Bí Mật Tội Lỗi

Chương 3

“Chúng ta phải làm sao bây giờ ạ?”, Juliette lặng lẽ hỏi. Mẹ cô đang nhìn chằm chằm ra ngoài trời tuyết qua khung của sổ. Khuôn mặt bà trống rỗng, dường như bà đã không ngủ chút nào.

Beatrice hít thật sâu, quay sang đối diện với con gái. “Mẹ sẽ ở lại đây, còn các con tới London. Sắp tới con sẽ ở cùng dì Charlotte.” Bà đứng thẳng, mím môi. “Mẹ sẽ xem xét ngôi nhà có thể sửa chữa được không.”

Tuy cố tỏ ra mạnh mẽ, đôi mắt bà Beatrice vẫn rơm rớm nước. Juliette tiến lại gần, nắm lấy tay mẹ. “Mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi mẹ ạ.”

“Chúng ta không có tiền xây lại nhà”, mẹ cô thú nhận. “Và… và giờ đang là mùa đông. Cha con sẽ nói gì nếu ông ấy trở về sớm? Mẹ không biết chúng ta sẽ xoay xở ra sao.”

“Chúng ta có lợi nhuận từ việc may vá”, Juliette nhắc nhở bà. “Những người nông dân vẫn đang giúp Victoria. Hãy để họ tiếp tục làm, Sinclair có thể đem bán sản phẩm ở London như trước đây.” Cô không đề cập đến thực tế là họ đang may đồ lót thay vì váy áo bình thường. Beatrice chưa phải thợ may giỏi, thứ họ cần là sự cho phép của bà chứ không phải trợ giúp. Sẽ tốt hơn nếu bà không biết các con mình đang may áo nịt ngực và đồ lót tai tiếng kia bằng lụa.

“Và ngài công tước có thể giúp đỡ chúng ta”, Juliette nói thêm. Chồng Victoria có vẻ sẽ không để họ chịu khổ cực. Công tước xứ Worthingstone là một người đàn ông tốt bụng và rất yêu vợ mới cưới của mình.

“Mẹ biết cậu ấy sẽ giúp nhưng mẹ không muốn đặt gánh nặng của chúng ta lên vai người khác.” Beatrice quay lại ghế, lấy ra một tờ giấy cùng cây bút. Bà nhúng bút vào lọ mực, bắt đầu viết. Nhưng khi Juliette đến gần hơn, cô nhận thấy tay bà đang run rẩy.

“Thậm chí… thậm chí mẹ còn không biết những hóa đơn nào đã được thanh toán và ông Gilderness đã thu tiền thuê nhà ở Norfolk chưa.” Bà bóp trán rồi lấy tay bụm miệng. “Có rất nhiều khoản. Sổ sách đã bị cháy và mẹ không thể nhớ hết.”

Juliette bước ngang qua phòng, lấy tờ giấy từ tay mẹ cô. Đó là danh sách các chủ nợ mà Beatrice có thể nhớ được. Juliette săm soi một lát rồi viết thêm vài người nữa, đánh dấu ai đã được thanh toán. Sau đó cô viết số tiền bên cạnh những người còn lại.

“Con nghĩ đây là thứ mẹ cần”, cô nói, trả mảnh giấy lại cho mẹ cô.

Beatrice nhíu mày, nhìn cô chằm chằm hồi lâu. “Làm sao con biết những gì viết trong sổ sách của Henry?”

“Con xem xét chúng hằng ngày và sửa lại con số mỗi khi bọn con điền thêm lợi nhuận từ việc may vá”, cô thừa nhận. “Chúng con không muốn mẹ biết khoản tiền tăng thêm từ đâu ra.”

Cô hy vọng mẹ sẽ nhẹ nhõm hơn vì cô đã thuộc lòng con số từ các tài khoản gần đây. Song ngược lại, Beatrice lại đùng đùng nổi giận. “Tại sao các con lại cảm thấy cần phải nói dối mẹ? Các con nghĩ mẹ quá ngu ngốc đến nỗi không phát hiện ra hay sao?”

Juliette bừng tỉnh, cô đã không nghĩ tới tình huống này. “Bọn con chỉ đang cố gúp mẹ thôi mà.”

“Mẹ biết các con số không đúng, nhưng chỉ là chẳng thể tìm ra chúng đã bị thay đổi ở đâu thôi”, Beatrice đanh giọng. “Con có biết mẹ phải mất bao nhiêu thời gian để cố gắng sửa lại cho đúng không?”

“Con xin lỗi. Lẽ ra con nên thú nhận sự thật với mẹ. Bọn con thực sự nghĩ khoản tiền tăng thêm sẽ được dùng tới.”

Mẹ cô thở dài. “Mẹ biết, con yêu. Nhưng mẹ không muốn đặt gánh nặng gia đình lên vai các con trong khi các con còn quá trẻ. Các con sẽ có đủ thời gian để làm việc đó khi đã lập gia đình.” Bà đứng dậy, đan tay vào nhau, cố mỉm cười.

“Còn bây giờ là lúc con nên cười thật vui vẻ và nhảy múa… trong những bộ váy lộng lẫy và tán tỉnh vài quý ông đẹp trai.”

Khuôn mặt mẹ cô đầy vẻ tiếc nuối, Juliette nhớ Beatrice đã không được làm những điều bà muốn. Bà lấy một sĩ quan, và Henry Andrew là người đàn ông duy nhất hỏi cưới bà.

“Con sẽ không bao giờ tìm được một quý ông nếu cứ dành hàng giờ với đống sổ sách và tài khoản này”, Beatrice nhấn mạnh. “Con có thể sống tốt nếu có những khoản tiền tăng thêm, nhưng đó không phải là cuộc sống dành cho một quý cô.”

“Nó có những lợi ích riêng”, Juliette mạo hiểm. Nở nụ cười giả tạo, cô nói thêm, “trong trường hợp con được gả cho một quý ông đẹp trai trác táng, thích thú chơi bài bạc.”

Cuối cùng, nét mặt mẹ cô dịu lại. Và Juliette nhận ra đây chính là cách tiêu khiểu của Beatrice. Bận rộn tìm chồng cho các con nghĩa là bà có thể thoát ra khỏi các vấn đề riêng của mình. Bao nhiêu năm qua, mẹ cô có hài lòng với cuộc sống riêng của bà không? Juliette không thể nhớ lần cuối cùng Beatrice mua nữ trang cho bản thân là khi nào.

Beatrice đứng lên, vuốt một lọn tóc xõa xuống thái dương Juliette. “Lúc quay lại London, ngài công tước đã hứa sẽ dùng ảnh hưởng của mình để giúp các con.” Bà rướn người, siết nhẹ tay cô. “Đó là một phần yêu cầu của chúng ta khi cậu ấy hỏi cưới Victoria. Con sẽ có một mùa Vũ hội và tất cả cơ hội mà ta không có.”

Đột nhiên Juliette chợt hiểu rằng tuy mẹ cô muốn giữ niềm kiêu hãnh bằng việc tự xây dựng lại ngôi nhà, nhưng Beatrice không ngần ngại chấp nhận sự giúp đỡ để đạt được địa vị xã hội cho con gái mình.

“Hứa với mẹ, con sẽ cố tìm một người chồng xứng đáng nhé!”, Beatrice nài nỉ. “Và không phải là bác sĩ Fraser, dù cậu ta rất mong muốn tán tỉnh con.” Bà đỏ mặt như thể không có ý xúc phạm người đàn ông đó. “Cậu ta là một bác sĩ tốt, đừng hiểu nhầm ý mẹ. Nhưng Juliette… cậu ta không phải người dành cho con.”

“Paul và con là bạn bè”, cô lơ đãng lên tiếng. “Chỉ thế thôi.”

“Thế thì con nên gọi là bác sĩ Fraser”, Beatrice chỉnh lại bằng một lời khiển trách tinh tế rằng gọi anh bằng tên như vậy là không phù hợp. “Cậu ta đã cố xin gặp con sáng nay, nhưng mẹ nói là con không đồng ý.” Bà rướn mày, “Đó là điều con muốn phải không?”

Giả định của mẹ cô không hẳn là vô căn cứ vì Juliette đã từ chối tất cả các cuộc thăm viếng từ vài tuần trước. Nhưng ngay cả khi nhún vai đồng tình với mẹ, một cảm giác đau nhói vì tiếc nuối vẫn bủa vây cô. Kỳ thực cô muốn gặp bác sĩ Fraser lần nữa.

Tự biện hộ cho mình rồi hôn lên má mẹ trước khi rời đi, Juliette lấy áo khoác len và khăn choàng một cách hoàn toàn vô thức. Cô ăn vận ấm áp, đi giày ống để bảo vệ đôi chân khỏi tuyết lạnh. Bên ngoài, không khí khô lạnh, mặt trời lấp lánh chiếu sáng quang cảnh mùa đông khắc nghiệt. Những dãy núi xám xuyên thủng bầu trời trong xanh, tuyết bao phủ ngày càng nhiều trên đỉnh núi nhọn hoắt.

Bên cạnh hàng rào, cô thấy Paul đang đứng đợi. Tim cô nhảy lên khi trông thấy anh vì cô hy vọng anh đã bỏ cuộc. Anh đang dõi theo cô, đôi mắt màu xanh sẫm phát ra tia nhìn bí ẩn. Chúng đỏ ngầu – một bằng chứng cho thấy đêm qua anh đã không ngủ.

Tại sao anh ấy lại đến đây nhỉ? Juliette bước ngang qua sân, nhận thấy anh đang mặc bộ đồ vải len kẻ vuông, hai tay đút trong túi áo len hoa văn màu nâu và xanh lá cây. Anh ăn vận như một người Scotland thực thụ, phong cách bề ngoài bớt thành thị hơn tối qua.

“Chào anh”, Juliette lên tiếng, hơi thở của cô đông cứng trong không khí.

“Chào em.” Ánh mắt anh quét khắp người cô, từ mái tóc đến đôi giày ống. Cô kéo áo khoác chặt hơn, không hiểu tại sao anh lại đến gặp mình. “Anh muốn nói chuyện với em lần nữa trước khi em trở lại London. Em sẽ đi dạo cùng anh qua thung lũng chứ?”

Cô do dự, liếc về phía ngôi nhà. Mẹ cô nói đúng. Cô không nên khuyến khích anh dù ngoại hình của anh có thế nào đi nữa cũng chẳng quan trọng. Anh đã trở nên hấp dẫn hơn nhiều sau nhiều năm không gặp, nhưng đôi khi, ẩn dưới vỏ bọc của một người đàn ông trưởng thành, vẫn có gì đó chưa thuần hóa bên trong.

Và mình thích thế, giọng nói tội lỗi chế giễu lương tâm cô.

Anh cho tay vào túi áo, lấy ra một quả bóng nhỏ đầy lông. “Anh mang tới cho em cái này.”

Bước lại gần hơn, cô nhận ra đó là một con mèo nhỏ màu trắng xám. Anh đưa nó cho cô, và đột nhiên cô hiểu ra rằng người đàn ông này sẽ không đối xử công bằng với trái tim mình. Anh hoàn toàn có ý định làm suy yếu sự phòng thủ của cô bằng bất cứ phương thức cần thiết nào.

Trong những lá thư đầu tiên, cô phàn nàn với anh là mẹ sẽ không bao giờ cho phép cô nuôi một con mèo. Chúng được ở trong chuồng gia súc nhưng không bao giờ được phép vào nhà.

“Anh vẫn nhớ”, cuối cùng cô lên tiếng.

“Ừ.”

Khi đón quả bóng lông từ anh, tay anh lướt qua tay cô. Cái chạm nhẹ này làm bùng lên cảm xúc cô đang cố khóa chặt. Mỗi khi ở gần người đàn ông này, trái tim cô lại bị dội một đợt tấn công mạnh mẽ. Để đánh lạc hướng mình, cô tập trung chú ý vào con vật nhỏ.

Con mèo gợi cho cô liên tưởng đến một con hổ trắng, đôi mắt toát lên vẻ thành thật, giống hệt cách Matthew nhìn cô lúc chào đời. Bỗng nhiên trái tim cô như ngừng đập và cô ôm con vật nhỏ sát vào mình. Móng vuốt nhỏ xíu của nó ẩn sâu vào trong tay áo cô, chú mèo nhỏ tỏ ta cực kỳ sung sướng.

Cẩn thận, trái tim cô nhắc nhở. Paul hiểu cô hơn bất kì ai, và dường như bất chấp lời cảnh cáo đó, anh hoàn toàn có ý định tán tỉnh cô. Như thế là không đúng.

“Em không nên giữ nó”, cô thành thật, ngay cả khi con mèo nhỏ huých nhẹ vào tay, phát ra tiếng meo nho nhỏ. “Trên đường bọn em trở lại London, có thể nó sẽ sợ hãi vì chẳng được một mái nhà thực sự.”

“Nhưng em muốn giữ nó mà.” Ánh mắt anh điềm tĩnh, và khi anh bước về phía thung lũng, cô thấy mình không thể làm gì khác ngoài việc đi theo anh. Juliette cuộn con mèo dưới áo khoác rồi bước phía sau.

Đầu óc cô đang gào thét bảo rằng hãy cảm ơn anh và bỏ đi. Tuy vậy, cô biết sẽ rất an toàn khi ở một mình với Paul Fraser dù như thế là không đúng mực. Cô cảm thấy sức mạnh ý chí của mình đang dần suy yếu. Anh vẫn đẹp trai, nhưng năm tháng nhuộm phong trần lên khuôn mặt anh, khiến nó có nét hung dữ. Anh luôn cao lớn, nhưng toát ra vẻ manh mẽ, cảm giác như anh sẽ không để bất kì ai làm tổn hại đến cô.

Cô lập tức dập tắt ý nghĩ đó. Đêm qua cô đã nói rất rõ ràng rằng giữa bọn họ sẽ chẳng có gì ngoài tình bạn. Anh nói gì cũn chẳng thể thay đổi được điều đó.

“Chúng ta sẽ không đi quá xa”, Paul nói thêm. “Chỉ vượt qua dãy lều của nông dân thôi.

Anh dẫn cô bước qua đám tuyết, trên con đường mòn do ngựa tạo thành, phủ một lớp băng tuyết trên mặt. Anh nắm tay cô để giữ cô khỏi ngã. Họ lặng lẽ đi bên nhau hồi lâu, hơi thở đóng thành băng. “Công tước đã hứa cho phép họ xây nhà ở đây.”

“Mẹ anh sẽ ở cùng họ à?”

Anh gật đầu. “Cả anh nữa. Đến khi nhà anh được làm lại.”

Cô giật mình. Trời rất lạnh, không phải ai cũng có thể ngủ trong lều. “Bọn trẻ nên ngủ trong chuồng ngựa cho đến khi chúng ta xây dựng được nhiều chỗ ở ấm áp hơn.”

“Chậc, như thế là tốt nhất. Bọn anh sẽ phân chia đất, bắt đầu xây dựng vào sáng mai. Chẳng bao lâu, chúng ta sẽ lại được an toàn và ấm áp.” Anh nắm tay cô, hơi ấm tỏa ra từ tay anh khiến cô cảm thấy thoải mái. Tuy nhiên, lúc họ đứng trên đỉnh đồi và nhìn xuống dãy lều, cô nhận thấy rõ dấu hiệu của sự mất mát.

Gia đình cô buộc phải chuyển đi bởi vụ hỏa hoạn, giống như hầu hết mọi người. Chỉ nhờ cuộc hôn nhân của chị cô mà cả gia đình mới có ngôi nhà trú chân, thay vì ở trong cái lều mỏng manh như lẽ ra phải vậy. Gió lạnh làm cô nắm chặt vạt áo khoác, lập tức hình dung ra cảnh rét buốt đó.

Và Paul đang ở với họ.

“Sẽ không ai phải sống như thế này nữa”, cô thì thầm. “Quá lạnh.”

“Đúng”, Paul đồng tình. “Anh đã chăm sóc cho người ốm suốt mùa đông. Sẽ có nhiều người chết trong tháng này. Cho dù là chết đói hay chết rét đều như nhau.” Anh chỉ về dãy lều đã từng nằm trên đất của cha cô. “Anh sẽ làm tất cả để cứu họ.”

Cô khoác tay, dựa sát vào anh khi họ bước đi. “Anh cần phải ở đây.”

Đặc biệt là sau các cuộc nổi dậy. Khi Bá tước Strathland đuổi người thuê đất, họ không còn nơi nào để đi. Điều đó đã khiến những người đàn ông trưởng thành nổi giận… nhưng khi người già và trẻ em bị buộc phải sống ngoài trời tuyết thì các cơn nóng nảy càng tăng cao.

“Trước tiên, họ không bao giờ nên bị đuổi ra khỏi đất của họ”, anh nhấn mạnh. “Strathland phải chịu trách nhiệm. Hắn ta và cả đám cừu chết tiệt.”

Giọng nói sắc nhọn của anh chứa đầy thù địch, cơn ớn lạnh quét qua người cô chẳng là gì so với thời tiết giá rét lúc này. “Ông ta quá quyền lực. Không ai trong chúng ta có thể ngăn được ông ta.”

“Anh sẽ ngăn chặn hắn, Juliette.” Anh quay lại, ánh mắt dữ dội. “Anh chưa bao giờ quên Strathland đã làm gì cha anh.”

Sự đe dọa và thù hận sục sôi trong giọng anh, cô lùi lại một bước. “Nếu chống lại Strathland, anh sẽ chỉ có con đường chết thôi.”

Chuyện cha anh bị treo cổ đã bao trùm bầu không khí ảm đạm lên tất cả bọn họ. Và mặc dù Ngài công tước Worthingstone đã giành được Eiloch Hill từ gã bá tước sau một canh bạc, chỉ vài nông dân tỏ ra háo hức được sống ở đây. Quá nhiều kỷ niệm buồn gắn với mảnh đất này.

“Anh không phải kẻ hèn nhát, Juliette. Và anh sẽ đảm bảo sao cho tất cả nông dân đều có được thứ họ cần. Sẽ không ai được đuổi họ ra khỏi nhà – nhất là Strathland.”

“Anh định làm gì?”

Ánh mắt anh xa xôi. “Anh có vài kế hoạch. Dòng họ của cha anh là…” Giọng anh nhỏ dần như đang cân nhắc lời nói. “Nghĩa là, bác anh có thể có vài ảnh hưởng.”

Juliette chờ anh tiếp tục, nhưng anh chẳng nói thêm gì. Khuôn mặt anh cau có như thể đang chìm trong suy nghĩ nào đó. “Người nông dân rồi sẽ ổn”, cô trấn an anh. “Bây giờ họ đã cách xa Strathland và có thể xây dựng lại cuộc sống của mình.”

“Em cũng thế chứ?”, anh nhắc nhở.

Mặc dù biết rõ anh đang nói đến ngọn lửa đã thiêu rụi nhà mình, nhưng cô lại liên tưởng đến vấn đề khác: Cách xa Strathland.

“Vâng”, cô đáp. Cô hoàn toàn có ý định tránh xa Bá tước Strathland hàng trăm dặm.

Paul dẫn cô đi xa khỏi đám nông dân, cô sửa lại tư thế của con mèo đang ngủ trên tay. Anh nhận thấy vẻ quan tâm của cô và hỏi, “Em định đặt tên gì cho nó?”

Cô nhún vai. “Em không biết. Anh có gợi ý gì không?”

Cái nhìn tinh nghịch hiện ra trên mặt anh. “Anh e là gợi ý của mình sẽ không phù hợp.” Anh dắt cô vào sâu trong rừng cho đến khi cây cối che kín hai người. Vài cành cây to bị bao phủ một lớp tuyết dày.

“Nhà anh đã từng có một con chó săn”, anh tiếp tục. “Em nhớ anh gọi nó là gì chứ?”

“Ngựa.” Cô gần như quên mất con chó vì đã quá lâu.

“Nó to gần bằng một con ngựa. Khi còn bé, anh đã cố cưỡi nó, nhưng con chó không muốn.”

Hình dung cảnh Paul cố cưỡi một con vật khiến cô bật cười. “Em không nghĩ nó thích thế.”

Juliette ngắm nghía con mèo, giơ nó lên. Bằng giọng trêu chọc, cô đề nghị, “Em có nên làm cho mọi người bối rối và gọi nó là Chó không nhỉ?”

Cơ mặt anh giãn ra. “Hoặc em có thể gọi nó là ‘Tâm trí của tôi’.”

Vẻ mặt cô ngơ ngác, anh giải thích. “Khi nó đi bắt chuột, em có thể nói ‘Tâm trí của tôi đang đi lang thang’ hay ‘Tôi bị mất Tâm trí rồi’.”

Cô rên rỉ với ý tưởng này. “Thật kinh khủng!”

“A.” Nụ cười xấu xa của anh khiến cô thấy ấm áp, và không cưỡng lại được, cô cũng cười theo. Anh khoác tay cô khi họ tiếp tục bước đi, nét mặt anh dịu lại trong chốc lát. Cô thấy lo lắng khi nhìn vào mắt anh. “Đã lâu rồi anh không thấy em cười.”

Cách anh nhìn cô lúc này không giống một người đàn ông chủ không định duy trì tình bạn. Anh hoàn toàn không chạm vào cô, chỉ đặt một tay lên cây bạch dương gầy guộc, nghiêng sát người vào cô. Trong cô bắt đầu dâng lên nỗi sợ hãi bởi ký ức tồi tệ đang gầm thét.

“Em không nên đi dạo với anh.” Cô điều chỉnh con mèo đang vặn vẹo trong tay và bắt đầu quay lưng.

“Chờ đã”, anh nói. Giọng anh chứa đựng mệnh lệnh của người không định để cô rời đi. Rồi anh ngừng lại và nài nỉ. “Làm ơn.”

Anh không hiểu. Dường như anh tin rằng nếu tiếp tục theo đuổi thì cuối cùng cô sẽ mềm lòng. Trước khi cô kịp từ chối, anh nói tiếp, “Anh không mời em ra đây để khiến em cảm thấy bị dồn vào ngõ cụt, Juliette. Nhưng đó là những điều anh muốn nói trước khi em rời khỏi Scotland.”

Cô không muốn nghe bất cứ điều gì. Ngay lập tức, da cô như bị kim châm bởi nhận thức mối quan tâm anh dành cho mình. Anh muốn cô, nhưng cô lại chẳng còn gì cho anh.

“Anh hy vọng em sẽ ở lại đây”, anh nói đơn giản.

“Em không thể”, cô khăng khăng. Mặc dù đã trở về dự đám cưới của chị gái, cô phải trở lại London với con trai cô. Cô nghĩ không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui được dõi theo Matthew lớn lên mỗi ngày. Nếu có thể, cô đã trở thành bảo mẫu của cậu bé. Nhưng các quý cô không được phép trở thành người hầu.

Con mèo bấm chặt móng tay vào tay áo Juliette, cô nhẹ nhàng gỡ nó ra. “Anh thực sự nên mang nó về, bác sĩ Fraser. Bây giờ bọn em đã không còn nhà cửa, nên em không thể giữ nó được.”

“Một con vật sẽ không quan tâm em sống ở đâu, miễn là nó thích.” Paul rướn tới gãi gãi và làm xù đám lông ở tai con mèo, rồi đón nó từ tay cô.

“Lúc này mọi chuyện còn khó khăn hơn”, cô thừa nhận. Và bất cứ khi nào nhìn con vật, cô sẽ lại nhớ đến Paul.

“Nó chẳng muốn gì ngoài được ở gần em”, Paul nói, đôi mắt xanh sẫm nhìn thẳng vào cô. “Ngủ cạnh em và được em để mắt tới với một nụ cười.”

Cô đỏ mặt vì nghi ngờ anh đang không nói về con mèo. Trước khi cô nghĩ ra lời nào để từ chối, anh đã cắt ngang. “Anh nhớ điều em đã nói trong chuồng gia súc đêm qua. Nhưng anh cũng nhớ chúng ta đã từng là bạn bè. Và anh không muốn mất tình bạn đó.” Ánh mắt anh khóa chặt mắt cô. Anh đã che giấu mọi cảm xúc trong ánh mắt, nhìn cô với sự kiên nhẫn mà cô không hiểu nổi.

“Tại sao?” Tay cô mở ra rồi xoắn lại, sợ hãi bởi thứ anh đang đòi hỏi.

“Bởi vì em xứng đáng được chờ đợi.”

Lời anh nói như xát muối vào trái tim đau đớn của cô. Nếu biết tất cả quá khứ của cô, anh sẽ không bao giờ nói thế. “Em phải quay lại London”, cô nhắc anh. “Và em cũng không biết khi nào sẽ trở lại.”

Nét mặt Paul nghiêm trang. Rồi ánh mắt anh lóe lên vẻ hiểu biết làm cô hết sức kinh ngạc. “Em đang chạy trốn.”

“Kh… Không. Em thích ở London. Em đã sống ở đó gần nhu suốt thời thiếu nữ.”

Anh săm soi cô hồi lâu với vẻ nghi hoặc. “Và đó là nơi em cảm thấy hạnh phúc nhất?”

Cô gật đầu không chút do dự. Tuy nhiên đó không phải là nơi hấp dẫn cô. Mà chính bởi vì nơi đó có một thiên thần ngọt ngào với nụ cười làm rạng rỡ trái tim cô. Và cô cảm thấy an toàn, không mối đe dọa nào khi ở nơi ấy. “Em không nghĩ sẽ gặp lại anh nữa.”

Anh trả con mèo cho cô. “Em muốn thế thật không?”

Mặt đỏ bừng, cô vội cụp mắt xuống để tránh nhìn anh. Nếu đẻ anh thấy ánh mắt cô, anh sẽ biết sự thật rằng cô hoàn toàn không muốn mất tình bạn của anh. Nhưng chẳng còn lựa chọn nào khác, đúng không?

“Để an toàn”, cô lặng lẽ nói. Cô không có quyền phá hủy bức tường bao quanh trái tim mình vì không thể mang lại hạnh phúc cho anh. Nó sẽ chỉ khiến cả hai bị tổn thương mà thôi.

Cơn giận dữ thắt chặt bên trong đến khi không thể chịu đựng nổi, cô nhìn sâu vào đôi mắt xanh sẫm của anh. Thật không công bằng! Cô muốn quay lại từ đầu, khi còn là thiếu nữ. Cô muốn thành thật với Paul, thú nhận chuyện đã xảy ra và được cảm nhận vòng tay anh ôm chặt mình.

Nhưng thừa nhận sự thật cũng chẳng thay đổi được gì. Cô không thể cho phép anh yêu cô, cũng như mạo hiểm với trái tim mình. Cô ôm con mèo bằng một tay, cưỡng lại thôi thúc đó và củng cố quyết tâm không nói gì hết. Anh sẽ chẳng hiểu được đâu.

Cô hít một hơi thật sâu rồi tiết lộ một sự thật. “Em sẽ rất nhớ anh”. Trước khi lòng can đảm biến mất, cô vươn tay chạm vào gò má thô ráp của anh.

* * *

Paul đăm chiêu nhìn những đụn tuyết hồi lâu, đầu óc rối loạn. Juliette muốn trở lại London. Tưởng tượng cảnh phải sống giữa những con phố đông đúc không phải là điều anh thích thú. Anh chấp nhận phải sống ở Edinburgh trong suốt thời gian nghiên cứu Y học, nhưng vẫn nhớ da diết vùng cao nguyên thân yêu này.

Đây là nơi anh thuộc về. Ở đây, anh được sống giữa gia đình, bè bạn, và họ cần anh. Rất nhiều người bị đuổi ra khỏi nơi ở. Ngoài mẹ anh – một nữ hộ sinh và thầy lang của họ ra thì Paul là người duy nhất có kiến thức về y học. Không hẳn là họ không có kinh nghiệm chữa bệnh, nhưng với quan điểm mê tín và phương pháp chữa trị từ cha ông để lại, đám nông dân thường khiến người bệnh gặp nguy hiểm hơn là chữa khỏi.

Một phần trong anh tin rằng nếu biết cách cầm máu vào đêm xảy ra cuộc tấn công thì anh có thể đã cứu được Malcom và người quản lý.

Lẽ ra anh có thể giữ được mạng sống của cha mình nếu hai người họ không chết.

Sau khi chuyển đến sống cùng bác Donald Fraser ở Edinburgh, anh đã thề sẽ có ngày trở thành bác sĩ. Tuy không thể lấy lại thứ đã mất, nhưng Paul muốn cứu sống những người khác. Anh đã thể hiện kiến thức chữa bệnh học được từ mẹ mình nhằm mục đích chứng minh anh xứng đáng được nhận vào trường Y.

Nhưng rồi, bác anh tiết lộ một bí mật đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời anh.

Cha anh chưa bao giờ kể về anh em của ông, chỉ nói rằng họ sinh ra ở Edinburgh và chỉ mình ông rời đi để kết hôn với Bridget. Paul chưa bao giờ được gặp ông nội cũng như những người họ hàng khác cho đến khi anh bị gửi đến đó.

Khi mẹ anh buộc anh phải rời khỏi nhà sau cái chết của cha, Paul đã nghĩ mẹ đang xua đuổi mình. Giờ đây, anh tự hỏi có phải bà đang cố hàn gắn quá khứ đau thương của chồng không. Bằng cách gửi Paul đến đó, bà đã cho anh cơ hội sống một cuộc đời khác. Tuy nhiên, ngay từ giây phút đầu tiên gặp người bác, anh đã nhận thấy Donald Fraser rất coi thường mình.

* * *

“Vậy là Bridget gửi cháu đến chỗ ta hả?”Donald lơ đãng cọ cọ chòm râu muối tiêu của ông. Hàng lông mày rậm rạp cau lại phía trên mắt khiến ông trông giống hệt một con cú đang nhìn chằm chằm vào con mồi. “Cháu bao nhiêu tuổi, chàng trai?”

“Cháu sẽ tròn mười tám tuổi trong vài tháng tới.” Paul đứng thẳng, cố tỏ ra già dặn hơn. Vẻ mệt mỏi đến kiệt sức vì anh ngủ được không quá vài phút mỗi lần trong suốt chuyến hành trình về phương nam từ Ballaloch. Hầu hết chuyến đi diễn ra trên xe ngựa kéo của nông dân và không có mui che nắng mưa. Anh đã trải qua những ngày khốn khổ, lạnh cóng trong bộ đồ ướt sũng.

“Thế nghĩa là cháu mười bày”, Fraser sửa lại. “Trả lời câu hỏi một cách chính xác và đừng làm phiền ta bằng thông tin chẳng liên quan.” Ông nheo mắt nhìn anh. “Mẹ cháu nói chúng đã treo cổ cha cháu vì tội lỗi do cháu gây ra. Có thật không?”

“Cháu không giết ai hết!” Nỗi thất vọng và đau khổ tràn ngập trong lòng anh khi nhớ lại chuyện đó. “Là do Malcolm, bạn cháu muốn tấn công.” Tay anh nắm chặt thành nắm đấm. “Cậu ấy và cha cháu bị giết bởi Bá tước Strathland.” Vẻ kinh ngạc trên khuôn mặt của người bác thậm chí còn khiến anh giận dữ hơn. Tại sao ông có thể cười được trong khi cuộc sống của Paul đang bị suy sụp cơ chứ?

“Ta đoán là cháu định trả thù cho cái chết của họ? Có đủ sự khôn ngoan của một cậu bé tự cho mình là người lớn.”

“Strathland sẽ phải trả giá cho những gì hắn đã gây ra.”

Frasser ngắm nghía anh từ đầu tới chân. “Cháu không một xu dính túi và vô dụng như một kẻ thất học vùng cao nguyên. Cháu là gì ngoài hạt cát nhỏ bé dưới chân tên bá tước đó chứ? Cháu chả là gì và sẽ mãi mãi như thế.”

Lời nhạo báng này đã đẩy cơn giận dữ của Paul vượt quá giới hạn. Anh túm áo Fraser, đẩy ông sát vào tường. “Đừng có nói với tôi kiểu đó! Tôi sẽ lật đổ hắn. Thế trên chính mạng sống của tôi.” Máu anh sôi sục với lời thề đó. Anh chẳng quan tâm có ai tin điều đó không, chỉ cần bản thân mình tin là được.

“Nếu cháu tấn công ông ta với cơn thịnh nộ kiểu này thì cái giá phải trả chính là tính mạng mình.” Fraser đẩy nhẹ anh ra, vuốt áo thẳng lại. “Cháu không có chút ý tưởng nào về việc cần phải làm gì trước khi hạ bệ một người.” Ông hạ giọng, đưa ra lý lẽ mà Paul không bao giờ ngờ tới, “Trừ phi cháu gạt bỏ tức giận sang một bên và chịu khó học hỏi.”

Lời nói này làm nguôi ngoai cơn giận của anh và cho anh chút hy vọng. “Ý bác là gì?”

“Cháu muốn ông ta rời khỏi Scotland, phải không?”

Paul gật đầu, từ từ thở ra. Nếu tên bá tước đó từ bỏ đất đai ở đó, họ sẽ được yên ổn mà không bị ai bắt phải sống thế nào. “Vâng, cháu muốn.”

Fraser bước tới một cái giá được xếp rất nhiều sách bọc da. Ông tìm kiếm và lôi ra một cuốn. “Giết! Strathland sẽ không làm ông ta biến mất. Những người thừa kế của ông ta sẽ chỉ tăng lên và lớn mạnh hơn. Một người quyền lực sẽ chỉ bị đánh bại bởi quyền lực lớn hơn. Còn một cậu bé như cháu lại chẳng có tí quyền lực nào.” Người bác đưa cho anh cuốn sách. “Cháu đọc được chứ?”

Paul gật đầu vì anh đã được cha dạy từ khi còn nhỏ. “Tàm tạm.”

“Tốt.” Ông ta chỉ vào giá sách. “Học vấn là con đường đưa tới quyền lực. Học thật nhanh và cháu có thể thay đổi chính mình.”

Anh nghi ngờ người bác đang cố đánh bại mình mà không cần dùng nắm đấm. Trong phút giây ngắn ngủi, Paul không tin những gì bác anh nói. Sách vở và học hành có ích gì khi đối phó với Strathland – kẻ có thể bẻ cong pháp luật theo ý muốn chứ?

“Tại sao cháu nên học? Cháu có thể chờ vài tháng quay lại và đốt cháy rụi nhà hắn ta.”

“Cách thức của kẻ hèn nhát”, Fraser khiến trách. “Rồi sau đó sẽ thế nào? Cháu sẽ tiếp tục chăn cừu đến khi bọn chúng đưa cháu ra xét xử và treo cổ à? Giống hệt như cha cháu hả?”

Trước khi Paul kịp hiểu chuyện gì diễn ra, Fraser đã túm cổ áo và đẩy mạnh. Đập đầu vào kệ gỗ, anh thấy một đám sao trước mắt. “Vậy mà ta cho rằng cháu thông minh hơn thế cơ đấy!” Người bác nhìn anh với vẻ chán ghét.

“Cháu thông minh”, anh gằn giọng, liếm máu ở khóe môi, “Nhưng sách vở sẽ không giúp báo thù cái chết của cha cháu.”

Fraser thả anh ra. “Vậy thì trở về Scotland đi, nếu cháu muốn thế. Giết chết bá tước và lãng phí cuộc đời cháu. Ta sẽ không thương tiếc vì mất đi một đứa cháu ngu ngốc.”

“Cháu không thể bỏ qua được”, Paul khăng khăng.

“Cháu không hiểu à, cậu nhóc? Chết thì rất dễ dàng. Cháu không muốn thấy ông ta phải trả giá cho tội lỗi của mình sao? Bắt ông ta phải sống trong cảnh nghèo khó mà ông ta đã đẩy cháu vào chẳng phải là cách trả thù tuyệt vời hơn ư?”

Paul đã không nghĩ tới chuyện đó, nhưng lời nói của người bác khiến anh do dự.

“Nếu là một cậu bé thông minh, cháu phải biết rằng kiên nhẫn sẽ đem đến sự thất bại lớn hơn cho bá tước. Hoặc là…” Bác anh nhún vai. “Cháu sẽ ẩn náu ở Edinburgh vài tháng, rồi quay lại Ballaloch cùng một khẩu súng lục và kết liễu cuộc đời của cả hai.” Ông lắc đầu, cong môi lên thành nụ cười đen tối. “Bởi vì cháu quá nóng lòng báo thù ngay lúc này, thay vì học cách làm thế nào để thực sự tiêu diệt được kẻ thù.”

Ông dệt lên một hình ảnh khác bằng lời nói: “Hãy tưởng tượng Strathland phải trải qua một mùa đông lạnh giá mà không có thức ăn, không một xu trong túi, nợ nần chồng chất, đến khi người thừa kế của ông ta chẳng còn lại gì mà hưởng. Ông ta sẽ phải bán bất kì miếng đất nào không bị buộc di chúc cho kẻ khác, có thể là đất đai ở Scotland. Hoặc ông ta sẽ bỏ nó để sống trong một nơi dơ dáy, bẩn thỉu ở hành phố, than thở về cảnh túng thiếu đến khi uống rượu tới chết. Đó mới là cách trả thù thích hợp. Đẩy ông ta xuống nơi ông ta thuộc về.”

Cơn giận ban đầu của Paul đã tan biến, và hình ảnh thất bại của tên bá tước còn hấp dẫn hơn cảnh hắn ta chết. Strathland chưa bao giờ biết đến cực khổ. Hắn chưa bao giờ phải nhịn đói đi ngủ cùng cái bụng rỗng đau đớn đễn nỗi không thể ngủ được. Hắn chưa bao giờ run cầm cập dưới lớp chăn mỏng hay phải đi giày vá trong lớp tuyết dày cộp của mùa đông. Giống như Paul phải chịu đựng.

“Cháu phải làm gì?”

“Quan sát những kẻ giàu có. Học hỏi và tìm ra điểm yếu của họ.” Bác anh ra hiệu về phía ngôi nhà ông. “Ta không phải người nghèo khổ, nhưng ta đã từng như cháu. Cha cháu có kể gì về ta không?” Đột nhiên mắt ông nheo lại, như thể đang che giấu bí mật nào đó.

Paul lắc đầu. “Cháu chưa bao giờ biết ông lại có anh em. Ông chưa từng kể về bác.”

Bác Donald nhún vai. “Kenneth là em út trong ba anh em. Bọn ta lớn lên trong ngôi nhà này.”

Paul giật mình. Anh không bao giờ đoán ra rốt cuộc cha mình được thừa hưởng bao nhiêu tiền trong gia đình.

“Có lẽ cháu đang băn khoăn tại sao Kenneth quay lưng lại với chúng ta. Cha cháu bỏ đi vì muốn cưới mẹ cháu. Ông ấy là người nóng tính và dễ bị đả kích, ông ấy đã nói sẽ không bao giờ quay lại hay có bất kì liên quan nào đến bọn ta.”

“Vậy tại sao mẹ lại gửi cháu cho bác?”, Paul hỏi.

“Bởi vì mẹ cháu thông minh hơn Kenneth. Bà ấy hiểu cháu là tất cả những gì còn lại của bọn ta. Sẽ có ngày toàn bộ những thứ này là của cháu. Nếu cháu chứng minh được rằng mình xứng đáng được như thế.”

* * *

Người ông mà anh chưa từng gặp hóa ta lại là một tử trước. Thậm chí đến tận lúc này, anh vẫn còn choáng váng bởi phát hiện đó.

Kenneth Fraser chưa bao giờ cư xử khác biệt, ông cũng chăn nuôi cừu như những nông dân khác. Dù Paul biết gia đình Fraser sống ở Edinburgh, nhưng cha anh không hề đến thăm họ lần nào. Bây giờ anh đã hiểu tại sao – là vì cha anh cố giấu diếm về tước hiệu của ông nội.

Bridget đã biết chuyện, đó là lý do tại sao mẹ lại gửi anh đi xa, sau khi cha anh bị xử tử. Không chỉ giữ an toàn cho anh khỏi người của Strathland, mà bà còn muốn tiết lộ sự thật này.

“Con sẽ học để trở thành một quý ông”, Bridget đã nói với anh. “Cha con chưa bao giờ muốn cuộc sống đó, nhưng con nên rời khỏi Ballaloch để tìm hiểu thế giới. Donald sẽ dạy con mọi thứ con cần biết.

Lúc đó, anh chẳng quan tâm đến cách cư xử hay học hỏi để trở thành quý ông và đã nói với bà như thế. Nhưng Bridget vẫn cương quyết, bây giờ anh đã hiểu vì sao.

Một tước hiệu. Sự giàu có. Cả hai đều không thể thay đổi cuộc đời anh. Bất cứ ai cũng sẽ rất biết ơn vì có tiền nhưng Paul biết quá rõ những người bà con của anh đang phải trải qua đêm đông lạnh giá mà chẳng có gì ngoài một túp lều và ngọn lửa.

Chúa chứng giám, anh không muốn tước hiệu. Liệu có đúng đắn không khi anh ẩn náu ở Edinburgh, dùng bữa tối với đồ ăn bằng bạc và pha lê, trong khi bạn bè, người thân của anh phải chịu khổ cực ở đây? Anh muốn là chính mình, quyết tâm báo thù bá tước và lật đổ đế chế sản xuất len của Strathland. Lý do duy nhất giúp tước hiệu có giá trị là nó cho anh cơ hội với Juliette.

Từ rất lâu anh đã mơ thấy mình đi dạo trong thung lũng cùng Juliette, trêu đùa cô, nhìn ngắm nụ cười tươi tắn của cô. Nếu bây giờ anh để cô đi London, sẽ chẳng còn cơ hội nào cho họ.

Paul xuyên qua màn tuyết, anh bước đi trên mặt đất lạo xạo. Suốt cuộc đời mình, anh luôn là người tin vào số mệnh. Từ giây phút nhìn thấy Juliette, anh đã biết cô chính là người dành cho mình. Và nếu anh phải chọn giữa việc theo cô về London hay sống tại đây mà không có cô, thì chẳng cần thắc mắc chuyện anh sẽ ở đâu.

Anh lê bước về phía dãy lều, hơi thở tạo thành những đám khói trong bầu không khí mùa đông giá lạnh. Mặc dù tuyết rơi nhẹ hơn ở bên này thung lũng, nhưng trời vẫn rét đậm rét hại. Anh bước qua những đống lửa sưởi và hy vọng ngày nào đó họ sẽ có những ngôi nhà ấm áp thay vì dãy lều tồi tàn này.

Lúc bước lên sườn đồi, ký ức nghiệt ngã về cái chết của cha anh lại hiện lên. Buổi xét xử là một trò hề của những kẻ đồng ý với bất kì điều gì Bá trước Strathland muốn. Cha anh bị treo cổ ở chính quả đồi này bởi tội giết người mà ông không phạm phải.

Tất cả là để bảo vệ đứa con trai duy nhất của ông.

Paul nhìn chằm chằm vào lớp tuyết lấp lánh. Không bao giờ anh quên cảnh cha mình đã chết như thế nào. Và dù anh rất muốn bất ngờ quay lại tấn công, ghim một viên đạn vào đầu tên bá tước đó, nhưng bác anh nói rất chí lý. Trả thù một cách nóng vội sẽ chỉ kết thúc bằng chính mạng sống của mình.

Tiền bạc và sự giàu có chính là quyền lực trong thế giới của gã bá tước. Đó là cách để hạ gục Strathland – không phải cuộc đột kích nửa đêm hay ăn trộm lương thực, dù anh đã làm cả hai chuyện đó trong năm qua. Paul từ chối cảm giác tội lỗi vì đã ăn trộm để nuôi đám trẻ đói khát. Nếu tên bá tước đó không đuổi họ ra khỏi nhà thì họ đã có thể dự trữ lương thực để sống trong suốt mùa đông. Ngược lại, người của Strathland đã cướp đoạt các khu vườn, lấy đi bất kì thức ăn nào chúng muốn.

Không, cách tốt hơn vẫn là khiến hắn phá sản. Trong trường hợp đó, London có lẽ là giải pháp tốt nhất cho tình huống tiến thoái lưỡng nan của Paul. Anh có thể nâng cao hiểu biết về kinh doanh len, học cách làm thế nào để khiến tên bá tước kia phải quỳ gối khi không ai thèm mua lông cừu của hắn. Tài sản của Strathland dựa trên việc bán len mà có. Không có nó, hắn sẽ mất tất cả.

Paul có thể tự tạo vị trí của mình ở đó, có lẽ từ một bác sĩ tư cho tới một nhà quý tộc. Như vậy, anh cũng có thể gần gũi Juliette.

Rồi dần dần, anh sẽ giành được cô.

* * *

“Chúng ta sẽ chuyển đi trong vài ngày tới”, Amelia nói với Juliette. “Mẹ đang ở phía sau kiểm tra xem có thứ gì còn sót lại từ ngôi nhà không. Chúng ta sẽ ở cùng dì Charlotte mà không phải nhà mình ở London vì mẹ không đi cùng.”

Nhắc tới dì Charlotte khiến tinh thần Juliette phấn chấn hơn bởi cô rất nóng lòng được gặp lại Matthew. Có lẽ giờ đây, con trai cô đã bắt đầu biết bò. Chỉ đơn giản nghĩ tới tiếng cười giòn tan của cậu bé là cô đã muốn quay lại. Đó là khoảnh khắc tươi sáng trong chuỗi ngày bi kịch tối tăm.

“Chị rất mừng”, cô bình luận.

“Và mẹ nói chúng ta có thể tiếp tục may.” Amelia cười sung sướng như thể đó là điều cô ấy muốn nói trước tiên. Juliette không buồn chỉnh lại em gái. “Nông dân sẽ may vá, còn chúng ta đưa thành phẩm theo cùng để bán.” Hạ giọng thành tiếng thì thầm, Amelia nói thêm, “Có lẽ chúng ta sẽ đổi được đồ lót mà Victoria làm lấy váy áo mới đấy.”

“Không thể được. Sinclair phải là người bán loại hàng đó. Không ai được biết chúng ta sản xuất áo nịt ngực và váy lót”, cô khiển trách. “Đó là một bí mật.”

Amelia ỉu xìu. “Em chỉ giả sử thôi.” Cô bé tỏ ra thất vọng vì phải giữ bí mật. Em gái cô đánh giá thấp tầm quan trọng của việc giữ tự trọng.

Con mèo mà Paul tặng được Juliette đặt tên là Dragon đang kêu meo meo, dụi vào chân cô trước khi ngồi phịch xuống chờ đợi cô vuốt ve tai nó. Juliette ngồi xuống sàn, vui vẻ thỏa mãn con vật. “Công tước đã hứa với mẹ là em và Margaret sẽ có một vũ hội ra mắt trong mùa xuân này. Em sẽ cần nhiều váy áo mới”, cô nói.

Amelia đến ngồi cạnh cô trên sàn nhà. “Thế còn chị?”

Juliette quỳ xuống. “Chị hoàn toàn không mong muốn có một vũ hội ra mắt. Chị chỉ muốn duy trì cuộc sống độc thân. Chị sẽ quản lý tài chính cho thương hiệu Aphrodite’s Unmentionables và hài lòng với công việc đó.”

Em gái cô nhìn cô chằm chằm, lo lắng. “Nhưng chị không thể Juliette. Như thế thì cô đơn chết đi được.”

“Chị thích cộng trừ các con số và kiếm tiền”, cô phản đối. “Chẳng có gì là cô đơn cả.”

Lời nói dối dễ dàng trượt qua môi, cô nói tiếp. “Ngoài ra, chị không thấy nhất thiết phải kết hôn mới có hạnh phúc. Chị sẽ được tự do, có thể đi bất cứ đâu chị muốn. Có lẽ một ngày nào đó, chị sẽ có ngôi nhà của riêng mình cùng một người bạn đồng hành lúc về già.”

“Hoặc có thể chị muốn kết hôn với bác sĩ Fraser hơn”, em gái cô cắt ngang. “Anh ấy khá đẹp trai. Và còn tặng cho chị một con mèo nữa.”

Juliette lắc đầu bực bội. “Đừng vô lý thế!” Cứ như một con mèo có thể khiến cô thay đổi nhận thức về đàn ông. Tuy thế, má cô vẫn đỏ bừng mỗi khi nhắc đến Paul.

Cuộc sống độc thân vẫn tốt hơn, cô thầm nhắc nhủ bản thân. Sẽ không bao giờ có mối nguy hiểm bị một người đàn ông chạm vào cô lần nữa.

Nhưng thật bất ngờ, Amelia im bặt, nhìn chằm chằm vào cô hồi lâu. Em gái cô nhíu mày, ánh mắt sáng rực. “Em không nghĩ chị đang nói thật. Em biết chị đã trốn ra ngoài để gặp anh ấy hai lần.”

Rõ ràng em gái cô có tố chất làm gián điệp giỏi. Má Juliette nóng rực, nhưng cô phẩy tay. “Đó chỉ là sự say mê vô hại khi bọn chị còn nhỏ, thế thôi. Bọn chị là bạn bè và chị hầu như không gặp anh ấy trong năm năm qua. Bọn chị chẳng nói gì cả, thật đấy.”

“Không.” Ánh mắt Amelia sắc sảo. “Còn hơn thế.” Cô săm soi chị gái, như có thể nhìn thấu nỗi đau thầm lặng bên trong người chị. Trong khoảnh khắc, nỗi lo sợ tràn qua Juliette, rằng em gái cô nghi ngờ nhiều hơn những điều cô bé thể hiện.

Cảm xúc trong quá khứ của cô không còn là vấn đề nữa. Quan trọng là tương lại – một tương lai không có Paul. Cô phớt lờ cảm giác vui buồn lẫn lộn xen với nỗi đau vì mất mát, bởi cô chưa bao giờ có anh để cùng bắt đầu.

“Quá khứ của chị chẳng ảnh hưởng gì tới em hay cuộc hôn nhân tương lai của em”, cô vui vẻ nói nhằm hướng Amelia tới đề tài khác. “Đã có quý ông lọt vào mắt em lúc chúng ta nghỉ lễ Giáng sinh ở London phải không?”

“Đừng cố thay đổi chủ đề!” Amelia bế chú mèo đang lim dim ngủ. “Khi chúng ta ở đó, chị chưa từng hứng thú với bất kì bữa tiệc nào.”

“Đừng ngốc thế! Cho dù không muốn một người chồng nhưng tất nhiên chị vẫn thích thú tham gia tiệc tùng.”

Nói dối. Tất cả đều là nói dối. Cô dành hết thời gian rảnh rỗi cho Matthew, ru cậu ngủ, lắc trống lắc để chọc cậu cười. Cô còn không buồn rời khỏi ngôi nhà ở London của dì mình để diễu hành như một đối tượng kết hôn tiềm năng.

Em gái cô thở dài. “Có thể chị đã quan tâm đến màu sắc của đám rèm cửa. Nhưng chắc chắn không phải bất cứ người đàn ông nào.” Rồi cô nằm xoài ra giường. “Nếu chị thực sự yêu bác sĩ Fraser, em không hiểu tại sao chị lại không cưới anh ấy?”

“Chị đã nói là chị không yêu anh ấy”, Juliette đáp. “Hơn nữa, cha mẹ sẽ không chấp nhận. Anh ấy không có tước hiệu.”

“Cha không phả là nam tước cho đến khi thừa hưởng tước hiệu này từ anh trai ông một năm trước”, Amelia chỉ ra. “Và ngay cả bây giờ, em vẫn nghi ngờ liệu chúng ta có thể thu hút bất kì quý ông nào không. Em thì quá trẻ, Margaret quá kén chọn, còn chị lại quá u sầu. Chị làm em nhớ đến một bá tước rầu rĩ nào đó.”

“Castledon”, Juliette sửa lại.

“Phải, chính anh ta. Hai người hẳn sẽ là một cặp hoàn hảo, vì chị hiếm khi mỉm cười hay tỏ ra vui vẻ.”

Cô thực sự tệ như vậy sao? Juliette vớ cái gối đập vào người em gái. “Thỉnh thoàng chị vẫn cười mà.”

“Không thường xuyên.” Amelia vồ lấy cái gối to hơn đập lại cô.

“Có phải em đang cố đánh chị đến bật cười phải không?”, cô trêu chọc. “Khi chúng ta dự tiệc, em sẽ dùng quạt đánh chị nếu chị không cười hả?”

“Ý kiến đó không tồi đâu”, Amelia trầm ngâm. “Tuy nhiên em nghĩ chị sẽ bị bầm dập trong nháy mắt.”

Juliette không thể nhịn cười lúc em gái cô tiếp tục tấn công, sử dụng gối như cái dùi cui. “Dừng lại, Amelia!” Cuối cùng cô trượt chân, ngã vật ra giường nằm thở dốc vì cười quá nhiều.

Lần cuối cùng họ cư xử như những đứa trẻ là khi nào nhỉ? Cô không thể nhớ nổi nữa. Nhưng cảm giác thật dễ chịu vì được cười như vậy sau khoảng thời gian quá dài.

“Còn bây giờ. Hãy hứa với em, chị sẽ tìm cái gì có thể giúp chị tươi cười. Mỗi ngày nhé!”

Amelia đề nghị.

“Chị hứa.” Juliette sửa sang lại tóc, nhưng trước khi họ có thể đi xuống tầng dưới, em gái cô chặn cô lại.

“Và hứa với em chuyện này nữa. Nếu chị yêu Paul Fraser và muốn anh ấy là chồng chị, vì Chúa, hãy cho anh ấy cơ hội. Rồi cha mẹ sẽ đồng ý.”

Juliette bị bỏ lại, miệng vẫn há hốc vì em gái cô đã đi xuống cầu thang trước.

* * *

“Thưa ông chủ, ngôi nhà đã bị cháy.”

Không có tin tức nào vui như vậy với Brandon Carlisle – Bá tước của Strathland. Nông dân đã chuyển tới Eiloch Hill và gia đình Andrew không còn lựa chọn nào khác ngoài trở lại London. “Tốt. Đưa ra một đề nghị mua lại khu đất đó với họ.”

Giờ là lúc tận dụng sự bất hạnh của họ. Họ đã mất mọi thứ, và khi hắn đề nghị một cái giá hợp lý, họ sẽ dễ dàng chấp nhận. Hắn ta không nghi ngờ chuyện đó.

“Trước đây, họ đã từ chối mọi đề nghị của ta”, Melford nhắc nhở. “Tôi nghi ngờ họ sẽ thay đổi.”

“Anh sai rồi.” Brandon giơ tay lên, gạt bỏ dự đoán của người quản lý. Lần này, Phu nhân Lanfordshire sẽ không có lựa chọn. Hắn quan sát thấy trong những năm qua, số lượng đầy tớ của họ đã giảm dần, giờ chỉ còn lại một quản gia và một người đánh xe, đại tá Lanfordshire vẫn chưa trở về từ chiến trường và không cách nào biết liệu ông ta có về hay không.

Chuyện này khiến Brandon phát cáu vì hắn đã mang lại cho họ nhiều cơ hội để chấm dứt cảnh nghèo đói. Thậm chí hắn còn đề nghị cưới một trong những cô con gái của họ, và sẽ trao quyền thừa kế cho những đứa con tương lai của hắn lẫn cô ta nữa. Nhưng Phu nhân Lanfordshire vẫn tiếp tục từ chối, bất chấp thực tế là tiền của họ đang cạn dần.

Và Juliette cũng từ chối hắn.

Máu trong người hắn sôi lên mỗi khi nhớ lại chuyện này. Kết hôn với một người đàn ông với địa vị như hắn là một đặc ân mà cô phải cầu xin mới phải. Hắn muốn cô, và hắn có một tước hiệu danh giá hơn tước hiệu của cha cô nhiều. Cô không hiểu rằng được hắn để mắt tới là một vinh dự thế nào sao?

Juliette quyến rũ như thế, trẻ trung và ngây thơ với đường cong đầy nữ tính. Với ký ức đó, hắn phải thay đổi tư thế ngồi. Hắn ta vẫn thường nhấm nháp khoảnh khắc đè cô xuống và chế ngự đến khi cô buộc phải chấp nhận cơ thể hắn bên trong cô. Tiếng khóc đau đớn của cô đã kích thích và khiến hắn căng cứng mỗi khi nhớ lại.

Dù có thể có bất kì người phụ nữ nào, nhưng hắn muốn một người lặng lẽ vâng lời, luôn biết vị trí của mình cũng như nhận ra rằng hắn đáng giá hơn hàng nghìn tên đàn ông cao nguyên khác.

Khi Juliette từ chối lời cầu hôn, hắn không còn lựa chọn nào khác ngoài trừng phạt cô. Cô nên lấy làm tự hào vì được quan tâm. Và sau khi bị hắn cưỡng bức, cô nên bị gia đình bắt phải cưới hắn mới đúng.

Thay vào đó, cô lại ẩn náu ở nhà dì. Không thể nào đề nghị kết hôn với cô khi chỉ đơn giản là cô biến mất. Nhưng bây giờ, Juliette đã quay lại, nghĩa là hắn có cơ hội theo đuổi cô lần nữa.

Hắn là bá tước vùng Strathland, và tài sản của hắn chỉ có thể tăng lên khi phát triển đế chế len. Hắn có thể lấy bất kì ai làm vợ nếu muốn.

Và hắn nhất định sẽ có Juliette.

Brandon mỉm cười. Cô sẽ nhanh chóng học được rằng hắn không phải là người dễ dàng từ bỏ. Có nhiều cách để đảm bảo cô sẽ đồng ý một cuộc hôn nhân và hắn hầu như không nghi ngờ gia đình cô cũng sẽ chấp thuận.

Nhất là lúc này họ gần như chẳng còn gì cả.