỉ có ở thanh lâu mới có rượu đãi khách, mười ngày trước triều đình mới bỏ lệnh cấm rượu, đồng thời tăng thuế gạo, mỗi đầu người năm thạch”.
Yến Phi ngạc nhiên nói: “Thắng trận bỏ cấm chế thì không lạ, vì sao mà lại phải tăng thuế? Mấy chuyện này chẳng phải do Tạ An quản hay sao?”.
Cao Ngạn hạ giọng nói: “Theo ta nghe nói, hiện tại trong triều kẻ nắm quyền là Tư Mã Đạo Tử, tất cả là để tăng gia quốc khố, để cung ứng cho Tư Mã Diệu hưởng lạc xa xỉ, cái lũ chó thật, may mà chúng ta là Hoang nhân, khổ khổ sở sở kiếm ăn đâu phải để chúng nó bóc lột, biến thành kẻ thù”.
Yến Phi thở dài: “Về Biên Hoang Tập thôi! Ngươi không thuộc về nơi này đâu, ở Biên Hoang Tập, ngươi đâu có rảnh rỗi gây chuyện cáu gắt vớ vẩn với người lạ!”. Cao Ngạn lập tức hai mắt lóe sáng, gật đầu nói: “Đúng a! Ở Biên Hoang Tập quen cứ có bạc là có hàng, lão tử muốn gặp ả nào thì gặp ả đó, các ả chỉ sợ ngươi không hứng thú gặp ả. Bất quá chuyện này lại phải nhờ lão ca ngươi giúp đỡ, chưa gặp được Kỷ Thiên Thiên, ta không được toại tâm ý”.
Yến Phi cười khổ: “Ngươi không sợ thất vọng sao? Kỷ Thiên Thiên nếu đối đãi ngươi như kiểu Tạ Chung Tú, hay là như Chân tiểu thư không buồn nhìn ngươi lấy nửa cái, ngươi còn gì là hứng thú?”.
Cao Ngạn cười: “Nếu cô ta là loại nữ nhân như thế, ta đành ôm mối tuyệt vọng lập tức trở về Biên Hoang Tập. Con bà ngươi! Đừng có tìm lời thoái thác, mà không chịu tác thành tâm nguyện cuối cùng của ta đối với Tần Hoài hà”.
Yến Phi bất lực, cười khổ không biết nói gì.
Cao Ngạn hốt nhiên thần sắc ảm đạm, cứ như ngại mở miệng, hạ giọng nói: “Ngươi định thế nào?”.
Lúc này nhà bếp mang lên hai chén canh nhẹ và một đĩa lớn đồ ăn hơi nóng bốc nghi ngút đặt lên ghế, Yến Phi lập tức hưởng ứng, ăn uống rất thật tình.
Cao Ngạn nhíu mày nói: “Ngươi còn chưa trả lời ta”.
Yến Phi bình tĩnh nói: “Ngươi từ khi nào thay đổi không giống như Hoang nhân thế? Hoang nhân đâu có hỏi tới hỏi lui một Hoang nhân khác như thế? Hoang nhân chẳng những không có quá khứ, càng không có tương lai! Đấy mới đúng là quy điều của Biên Hoang Tập. Cái gì bằng hữu, huynh đệ sinh tử chi giao chỉ là lời nói bề ngoài, xưa nay thực chất không mang ý nghĩa gì. Lập tức cút về Biên Hoang Tập, tiếp tục đời sống phát tài phong lưu cho ta!”.
Cao Ngạn hai mắt đỏ lên, nhưng không nói được ra lời.
Yến Phi thấy bộ dạng hắn như thế, biết là hắn đau lòng vì nỗi mình trở thành phế nhân, cũng không cầm được anh hùng khí đoản, ủ rũ nói: “Nguyên lai tiểu tử Cao Ngạn ở Biên Hoang Tập tung hoành khắp chốn lại là kẻ dễ rơi nước mắt như vậy! Bỏ đi! Để ta nghĩ biện pháp tốt cho ngươi. Bất quá sau khi gặp Kỷ Thiên Thiên rồi, ngươi phải lập tức rời khỏi Kiến Khang, ta không muốn ngươi ở đây để người ta coi thường”.
Cao Ngạn rất muốn nói: “Ngươi đi cùng với ta”, bất quá nhớ đến Yến Phi cừu nhân khắp nơi khắp chốn, chỉ cần Chúc lão đại của Hán bang đã đủ khiến hắn khốn khổ rồi, trở lại Biên Hoang Tập, há chẳng phải đưa Yến Phi vào chỗ chết sao, chỉ đơn giản một câu nói, mà không sao nói ra được.
Lại nghĩ Yến Phi có khi từ lần ăn nhờ ở đậu này biến thành một thực khách vô công rồi nghề ở cao môn đại tộc, cảm giác đó khiến hắn không sao chịu nổi.
Yến Phi miễn cưỡng làm mặt vui vẻ, nói: “Sinh tử hữu mệnh, phú quý do thiên, chuyện tương lai muốn lo cũng chẳng được, hôm nay có rượu thì hãy đối tửu ca hát! Cạn chén đi! Ta vì ngươi uống thêm một chung, chúc Biên Hoang Tập sớm khôi phục phồn vinh của ngày xưa! Úi!”.
Cao Ngạn thấy chàng biến sắc mặt nhìn ra cửa, hắn thân là Hoang nhân, cuộc sống ở Biên Hoang Tập cãi lộn chém giết nhau như cơm bữa, liền thò tay vào bọc tìm, phát giác vì muốn tới thanh lâu, mà sớm nay lại từ thanh lâu trực tiếp đến Tạ phủ, cho nên thanh chủy thủ phòng thân xưa nay vẫn giắt bên người lần này lại không đem theo, kinh hãi quay đầu nhìn lại.
Năm người bọn Lương Định Đô đã bật dậy rút bội kiếm ra. Từ cửa lớn hơn mười người hùng hổ tiến vào, người nào cũng khăn đen bịt kín đầu mặt, chỉ để lộ cặp mắt hung dữ, tất cả đều mang mộc côn dài tới sáu thước đen sì, không sợ đao chém, chuyên để khắc chế vũ khí đao kiếm.
Trong quán lúc này tân khách có tới bốn chục người cùng bọn nhà bếp, phục vụ lập tức cuống quít chạy trốn loạn xạ.
Lương Định Đô nhìn về phía sau, còn hơn chục đại hán trang phục đồng dạng, tay cầm vũ khí, ào ào kéo đến, chẹn kín toàn bộ đường tiến thoái.
Bọn Yến Phi không người nào biết đã phát sinh chuyện gì? Giữa ban ngày ban mặt, trên phố đông người qua, bỗng dưng lòi ra hơn ba chục ác hán bịt mặt che đầu mang côn mang gậy, lại càng không biết chúng đến vì bọn Lương Định Đô hay Yến Phi và Cao Ngạn.
Một tên trong đám trỏ tay vào mặt Lương Định Đô quát to: “Oan có đầu, nợ có chủ, kẻ khác vô sự cút hết cho ta!”.
Tân khách cùng kẻ ăn người làm trong quán như được hoàng ân đại xá, chỉ hận cha mẹ sinh ra có một cặp giò, ào ào như ong vỡ tổ chuồn sạch.
Lương Định Đô nói: “Các ngươi là ai? Có biết chúng ta là gia tướng của Tạ An không?”. Đại hán cầm đầu không nói một câu, trường côn vẽ một vòng tròn trên không, tiếp đó bước theo bộ pháp kỳ dị, đầu côn nhắm vào giữa mặt Lương Định Đô thọc tới. Đám hán tử bịt mặt còn lại nhất tề quát to, cùng xông đến như lang như hổ, nhất thời trong quán chập chùng côn ảnh, lực lượng hai bên cực kỳ chênh lệch.
Yến Phi tuy mất võ công, nhãn lực vẫn còn, coi gã đầu lĩnh xuất thủ, lập tức biết không xong, tên này không những nội công thâm hậu, thủ đoạn xảo quyệt, lợi hại nhất là
lâm địch ung dung, có phong độ cao thủ, khí thế hoàn toàn bao trùm Lương Định Đô, bức bách gã không rảnh tay chút nào để giúp đồng bọn cự địch.
“Rẻng!”.
Lương Định Đô không hổ là kiếm thủ xuất sắc nhất trong đám gia tướng thủ hạ Tống Bi Phong, xuất kiếm như gió, đâm trúng đầu côn đối phương, lại dụng kình xảo diệu đánh bật trường côn đối phương sang bên, đang muốn ập vào tiếp cận khống chế đối phương, thi triển một chiêu đánh ngã kẻ địch, đã thấy trường côn từ phía sau kéo ngược trở về, lại đang quét tới, trong lòng hoảng sợ, không còn cách gì đành lướt sang ngang chống đỡ.
Bọn Trương Hiền cũng đã bị hãm vào trùng vây, kẻ địch tuy trong lúc hỗn chiến, nhưng tiến lui có thứ tự, rõ ràng rất có kinh nghiệm quần chiến, trước tiên dùng loạn côn phân tán bốn gã, sau đấy cứ mấy tên tiếp đãi một tên toàn lực vây công.
Còn dư đến bảy tám đại hán đứng xung quanh cũng mau chóng gia nhập vòng chiến, đánh cho bọn Lương Định Đô mồ hôi đầm đìa, không ngớt gặp nguy hiểm, chỉ biết cắn răng chịu đòn.
Bên phía Yến Phi và Cao Ngạn cũng đã nguy cấp, đầu tiên là bọn Lương Định Đô lấy bọn họ làm trung tâm cản trở địch nhân, rồi đến lúc mỗi người tự lo không xong. Năm tên đại hán liền xông đến chỗ bọn họ.
Cao Ngạn kêu to: “Oan có đầu nợ có chủ, hắn không biết võ công, đừng có làm gì hắn!”.
Mấy tên này làm gì thèm để ý đến hắn, năm cây trường côn từ những góc độ vị trí khác nhau bổ xuống hai người đang nép vào góc tường.
“Phanh!” Cao Ngạn tung cước đá vào bụng dưới của một đại hán, tên này cầm côn ngã vật ra sau, đồng thời hắn quán kình vào song thủ, vung tay chặn hai cây trường côn.
Yến Phi trong lòng bốc lên cơn nộ hỏa chưa từng có, phải biết, chàng cùng Cao Ngạn đều phải nuốt hận trong vụ này, Cao Ngạn xưa nay chỉ giỏi công phu chạy nhảy, nếu không vướng có Yến Phi, cho dù ở liệt thế như vậy đi chăng nữa, hắn vẫn dư sức đột vây tẩu thoát, nhưng vì bây giờ muốn ngăn đối phương hại Yến Phi, không tiếc tấm thân huyết nhục bảo hộ Yến Phi,chỉ có thể trong một không gian chật hẹp chiến đấu, lại vì trong tay không vũ khí, phát huy tối đa chỉ được ba bốn thành công phu, như vậy sao có thể may mắn tránh thoát được? Quả nhiên Cao Ngạn tránh được một côn bên tả, liền nhận ngay một đòn vào tay hữu, đau đớn đến mức toàn thân chấn động, gào lên một tiếng, bất kể gì hết lao vào màn côn ảnh của đại hán trước mặt, húc đầu vào ngực gã, đại hán rú lên một tiếng thảm, ngã lăn ra.
Những tên còn lại liền loạn côn đánh tới, còn gì là cao thủ quá chiêu? Chỉ giống như bọn lưu manh ngoài chợ đánh lộn.
Tiếng la đau đớn không ngừng vọng lại từ đám Trương Hiền, Yến Phi đưa mắt nhìn, toàn bộ đám đại hán xung quanh đã gia nhập chiến cuộc, bọn Trương Hiền không thẹn là gia tướng Tạ phủ, ai nấy cố chết chiến đấu, dù bị thương vẫn ngoan cường kháng cự. Xuất sắc nhất vẫn là Lương Định Đô, một mình chống lại bảy tám người tấn công, trong đó có cả đại hán cầm đầu, vậy mà không ngừng có kẻ bị gã đâm trúng. Gã thi hành chiến thuật du đấu, trong khung cảnh chật hẹp trong nhà quán, lăn xuống đất, vọt lên không, kiểu gì cũng chơi, làm giảm rất nhiều áp lực cho bọn Trương Hiền, lại cố ý xông đến chỗ chàng và Cao Ngạn cứu viện, khiến Yến Phi lại thấy có hy vọng, chàng không phải là nghĩ đến sinh tử của bản thân, mà khẩn trương vì an nguy của Cao Ngạn.
“Oạch!”.
Cao Ngạn loạng choạng thoái lui, trước tiên ngã vào lòng Yến Phi, sau đấy người nhũn ra ngã xuống, không biết bị đánh vào chỗ nào.
Yến Phi lập tức từ phía sau ôm chặt lấy hắn, trong tâm trào lên cảm giác cay đắng tuyệt vọng vô cùng, mắt thấy đầy trời côn ảnh đánh tới, không chút do dự liền ôm Cao Ngạn xoay người lại, chìa lưng hứng lấy địch côn.
Trong chớp mắt, không biết đã trúng phải mấy côn, thân thể không có nội công hộ thể yếu nhược đến mức không tin nổi, Yến Phi phát giác mình đã ngã lăn vào chân tường, đè lên trên người Cao Ngạn, đau đớn đến co rúm cả người.
Côn giáng xuống như mưa, chỉ nhè xương sống và sau gáy mà bổ, thủ đoạn thật độc ác, rõ ràng muốn đánh cho chàng chẳng chết thì cũng tê liệt suốt đời.
Trong lúc đau đớn kịch liệt, thần trí chàng lại thấy sáng suốt hơn, ẩn ước nghe tiếng quát của Tống Bi Phong, kỳ quái là những đau đớn nhục thể dần dần đi đâu mất, tựa như không còn liên quan đến mình nữa, nhưng toàn thân thì hết sức uể oải, côn đánh xuống không làm chàng đau đớn nữa, mà giống như được đấm bóp khiến chàng dễ chịu vô cùng, càng lúc càng muốn được ngủ đi một giấc, thần trí dần dần trở nên mơ màng.
Nếu cái chết mà là như thế này thì đúng là chẳng có gì đáng sợ.
o0o
Thác Bạt Khuê một mình thúc ngựa phóng nhanh theo bờ phía đông sông Dương Hà, trận bão tuyết chỉ vừa ngừng hai ngày trước, tuy nhiên gió bắc vẫn lồng lộng mang bụi tuyết rắc khắp nơi khiến người ta không mấy dễ chịu.
Dương Hà là nhánh sông nằm ở thượng du Tang Can Hà, vì rằng tiết trời hơi ấm lên nên nước sông không đóng băng.
Hai bên bờ Dương Hà đã khôi phục lại cảnh bình nguyên sơn dã, rừng rậm nguyên thủy ken dày kín mít, ở chân trời phía đông sơn mạch liên miên, hiện giờ chỉ thấy toàn bộ đều bị băng tuyết phủ kín.
Tuấn mã thở hơi trắng xóa, mang hắn trên lưng ra đi vì vận mệnh của Thác Bạt bộ mà phấn đấu.
Thác Bạt Quật Đốt quả nhiên đúng như dự liệu mang quân đuổi theo, hắn nhờ lợi dụng tuyết lớn vượt trước đối phương một đêm lộ trình, cho nên có thể tìm nơi tránh gió, để người ngựa nghỉ ngơi hồi sức, đối phương thì chắc chắn ở tình trạng người mệt ngựa mỏi.
Hắn rời khỏi bờ sông, rẽ trái phóng ngựa về một vùng đồi núi, xuyên qua thảo nguyên đầy tuyết trắng, phi lên sườn dốc. Các đại tướng, mưu sĩ thủ hạ Trưởng Tôn Tung, Trưởng Tôn Phổ Lạc, Trưởng Tôn Đạo Sinh, Trương Duyện, Hứa Khiêm đều xuất hiện trên đỉnh dốc.
Đằng sau ngọn đồi là một tiểu cốc, chẳng những có thể tránh gió, còn có suối nước, hai ngàn chiến sĩ đang ở đó chờ lệnh.
Trưởng Tôn Đạo giúp hắn giữ cương ngựa, Thác Bạt Khuê nhảy xuống đất, vỗ về ái mã, hướng về mọi người nói: “May mắn người tới là Mộ Dung Lân, không phải là Mộ Dung Bửu”. Chúng tướng đồng thanh hoan hô chúc mừng.
Mộ Dung Bửu là con trưởng của Mộ Dung Thùy, Mộ Dung Lân là con thứ, Mộ Dung Bửu luôn bất mãn cha coi trọng Thác Bạt Khuê, với hắn có quan hệ không tốt đẹp, quan hệ với Mộ Dung Lân thì lại không tồi.
Yếu tố quan trọng trong trận này là có hay không có viện quân của Mộ Dung Thùy, đó chẳng những là đạo kỳ binh nằm ngoài ý liệu của Quật Đốt, mà còn là quân sinh lực, sức chiến đấu tất nhiên hơn hẳn so với lưỡng chi chiến sĩ Thác Bạt tộc kẻ đuổi người chạy.
Thác Bạt Khuê chăm chú nhìn về phía bình nguyên hoang dã phía bắc, biết rằng hơn một vạn bộ đội của Quật Đốt có thể xuất hiện bất cứ lúc nào ở phía đó.
Dưới ánh tà huy chưa tắt hẳn, bình nguyên mênh mông tuyết trắng lấp lánh những tia sáng màu sắc quỷ dị, trong lòng phấn khởi bồng bột nói: “Ta muốn tự tay chém đầu Quật Đốt, mang về thị chúng, sau này nếu kẻ nào dám phản đối ta, sẽ có số phận như vậy”.
Trương Duyện nói: “Trận này chẳng những phải xuất kỳ bất ý, trước đấy còn phải khiến Quật Đốt không có bất kỳ cảm giác uy hiếp nào, nếu lão thấy ta thua chạy hơn trăm dặm, bỗng dưng quay lại phản kích, tất sinh tâm nghi ngờ”.
Thác Bạt Khuê luôn luôn nghe theo mưu kế của hai vị mưu sĩ người Hán Trương Duyện và Hứa Khiêm, Phù Kiên nhờ có một Vương Mãnh mà thống nhất phương bắc, chuyện này hắn luôn khắc sâu trong lòng, mà Hứa Khiêm, Trương Duyện cũng cho rằng hắn Thác Bạt Khuê xứng đáng là minh chủ, cho nên mới hy vọng giống như Nhạc Nghị phò Yên Chiêu vương, Tuân Du phò Tào Tháo, giúp Thác Bạt Khuê hoàn thành đại nghiệp. Trong trạng thái tâm lý như vậy, chúa tôi đúng là như cá gặp nước.
Trương, Hứa hai người chính là đại biểu cho tâm lý người Hán phương bắc, sau hơn trăm năm sống hòa trộn với nhau, sự phân biệt Hồ - Hán trở nên hết sức mơ hồ, lại thêm Hán nhân cực kỳ thất vọng đối với Tấn thất hủ bại, sau thời gian dài sống dưới sự cai trị của chư Hồ phương bắc, dựa vào kẻ mạnh dùng mưu xuất lộ đã trở thành xu thế thời đại, không ai còn cảm giác bất an phản bội truyền thống người Hán nữa.
Thác Bạt Khuê gật đầu đồng ý: “Nói rất đúng! Ta đã vỗ tay làm bằng với Mộ Dung Lân, quyết định đêm nay tập kích Quật Đốt, hai giờ trước khi trời sáng, trước hết do chúng ta phát động, lôi kéo chủ lực của Quật Đốt, sau đó Mộ Dung Lân từ nơi ẩn nấp theo hướng bắc giáp kích Quật Đốt, đánh cho lão trở tay không kịp”.
Trưởng Tôn Tung trầm giọng hỏi: “Mộ Dung Lân mang theo bao nhiêu nhân mã?”. Thác Bạt Khuê nói: “Hắn tuy chỉ mang có ba ngàn người, nhưng đều là tinh nhuệ, nếu để đụng chính diện với Quật Đốt e không đủ, nhưng dùng làm kỳ binh đột tập thì lại quá dư”.
Trưởng Tôn Phổ Lạc nhíu mày nói: “Hành quân trên đất tuyết khó ẩn giấu hành tung, mà với tính cách Quật Đốt, tất từng giờ từng phút đề phòng ta quay lại đột kích, một khi chúng ta chịu không nổi sự phản kích của lão, không thể phối hợp với thế công của Mộ Dung Lân, không chừng trận này thất bại”.
Thác Bạt Khuê thoáng hiện nét cười, ung dung như không nói: “Quân ta mấy ngày nay trên đường đi về tốc độ, nhịp điệu đều cố tình khống chế khiến cho Quật Đốt nhiều lúc cảm giác chỉ còn một chút là đuổi kịp chúng ta, cho nên không dám lơi lỏng. Chỉ cần vào lúc mặt trời lặn ngày hôm nay, bộ đội tiên phong của Quật Đốt xuất hiện trong tầm nhìn của ta, thắng lợi của trận này ắt thuộc về chúng ta, không có bất kỳ khả năng nào khác nữa”.
Nếu đích thân Quật Đốt có mặt nơi đây, sẽ là lần đầu tiên kể từ khi rút chạy địch nhân ở gần bọn lão nhất.
Trưởng Tôn Đạo Sinh là người nhỏ nhất trong ba huynh đệ, anh tuấn linh hoạt, bất luận trí kế hay võ công đều không dưới hai vị huynh trưởng, cất tiếng hỏi: “Chúng ta phục kích địch nhân tại đây sao?”.
Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Chính là tại đây!”.
Mọi người đều ngạc nhiên, địa hình nơi này lợi thủ không lợi công, mà không biết rồi Quật Đốt sẽ dựng trại ở chỗ nào, với sự lão luyện của Quật Đốt, tất sẽ phái người đi tra xét, nếu phát hiện sự có mặt của bọn họ, lập tức sẽ lập trận quay lưng ra sông, bọn họ sẽ phải lưỡng đầu thọ địch rất bất lợi.
Trương Duyện là người đầu tiên tỉnh ngộ nói: “Thiếu chủ là muốn địch nhân chiếm cứ chỗ này”.
Thác Bạt Khuê vui vẻ nói: “Chúng ta giả vờ là do bọn họ đến quá mau, cuống cuồng chạy trốn, lại bỏ lại lương thảo đồ dùng khiến cho đối phương sinh lòng khinh địch. Lúc đó trời đã tối, Quật Đốt đã suốt cả ngày truy đuổi, đương nhiên sẽ dựng trại bên trong tiểu cốc nghỉ ngơi dưỡng sức người ngựa.
Mọi người bàng hoàng.
Tiểu sơn cốc có thể chứa được ba ngàn người, số người còn lại của Quật Đốt đành phải dựng lều trại trên đỉnh đồi hoặc tại cốc khẩu phía nam, để binh tướng chỉnh trang doanh trại, uống đủ nước ăn no bụng, chiến sĩ đều vào lều nghỉ ngơi, đợi đến lúc vừa mới thiếp ngủ, bọn họ liền toàn diện triển khai thâu tập, trước hết đột kích doanh trại ngoài cốc khẩu, một khi đã kinh động toàn quân Quật Đốt, ra sức chống cự, tiểu cốc này vì điều động quân đội mà trở thành tắc nghẽn, ngăn trở bộ đội từ đỉnh núi phía bắc sang ứng cứu cho cốc khẩu phía nam, lúc đó Mộ Dung Lân mới từ nơi giấu quân phía bắc với khí thế như sấm sét đập nát cánh quân phía bắc của Quật Đốt. Vì bị tiểu cốc ngăn cách, Quật Đốt đầu đuôi không thể tương cứu, lại thêm trong đêm đen, địch ám ta minh, dù cho binh lực nhiều hơn liên quân giáp kích, cũng không thể phát huy sức lực vốn có. Tướng mệt binh mỏi chính là nhược điểm trí mệnh của lão.
Chúng tướng lập tức sĩ khí tăng vọt.
Trưởng Tôn Tung trỏ tay nói: “Quật Đốt đến rồi!”.
Thác Bạt Khuê hết sức mừng rỡ, đưa mắt nhìn ra xa, ở cánh rừng thưa xa xa, hơn mười người phóng ra, phi nhanh về phía bọn họ.
Thác Bạt Khuê cười lớn: “Trời giúp ta rồi!”.
Liền quát lớn: “Hạ lệnh triệt thoái!”.
Tiếng tù và hiệu vang lên chấn động cả một vùng đồi hoang, chiến sĩ đã chuẩn bị chờ lệnh rút lui theo thứ tự triệt thoái theo cốc khẩu phía bắc, Thác Bạt Khuê trong lòng tràn ngập cảm giác kích thích, trận này cứu cánh sẽ là khởi điểm hay là chung kết của đại nghiệp tranh bá của hắn, đêm nay có thể biết rõ.
Chú thích:
23Tai bay vạ gió.